Hoạt động của đại biểu
Quốc hội - Thực trạng và giải pháp
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và đại diện cho ý chí,lợi
ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.Sự đại diện
đó thể hiện một cách trực tiếp thông qua những đại biểu Quốc hội.Đó là những
công dân ưu tú được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra, đại diện cho Nhà nước thực
hiện quyền lực nhà nước,là cầu nối quan trọng giữa chính quyền và nhân dân.Với
nhiệm vụ quan trọng như vậy,mọi hoạt động của đại biểu Quốc hội ảnh hưởng trực
tiếp đến vấn đề chính trị và đời sống nhân dân.Sau đây em xin trình bày những ý
kiến của mình về vấn đề “ Hoạt động của
đại biểu Quốc hội-Thực trạng và giải pháp” góp phần làm rõ những việc mà Quốc hội
hiện nay đã và đang làm cùng những điểm hạn chế để tìm ra những giải pháp giúp hoạt động của đại biểu Quốc hội
có hiệu quả hơn.
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Quốc hội
Theo Điều 83 Hiến pháp 1992: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, quốc phong, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu
về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt đông của
Nhà nước
2. Đại biểu Quốc hội.
Theo điều 97 Hiến pháp 1992: Đại biểu Quốc hội là người
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở
đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước.
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu
sự sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ảnh trung thực ý kiến và nguyện vọng
của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp
xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những
yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn dốc, theo dõi việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền
đó.
Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật
và nghị quyết của Quốc hội.
- Có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh
án Toàn án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Có quyền trình dự án luật, trình kiến nghị về luật,
pháp lệnh theo trình tự do Pháp luật quy định ( Điều 48 Luật tổ chức Quốc hội
)
- Quyền tham gia bầu cử, có thể được bầu vào cơ quan
nhà nước, cơ quan lãnh đạo.
- Quyền bất khả xâm phạm và miễn tố.
- Quyền tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước tại các kì họp của Quốc hội.
2.3.Những bảo đảm cho hoạt động của ĐBQH.
-
Không có sự đồng ý của
Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy
ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố ĐBQH.
-
ĐBQH được
tạo điều kiện thuận lợi để làm nhiệm vụ đại biểu và được cung cấp đầy đủ tài liệu
và thông tin cần thiết để hoạt động.
-
Nhà nước
bảm đảm kinh phí hoạt động của ĐBQH.
- Hoạt động xây dựng pháp luật
- Hoạt động giám sát
- Hoạt động tại các kì họp
- Hoạt động tiếp xúc cử tri
- Hoạt động đối ngoại
II.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP
1.1.Hoạt động
xây dựng pháp luật
- Cơ sở của hoạt động này dựa trên nhiệm vụ và quyền hạn
được quy định trong Hiến pháp thông qua năng lực lập pháp của các ĐBQH trên nhiều góc nhìn.
- Những kết quả đạt được:
Hoạt động xây dựng pháp luật của các ĐBQH trong những năm gần đây đạt kết quả rất
khả quan. Những vấn đề cần thiết được các đại biểu nghiêm túc đưa ra trong các
kì họp và được đóng góp ý kiến tương đối đầy đủ. Các ĐBQH đã có sự nhạy bén
trong việc nhìn nhận tình hình, xuất phát từ thực tế để đưa ra những đạo luật,
văn bản luật cần thiết và có tính hợp lí cao. Quá trình sửa đổi, bổ sung luật
cũng được tiến hành tích cực, phù hợp hơn với thực tế đất nước. -
Một số hạn chế:
Hoạt dộng đề xuất xây dựng và trình dự án luật không
được mãnh mẽ, chỉ dừng lại ở góc nhìn cá nhân. Quyền sáng kiến lập pháp này chủ
yếu dừng lại ở khâu đề xuất, việc trình những dự án luật là rất ít. Nguyên nhân
là do phần lớn các ĐBQH không qua đào tạo luật, hạn chế về điều kiện: quy trình
rõ ràng, cụ thể, nguồn tài chính, chuyên gia hỗ trợ… Hơn nữa, tính kỉ luật của
các cơ quan soạn thảo luật còn chưa cao, đa số vi phạm về thời gian, ảnh hưởng
đến chất lượng và tiến độ thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội. Trong thời gian gần đây, số lượng dự án luật trình Quốc hội xem xét,
thông qua tạo mỗi kì họp tăng lên trong khi đó Quốc hội vẫn họp 1 năm 2 kì gây
sức ép lớn, khó đảm bảo về tiêu chuẩn. Đồng thời, việc thu nhận những ý kiến về
việc sửa đổi và bổ sung luật còn nhỏ lẻ, các đại biểu chưa thể tập hợp một cách
có hệ thống.
1.2. Hoạt động
giám sát
- Cơ sở cho hoạt động giám sát được quy định tại Điều 98 Hiến pháp 1992
và Điều 49 Luật tổ chức Quốc hội 2001.
- Về hoạt động chất vấn:
+ Những điểm đạt được:
Nhìn chung trong những năm gần đây, hoạt động giám sát
của Quốc hội nói chung và của ĐBQH nói riêng có những tiến bộ rõ rệt: tính dân
chủ, công khai minh bạch được mở rộng; hiệu lực, hiệu quả tuừng bước được khẳng
định. Các câu hỏi được mang ra trong quá trình chất vấn là những vấn đề bức xúc
của xã hội, thể hiện sự sát sao của các ĐBQH đối với tình hình thực tế của đất
nước ở các địa phương, ở các lĩnh vực. Trình tự tiến hành chất vấn và trả lời
chất vấn tại các kì họp là hợp lí, đáp ứng được yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu
quả.
+ Một số hạn chế:
Tại một số kì họp, do thời gian có thời hạn trong khi
có rất nhiều vấn đề được đưa ra nên Quốc hôi không thể đi đến cùng những vấn đề
mà xã hội quan tâm. Có rất ít các ĐBQH thực hiện quyền chất vấn tại các kì họp
và kĩ năng chất vấn còn chưa cao. Giữa hai kì họp của Quốc hội, số chất vấn được
gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội và những cơ quan bị chất vấn rất ít thậm chí
không có. Các ĐBQH chưa thực hiện các quy định vủa Quốc hội về hoạt động chất vấn
cho nên đáng ra chất vấn là công cụ hữu hiệu nhưng trong thực tế nó lại chưa
phát huy hết được công dụng.
- Về hình thức giám
sát giải quyết đơn thư kiếu nại, tố cáo của nhân dân: + Những kết quả đạt được:
Hoạt động tiếp dân, giải quyết khiếu nại có nhiều thay
đổi rõ rệt. Số lượng buổi tiếp dân, số lượng đơn khiếu nại được giải quyết tăng
lên chứng tỏ hoạt động tích cực của các ĐBQH.
– Hạn chế: ĐBQH chỉ là cầu nối giữa nhân dân với các
cơ quan Nhà nước nên hiệu quả giải quyết phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của
các cơ quan chức năng. Tỷ lệ trả lời của các cơ quan chức năng vẫn ỏ mức thấp,
mang tính chất chung chung mà chưa đưa ra biện pháp giải quyết triệt để.
- Về hình thức
giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa
phương.
+ Những kết quả đạt được:
Trong thời gian gần đây đã có nhiều điểm tiến bộ. Các
DDBQH chủ động hơn trong việc giám sát, tham gia đầy đủ, nghiêm túc các hoạt động
giám sát góp phần năng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Sự phối hợp giữa
các cơ quan chức năng với các ĐBQH trở nên chủ động và ngày càng có kết quả
+ Một số hạn chế:
Hoạt động giám sát còn nhiều bất cập do chưa có cơ chế
pháp lí cụ thể về quyền giám sát của ĐBQH, đoàn ĐBQH cũng như các quy định chế
tài phù hợp trong công tác giám sát. ĐBQH kiêm nhiệm nên việc tham gia Đoàn
giám sát đôi khi bị hạn chế và bị động về thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu.
Xuất hiện sự quá tải, chồng chất về nôi dung trong hoạt động giám sát hơn nữa
việc theo dõi kết quả giải quyết sau giám sát chưa thật gắt gao.
1.3. Hoạt động
tại các kì họp
- Những kết quả đạt được:
Với những quyết sách quan trọng, các đại biểu đã có những
cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau và đưa ra những phương thức xử lí vô cùng mạnh
mẽ. Không chỉ tham gia đóng góp ý kiến, các đại biểu còn báo cáo tổng kết những
gì đã và đang làm được đồng thời nhận định những vấn đề hạn chế.
- Những hạn chế:
Nội dung tại các kì họp còn mang tính hình thức hơi
cao, nội dung còn chung chung, chưa sâu sát, những giải pháp đưa ra chỉ dừng lại
ở lí luận mà chưa cụ thể hóa. Các đại biểu gặp khó khăn trong việc tiếp cận và
tìm hiểu thông tin liên quan đến việc quyết đinh vấn đề của đất nước.
1.4. Hoạt động
tiếp xúc cử tri.
- Những kết quả đạt được:
Hoạt động tiếp xúc cử tri của các ĐBQH ngày càng được
chú trọng và có những đổi mới về nội dung cũng như hình thức tổ chức qua đó
giúp ĐBQH có thể thu nhận được ý kiến mang tính chất chuyên sâu về những vấn đề
bức xúc hiện nay của cư tri và nhân dân. Theo đó chất lượng của hoạt động tiếp
xúc cử tri nhìn chung đã có chuyển biến đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp.
– Những hạn chế:
Thời gian dành cho hoạt động tiếp xúc cử tri còn hạn
chế do nhiều ĐBQH kiêm nhiệm nên rất khó bố trí. Trong quá trình tiếp xúc cử
tri, nhiều ĐBQH còn bộc lộ yếu điểm trong việc báo cáo trước cử tri. Cách báo
cáo dàn trải, lướt nhanh còn mang nặng hình thức. Ý kiến giải quyết các yêu cầu
kiến nghị của cử tri từ ĐBQH thường không thỏa đáng, gây bức xúc cho cử tri.
Năng lực yếu kém cũng là một nguyên nhân cho vấn đề này.
1.5. Hoạt động
đối ngoại
- Những kết quả đạt được:
Hiện nay, hoạt động này diễn ra thường xuyên hơn,
phong phú hơn. ĐBQH không những có thể kháo sát tình hình đời sống nhân dân,
tìm hiểu về những đặc trưng công việc, tính chất nghề nghiệp của các doanh nghiệp,
tổ chức, đoàn thể mà còn có điều kiện giao lưu, học hỏi nhằm nâng cao hiểu biết,
năng lực, kinh nghiệm trong công việc và trong đời sống.
- Những hạn chế
:
Số lượng các hoạt động đối ngoại diễn ra chưa nhiều,
điều này phụ thuộc vào thời gian, tính chất công việc của các đại biểu mà nhất
là các đại biểu không chuyên trách. Cùng với đó là thời lượng dành cho những hoạt
động này chưa nhiều, chưa rộng khắp.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của ĐBQH.
Dựa vào những hạn chế trên thì giải pháp quan trọng đầu
tiên đó là nâng cao trình độ của ĐBQH về chuyên môn, kinh nghiệm hoạt động để
có thể phát huy tối đa vai trò của người đại biểu. Đặc biệt cần nâng cao kiến
thức về luật để có thể làm được các dự án luật góp phần làm tăng hiệu quả của
hoạt động xây dựng pháp luật.
- Cần tăng thời
gian hoạt động của các đại biểu bằng cách tăng số lượng đại biểu chuyên trách
hoặc tăng thời gian hoạt động của đại biểu không chuyên trách bởi khối lượng
công việc thì nhiều trong khi đó lại bị hạn chế về thời gian dẫn đến các tình
trạng như : các ĐBQH không thể giải quyết hết hoặc giải quyết không triệt để những
vấn đề bức xúc của nhân dân; theo sát, đi sâu, phản ánh kịp thời, đúng mức những
vấn đề nóng bỏng của xã hội.
- Nâng cao sự ủng hộ của Nhà nước về chế độ, sự phối hợp
hoạt động của các cơ quan chức năng. Hoạt động xây dựng luật sẽ trở nên dễ dàng
hơn, có khả năng được thực tế hóa cao hơn nếu có sự giúp đỡ của các chuyên gia.
Trong hoạt động tiếp xúc cử tri, cần đáp ứng những điều kiện cần thiết như địa
điểm, cơ sở vật chất… để đảm bảo cho các đại biểu và cử tri thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình.
- Nâng cao tính kỉ luật trong công tác : hạn chế đến mức
tối thiểu sự chậm trễ về thời gian, nghiêm túc trong việc thực hiện các chương
trình, kế hoạch; trong các hoạt động giám sát, tiếp xú cử tri…
- Nâng cao tính chủ động của các chủ thể tham gia: các
đại biểu cần tích cực tìm hiểu, nghiên cứu kĩ những thông tin cần thiết phục vụ
cho các buổi họp, hội thảo…
- Hoàn thiện hệ
thống pháp luật và các quy định hướng dẫn cho hoạt động của các đại biểu. Cần
có một hệ thống pháp lí, nguyên tắc, hướng dẫn cụ thể. Các văn bản pháp luật
ban hành phải có sự thống nhất về nôi dung, không chồng chéo mâu thuẫn để giúp
các đại biểu chủ động hơn trong các hoạt
– Sử dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ, công nghệ
thông tin vào haotj động của các ĐBQH.
– Quốc hội cần quy định trách nhiệm cụ thể đối với các
cá nhân, tổ chức có liên quan nhằm nâng cao tính tích cực, chủ động và tinh thần
trách nhiệm trong hoạt động.
C.KẾT LUẬN
Thông qua việc tìm hiểu thực trạng hoạt động của các
ĐBQH đã thấy được những mặt tích cực – tiêu cực, điểm mạnh – điểm yếu của tình
trạng hoạt động của ĐBQH hiện nay. Từ đó tìm ra những giải pháp cơ bản giúp cho
hoạt động của ĐBQH hiệu quả hơn đem lại lợi ích, thể hiện vai trò ngày càng to
lớn của Quốc hội. Và đó không chỉ là trách nhiệm của riêng đại biểu mà còn là
trách nhiệm của Nhà nước, của chính quyền các cấp và quan trọng là sự phối hợp
của người dân để đại biểu có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật
Hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân; 2009
2. Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội, Nxb Tư pháp; Hà Nội ;
2006
3. Tạp chí Luật
học số 1/2004