About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tâm lý học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tâm lý học. Hiển thị tất cả bài đăng

Phân tích vai trò của hoạt động giáo dục trong các giai đoạn tố tụng ( điều tra vụ án hình sự, xét xử vụ án hình sự; giáo dục cải tạo phạm nhân). Rút ra kết luận cần thiết

Phân tích vai trò của hoạt động giáo dục trong các giai đoạn tố tụng ( điều tra vụ án hình sự, xét xử vụ án hình sự; giáo dục cải tạo phạm nhân). Rút ra kết luận cần thiết
MỞ ĐẦU
Tâm lý học nói chung và tâm lý học tư pháp nói riêng luôn có tầm quan trọng lớn trong hoạt động tố tụng hình sự. Trong các  giai đoạn tố tụng khác nhau thì vai trò của các hoạt động tâm lý lại càng thể hiện rõ ràng, nó phụ thuộc vào nhiệm vụ mà giai đoạn đó phải thực hiện. Có rất nhiều hoạt động tâm lý khác nhau trong các giai đoạn tố tụng như: hoạt động nhận thức, thiết kế, giáo dục, giao tiếp… Việc nghiên cứu vai trò của hoạt động giáo dục giúp ta có thể hiểu toàn diện và sâu sắc hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn. Vì vậy, em xin chọn đề tài số 03: “Phân tích vai trò của hoạt động giáo dục trong các giai đoạn tố tụng ( điều tra vụ án hình sự, xét xử vụ án hình sự; giáo dục cải tạo phạm nhân). Rút ra kết luận cần thiết” để làm bài tập học kỳ của mình. 

NỘI DUNG
I.  KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1.     Khái niệm hoạt động giáo dục
Hoạt động giáo dục được coi là một chức năng tâm lý cơ bản của hoạt động tư pháp, theo đó Hoạt động giáo dục là quá trình tác động có hệ thống và có mục đích đến tâm lý người bị giáo dục, để luyện tập cho họ những thói quen cũng như những phẩm chất  tâm lý mà người giáo dục mong muốn.
2.     Mục đích của hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp
Thứ nhất, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đồng thời tăng cường ý thức pháp luật của mọi công dân. Thông qua hoạt đông của các cơ quan bảo về pháp luật trong các quá trình tố tụng để giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của công dân.
Thứ hai, phòng ngừa hành vi tội và hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế cho thấy nhiều người thiếu hiểu biết, coi thường pháp luật nên cần phải giáo dục ý thức pháp luật cho mọi người vừa có tác dụng răng đe vừa có tác dụng phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, giáo dục, cải tạo và cảm hóa người phạm tội. Đây là mục tiêu chủ yếu, quan trọng nhất của hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp. Giáo dục phải hướng đến loại bỏ những phẩm chất tâm lý  tiêu cực ở người phạm tội làm nảy sinh và phát triển các phẩm chất tâm lý tích cực để đưa họ trở về với xã hội.
3.     Đặc điêm của hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp
Trước hết, hoạt động giáo dục là một quá trình tác động không mang tính tự phát mà là quá trình tác động có chủ định, có mục đích rõ ràng. Quá trình giáo dục trong hoạt động tư pháp là một quá trình tác động có hệ thống, có nghĩa là chức năng giáo dục được tiến hành một các đồng bộ và có sự kế tục.  Kết quả của hoạt động giáo dục ở giai đoạn trước sẽ là tiền  đề, là cơ sở để tiến hành hoạt động giáo dục ở giai đoạn tiếp theo.
Thứ ba, hoạt động giáo dục không những hướng tới các công dân mà còn hướng tới một đối tượng đặc biệt, đó là người phạm tội.
Thứ ba, hoạt  động giáo dục trong hoạt động tư pháp được tiến hành trong những điều kiện đặc biệt. Trong giai đoạn điều tra, hoạt động giáo dục được tiến hành thông qua hoạt động điều tra như xét hỏi, đối chất… Trong giai đoạn xét xử, hoạt động giáo dục được tiến hành thông qua hoạt động xét xử công khai, trực tiếp tại phiên tòa … Trong giai đoạn cải tạo, hoạt động giáo dục được tiến hành trong điều kiện của trại cải tạo, thông qua các chế độ giam giữ, sinh hoạt, học tập và lao động đặc biệt dành cho phạm nhân.
Thứ tư, giáo dục trong hoạt động tư pháp mang tính cưỡng chế cao. Người phạm tội là người không phù hợp với xã hội. Để họ có thể hòa nhập với cộng đồng và được xã hội công nhận thì buộc phải giáo dục và cải tạo lại nhân cách của người phạm tội.
II.     VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG
1.     Vai trò của hoạt động giáo dục trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, vai trò của hoạt động giáo dục chủ yếu được thực hiện thông qua các điều tra viên. Trong giai đoạn này, điều tra viên cũng đã bắt đầu thực hiện chức năng giáo dục của mình mặc dù đây không phải là hoạt động chính, chủ yếu của giai đoạn này. Hoạt động giáo dục này được thể hiện cụ thể như sau:
Trong khi tiến hành điều tra, mỗi một cử chỉ, hành vi của điều tra viên cần được cân nhắc và mang tính giáo dục nhất định. Có như vậy cuộc hỏi cung mới có kết quả tích cực. Điều tra viêc có thể cung cấp các tin tức bổ sung cho người làm chứng, người bị hại, hoặc gợi ý, động viên họ để đánh giá, giải thích đúng nội dung sự kiện, cũng như các hiện tượng xoay quanh sự kiện. Do đó trong giai đoạn điều tra cần phải xây dựng cơ sở cho hoạt động giáo dục sau này. Sự hình thành cơ sở giáo dục cho các giai đoạn hoạt động tư pháp khác có thể biểu hiện bằng sự thu nhập thông tin cần thiết để tổ chức quá trình giáo dục tiếp theo của Tòa án và các tổ chức khác được giao nhiệm vụ giáo dục người phạm tội. Điều tra viên cũng cần thu nhập những thông tin của bị can, để các cơ quan tiếp theo sẽ tiếp tục giáo dục họ: đó là những thông tin về nhân phẩm, phẩm chất, thói quen, môi trường sinh sống… và hình thành ý thức pháp luật cho bị can. Thông qua tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học của điều tra viên để bị can nêu gương  điều tra viên trong việc tuân thủ pháp luật. Qua đó, tiến hành giáo dục ý thức pháp luật  cho các công dân và thực hiện việc phòng ngừa tội phạm.
Hoạt động giáo dục của điều tra viên nhằm loại bỏ những tổn thương ở tinh thần của người bị hại và người làm chứng. Bởi vì hành vi của bị can có thể gây ra cho những người này những trạng thái tâm lý tiêu cực. Bằng những hành động mang tính giáo dục và nhân văn, điều tra viên có thể giúp họ trấn an lại tinh thần, bĩnh tĩnh nhớ lại những tình tiết quên của vụ án hay khai thật sự việc, loại bỏ những ý nghĩ tiêu cực, nuôi dưỡng những ý nghĩ tích cực…
Chức năng giáo dục của điều tra viên thể hiện rõ nét trong hoạt động đấu tranh với bị can buộc họ phải báo đúng sự thật, tử bỏ con đường phạm tội, khắc phục những hậu quả đã gây ra… ở đây sự đấu tranh của điều tra viên có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến bị can. Sự tác động này theo hướng làm khơi dậy trong bị can cảm xúc về tội lỗi của mình. Sự đối xử công bằng, lịch sự và nhân đạo của điều tra viên sẽ kích thích sự suy nghĩ của bị can về tội lỗi của mình, sẽ làm cho họ phân tích đúng đắn về những sai lầm mà mình đã mắc phải, vạch ra những phẩm chất tiêu cực mà mình mắc phải, đồng thời suy nghĩ đúng về hình phạt mà tòa án sẽ áp dụng đối với họ. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích hành vi phạm tội của bị can, điều tra viên cần chú ý và thận trọng khi kết án về tích chất phạm tội của bị can, nhân thân và động cơ phạm tội của họ.
Giáo dục thông qua việc đấu tranh với bị can được thể hiện cụ thể ở điều tra viên có thể công khai tranh luận về các tình tiết của vụ án. Thông thường là bị can tự đấu tranh với bản thân họ, vì vậy, điều quan trọng là điều quan trọng là điều tra viên cần nắm bắt được các trạng thái này để những phẩm chất tốt đẹp trong con người bị can chiến thắng.
Hoạt động kích thích và khơi dậy lòng tự trọng và nguyện vọng giáo dục của bị can là một quá trình phức tạp và lâu dài, xong có thể thực hiện được. Trong quá trình cảm hóa, sự giáo dục có hai bước phát triển: thứ nhất, đó là quá trình cung cấp tri thức, kinh nghiệm, thói quen; thứ hai là quá trình tự giáo dục một cách tích cực, sáng tạo, sử dụng các tri thức, kinh nghiệm và thói quen mới. Nếu như không có quá trình cải tạo thì không đạt được mục đích của giáo dục. Dưới sự tác động tích cực của điều tra viên trong bị can dần trỗi dậy ý thức tự giáo dục. Biểu hiện rõ nét nhất là sự thành khẩn nhìn nhận tội lỗi và nghiêm khắc tự phê phán hành vi của bản thân. Biểu hiện tích cực nhất  lòng mong muốn tự giáo dục là bị can trực tiếp trình bày với điều tra viên hoặc với tập thể của họ nguyện vọng được phấn đấu, rèn luyện trở thành một con người tốt. Khi điều tra viên khơi dậy được tính tích cực của bị can thì hoạt động giáo dục trong giai đoạn điều tra sẽ nhanh chóng đạt hiệu quả và khi đó sẽ nuôi dưỡng trong bị tinh thần chấp nhận các tác động giáo dục của tòa án và cơ quan cải tạo phạm nhân sau này.
Như vậy, từ sự khẳng định trên có thể khẳng định rằng hoạt động giáo dục có vai trò quan trọng và không thể thiếu trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. tuy nhiên nó không phải đóng vai trò chủ đạo, sở dĩ như vậy là xuất phát từ nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là thu thập những tài liệu, thông tin nhằm xác định sự thật vụ án nên hoạt động nhận thức mới là hoạt động chủ đạo của giai đoạn này. Tuy nhiên, không thể phủ nhận được tầm quan trọng của hoạt động giáo dục trong giai đoạn này.
2.     Vai trò của hoạt động giáo dục trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
Hoạt động giáo dục trong xét xử cũng như trong điều tra đều hướng tới giáo dục bị can và mọi công dân. Tòa án giáo dục mọi người có ý thức tôn trọng pháp  luật, rèn luyện thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm cho mọi người tin rằng bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào cũng sẽ bị tòa án và xã hội lên án, giáo dục mọi công dân có ý thức tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tòa án cần giáo dục cho mọi gười có mặt tại phòng xử án ý thức tôn trọng đối với hoạt động xét xử.
Tác động giáo dục của Tòa án là một hình thức hoạt động thông qua chính phiên tòa xét xử: qua việc nghiên cứu công khai, trực tiếp, đầy đủ, khách quan, cụ thể các tình tiết của vụ án tại phiên tòa. Hiệu quả tác động giáo dục của Tòa án thể hiện ở tính chất cụ thể, trực tiếp khi xét xử, nó tác động vào nhận thức của những  người tham dự phiên tòa về các chứng cứ cho dù mỗi chứng cứ đó có thể gây xúc động tích cực hoặc tiêu cực.
Phiên tòa  không chỉ có tích nhất giáo dục đối với những người tham gia tố tụng , tiến hành tố tụng mà còn đối với mọi công dân. Hoạt động giáo dục của Tòa án thực hiệntrong phiên tòa và ngoài phiên tòa cụ thể: Ngoài phiên tòa thể hiện ở việc thẩm phán trò chuyện với các bị cáo, với nhân thân của họ, với người đại diện của cơ quan, tổ chức và đồng thời được thực hiện trong lời phát biểu công khai về kế hoạch sắp tới; Trong phiên tòa được thể hiện bởi cá nhân thẩm phán, bởi hội đồng xét xử và những người tham gia xét xử như kiểm sát viên, luật sư… từ đó, giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với những lãnh đạo tập thể đã có  những thiếu sót, tạo điều kiện cho tội phạm, cụ thể:
+ Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án không chỉ lập kế hoạch nhận thức trong giai đoạn xét hỏi mà còn lập kế hoạch thực hiện tác động giáo dục. Vì vậy, có thể mời thêm người làm chúng, đại diện toàn thể xã hội, nghiên cứu điều kiện sống và điều kiện giáo dục của bị cáo… để  thực hiện mục đích nói trên.
Trong giai đoạn xét xử, đặc điểm của những phương pháp tác động giáo dục là cùng một lúc phải tác động đến cả bị cáo và tất cả những người có mặt tại phiên tòa. Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải luôn ý thức được rằng mọi hoạt động của họ phải đảm bảo cả chức năng giáo dục. Họ phải tác động bị cáo để bị cáo nhận ra và mong muốn sửa chữa lỗi của mình. Họ cần phải tác động đến tất cả những người có mặt tại phiên tòa, hình thành trong họ ý thức pháp luật, chỉ ra cho họ những biện pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, củng cố tâm lý cần thiết cho họ.
Tác động giáo dục của Tòa án thể hiện cả khi tuyên án. Vì lẽ đó mà bả án của Tòa tuyên phải đúng, đáp ứng với những yêu cầu của pháp luật đó là phải phù hợp “ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” . Tuy nhiên bản án cũng cần phân tích mức độ nguy hiểm cho hành vi tội phạm, càng dễ hiểu càng tốt, bản án càng được truyền bá rộng rãi càng tốt để mọi công dân đều có thể biết qua đó giáo dục  ý thức pháp luật của họ.
Tác động của Tòa án còn được tiếp tục sau khi Tòa án đã tuyên án. Nếu sau khi kết án người bị kết án được hưởng án reo hoặc bị cải tạo không giam giữ thì Toà án cần kết hợp chặt chẽ biện pháp đó với biện pháp giáo dục tại địa phương cư trú, làm việc giúp họ tổ chức quá trình giáo dục và kiểm tra quá trình cải tạo của họ. Còn trong trường hợp bị kết án tù, hoạt động giáo dục phải được thể hiện rõ ràng, cụ thể trong giai đoạn thi hành án vì đối tượng giáo dục đã thu hẹp. Vì vậy các phương pháp tác động giáo dục cũng thay đổi. Tác động giáo dục đối với bị cáo và với mọi công dân có mặt tại phiên tòa.
Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn xét xử hoạt động giáo dục cũng đóng vai trò rất quan trọng, cần thiết tuy nhiên nó không đóng vai trò chủ đạo. Khong là chủ đạo vì chức năng chính của giai đoạn này là việc tổ chức, điều khiển việc xét xử người phạm tội phải bảo đảm pháp chế nhà nước, bảo vệ quyền lợi hợp pháp bị xâm hại nên chức năng giáo dục không thể trở thành hoạt động chủ yếu, trung tâm.
3.     Vai trò của hoạt động giáo dục trong giai đoạn giáo dục, cải tạo phạm nhân
Xuất phát từ nhiệm vụ của giai đoạn này và giáo dục, cải tạo và cảm hóa người phạm tội; cũng như giáo dục mọi công dân có ý thức tuân thủ pháp luật. Do đó trong giai đoạn giáo dục, cải tạo phạm nhân hoạt động giáo dục giữ vai trò chính, chủ đạo và có vị trí trung tâm. Trong quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân, hoạt động giáo dục cá nhân phạm nhân được thể hiện rõ ràng. Đây là chức năng giáo dục đặc biệt này được thể hiện qua những nét đặc trưng cơ bản dưới đây của hoạt động giáo dục.
Thứ nhất, ở giai đoạn giáo dục, cải tạo phạm nhân phương pháp giáo dục đặc thù được vạch ra rõ ràng. Đây chính là quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân có những thói quen và những phẩm chất tích cực nhất định. Muốn giáo dục cho họ có những phẩm chất tích cực thì phải loại bỏ ở họ những phẩm chất tiêu cực.
Thứ hai, điều kiện giáo dục đặc biệt, có sự kiểm tra xã hội nghiêm khắc, ngặt nghèo, đó là phạm nhân phải sống cách ly khỏi xã hội và phải chấp hành chế độ của trại. Quá trình giáo dục phải luôn luôn kết hợp với thuyết phục và cưỡng chế tuy nhiên yếu tố cưỡng chế giữ vai trò quan trọng hơn cả.
Trong điều kiện giáo dục đặc biệt ở trại thì yếu tố cưỡng chế giữ vai trò quan trọng hơn cả. Chế độ của trại tạo điều kiện làm thay đổi  những nhu cầu, thói quen xấu và phẩm chất nhân cách tiêu cực của phạm nhân… Xuất hiện mối quan hệ bất bình đẳng một cách rõ nét giữa ban giám thị trại và phạm nhân.Quan hệ bất đẳng này do pháp luật quy định và được duy trì như thế trong quá trình cải tạo phạm nhân lâu dài. Pháp luật quy định Ban giám thị trại giam được quyền kiểm tra, giám sát các phạm nhân trong cuộc sống, lao động, dạy nghề và giao tiếp; đối với các phạm nhân bị hạn chế thì hoạt động giáo dục được thể hiện thông qua sự tác động của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi trước đây phạm nhân cư trú hoặc làm việc.
Thứ ba, cải tạo trong trại được tiến hành trong nhóm các phạm nhân, trong nhóm luôn luôn tồn tại những phẩm chất tâm lý tiêu cực nhất định vì họ là người có tội lỗi. Do đó, khi tiến hành hoạt động giáo dục, cải tạo ban giám thị trại phải luôn cân nhắc những mâu thuẩn trong giao tiếp giữa các phạm nhân. Điều đó đòi hỏi ban giám thị trại phải chuẩn bị và sử dụng các phương pháp tác động đặc thù với mục đích giáo dục, cải tạo và các phương pháp phải được sử dụng thường xuyên, đúng hoàn cảnh với các nhóm phạm nhân. Ở đây tác động giáo dục phải được tiến hành song song đồng thời đến nhóm phạm nhân và cá nhân phạm nhân trong nhóm đó.
Cùng với hoạt động giáo dục, cán bộ quản giáo phải luôn luôn xây dựng và so sánh, đối chiếu với mô hình tư duy về cấu trúc nhân cách cá nhân phạm nhân như trước đây họ là người như thế nào, hiện nay ra sao và tương lai cần trở thành người như thế nào dưới ảnh hưởng của giáo dục trong quá trình cải tạo.
III.           MỘT SỐ KẾT LUẬN CẦN THIẾT
Từ việc phân tích và tìm hiểu vai trò của hoạt động giáo dục trong các giai đoạn của tố tụng hình sự bản thân em rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất: Sự cần thiết của hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp
          Như chúng ta đã biết, chủ thể và đối tượng tác động của các hoạt động tư pháp là con người. Mục đích cuối cùng là đều nhằm tạo ra những con người có phẩm chất tâm lý tốt, phù hợp với yêu cầu của xã hội. Do đó, giáo dục chính là biên pháp mà chúng ta buộc phải hướng đến để sử dụng sao cho có hiệu quả.
Trong các giai đoạn tố tụng luôn cần có sự tham gia và hộ trợ của hoạt động giáo dục, không một giai đoạn nào có thể thiếu nó và các chủ thể phải cân nhắc chú ý để sao cho hoạt động giáo dục phát huy cao  nhất hiệu quả của nó. Mặc dù là hoạt động cuối cùng trong hoạt động tư pháp nhưng hoạt động này lại chính là yếu tố quyết định, cuối cùng là thước đo hiệu quả chức năng giáo dục của các chủ thể tiến hành tố tụng. Sản phẩm của nó là giúp cho tất cả những người liên quan và toàn xã hội có ý thức đúng đắn về một vấn đề nào đó, phát triển nhân cách theo xu hướng chuẩn mực của xã hội.
·        Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự:  là hoạt động của các điều tra viên thu nhập các nguồn tin, tài liệu cho vụ án.Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở hoạt động nhận thức ( hoạt động chủ đạo)  thì hoạt động điều tra chưa thể hoàn thiện. Sự hiệu quả trong điều tra chỉ có khi điều tra viên tiến hành các hoạt động trên hướng đến việc giáo dục bị can, khiến họ đấu tranh với chính mình và thành khẩn khai báo và nhận tội; hướng đến việc giáo dục các chủ thể khác tham gia tố tụng khiến họ có tâm lý tốt, niềm tin vào sự công bằng, đúng đắn của pháp luật nên mỗi hoạt động của điều tra viên trong cử chỉ, lời nói… đều phải hướng đến chức năng giáo dục. Tuy không phải là chính nhưng hoạt động giáo dục đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra.
·        Trong giai đoạn xét xử:  là giai đoạn xét xử để Tòa án cho ra bản án “ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”. Và do đó, để khiến bị cáo tâm phục khẩu phục, nhận ra những sai lầm trong hành vi lệch lạc của mình và chấp nhận thay đổi chính mình thì những người tiến hành tố tụng cũng cần đặt hoạt động giáo dục là một chức năng sau cùng và không thể thiếu. Tuy không giữ vai trò chủ đạo như hoạt động thết kế nhưng hoạt động giáo dục vẫn đóng một vai trò quan trọng và rất cần thiết trong giai đoạn này. Xét xử chỉ mang lại hiệu quả khi giáo dục được bị can, bị cáo và giáo dục được công dân. Hoạt động xét xử mà không có giáo dục thì quá cứng nhắc, không thấy được mục đích nhân đạo của nhà nước ta hướng đến..
·        Trong giai đoạn cải tạo và giáo dục phạm nhân: mục đích cuối cùng của giai đoạn này là giáo dục họ trở thành những con người tốt, nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng. Do đó giáo dục ở giai đoạn này đóng vai trò chủ đạo, trung tâm. Những phương án cải tạo vừa mang tính cưỡng chế, vừa mang tính giáo dục cao sẽ cảm hóa được phạm nhân trở thành những con người tốt cho xã hội.
Thứ hai : hoạt động giáo dục luôn là mục đích cao nhất, là phương tiện để tiến hành thực hiện các hoạt động tư pháp có hiệu quả
     Đúng như vậy, hoạt động nhận thức và hoạt động thiết kế nếu chỉ dừng lại ở đó thì hoạt động cải tạo, giáo dục sau cùng sẽ không đạt được hiệu quả cao. Muốn vậy, nhất thiết bất kể một giai đoạn tố tụng nào cũng cần phải hướng đến chức năng giáo dục bởi giáo dục là cần thiết, lâu dài. Vì vậy, hoạt động giáo dục luôn được tiến hành bên cạnh các hoạt động khác.
Thứ ba: hoạt động giáo dục và các hoạt động tư pháp khác luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau.
     Các hoạt động tư pháp diễn ra hết sức phức tạp và đa dạng; mỗi giai đoạn lại có một hoạt động giữ vị trí trung tâm giữ vai trò khác nhau nhưng về mặt tổng thể thì chúng đều có sự tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau và hướng tới mục tiêu cuối cùng là làm cho hoạt động tư pháp diễn ra thống nhất, khách quan và đúng pháp luật. Đồng thời mang tính giáo dục chung đối với cộng đồng.
KẾT THÚC
Như vậy, hoạt động tâm lý học tư pháp đóng vai trò rất quan trọng trong các giai đoạn của hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Các nhà làm luật theo đó ngoài có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng cần phải hiểu thêm về các yếu tố tâm lý, để từ đó vận dụng vào quá trình điều tra, xét xử và cải tạo phạm nhân để giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, đúng đắn, hợp lòng người và cải tạo phạm nhân nhanh chóng trở thành một công dân có ích cho xã hội, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng. Đồng thời việc ứng dụng các hoạt động tâm lý một cách linh hoạt sẽ tạo được lòng tin và giáo  dục người dân một cách nhanh chóng hơn cả.

Chi tiết...

VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG


Trong quá trình tố tụng hình sự, hoạt động nhận thức luôn được đánh giá là hoạt động giữ vai trò trung tâm, là tiền đề, cơ sở cho các hoạt động khác. Để hoạt động nghiên cứu tâm lý này được thực hiện có hiệu quả, cần nhận thức đúng đắn về hoạt động này và vai trò của nó. Vì vậy, trong phạm vi bài tập học kỳ, em xin làm rõ hơn vấn đề này qua chủ đề: “Phân tích vai trò của hoạt động nhận thức trong các giai đoạn tố tụng (điều tra vụ án hình sự; xét xử vụ án hình sự; giáo dục, cải tạo phạm nhân). Rút ra kết luận cần thiết”.

1.     Khái quát chung về hoạt động nhận thức

1.1.         Khái niệm hoạt động nhận thức

Sống và hoạt động trong thế giới khách quan, con người phải nhận thức, phản ánh hiện thực xung quanh và hiện thực của bản thân, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ, tình cảm và hành động. “Hoạt động nhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và bản thân con người thông qua các cơ quan cảm giác và dựa trên những hiểu biết vốn liếng kinh nghiệm đã có của bản thân”.[1]

1.2.         Đặc điểm của hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp

Thứ nhất: Quá trình nhận thức là quá trình phát triển của tất cả các thành phần của hoạt động tư pháp. Nhận thức chính là phương tiện để thực hiện các hoạt động khác trong hoạt động tư pháp.
Thứ hai: Hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp phần lớn mang tính chất gián tiếp, ít trường hợp mang tính chất trực tiếp.
Thứ ba: Trong hoạt động nhận thức của quá trình tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng thu nhận được khối lượng thông tin rất lớn từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng những thông tin cần thiết, liên quan trực tiếp đến vụ án thường bị thiếu hụt, khó xác định. Do đó, những người tiến hành tố tụng phải có khả năng tạo ra các mô hình tư duy về sự kiện đã xảy ra, đối chiếu các mô hình này với thực tế và rút ra kết luận về thực tế của sự kiện.
Thứ tư: Hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp liên quan chặt chẽ với các thủ tục tố tụng.
Thứ năm: Hoạt động nhận thức trong quá tình tố tụng luôn mang sắc thái tình cảm cao, được tiến hành trong trạng thái tâm lí căng thẳng.
Thứ sáu: Nhận thức bị hạn chế về thời gian. Sự hạn chế này đã thôi thúc người tiến hành tố tụng phải hoạt động tích cực để xác định sự thật khách quan của vụ án đã xảy ra. Hạn chế này được quy định trong các văn bản pháp luật.

1.3.         Các giai đoạn của hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp

-      Giai đoạn 1: Tri giác các sự việc bằng các cơ quan cảm giác.
-      Giai đoạn 2: Thiết lập và tìm ra các cách thức phương hướng thu thập chứng cứ tài liệu liên quan đến vụ án.
-      Giai đoạn 3: Xây dựng mô hình tư duy năng động về vụ án đã xảy ra trên cơ sở các chứng cứ tài liệu đã thu thập được.
-      Giai đoạn 4: Đề ra và giải quyết các nhiệm vụ cụ thể.

2.     Vai trò của hoạt động nhận thức trong các giai đoạn tố tụng

2.1.         Vai trò hoạt động nhận thức trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.[2]
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, hoạt động nhận thức là thành phần chủ yếu trong cấu trúc tâm lí của hoạt động điều tra tội phạm. Trong quá trình này, hoạt động nhận thức gắn liền với việc thu thập, nghiên cứu các sự kiện đã xảy ra, nghiên cứu nhân cách của bị can. Đồng thời, thông qua hoạt động nhận thức, Điều tra viên thu thập, chọn lựa, đánh giá các nguồn tin nhận được, qua đó đưa ra những giả định về mối liên hệ giữa các sự kiện của vụ án. Mặt khác, trong hoạt động của Điều tra viên, khía cạnh tìm kiếm và tái tạo của hoạt động nhận thức luôn giữ vai trò chủ đạo. Thu thập thông tin về sự việc phạm tội thông qua nhận thức trong hiện tại và quá khứ để khôi phục lại mô hình về diễn biến khách quan của vụ án đã xảy ra. Hoạt động nhận thức nhằm đảm bảo thu thập tất cả chứng cứ tài liệu liên quan đến vụ án, phân tích, đánh giá chứng cứ, tìm hiểu thái độ, hành vi xử sự, nắm bắt được đặc điểm tâm lý của người tham gia tố tụng, đưa ra các cách thức, phương pháp tác động tới tâm lý của người tham gia tố tụng.
Ví dụ: Trong quá trình hỏi cung bị can, thông qua các biện pháp nghiệp vụ, Điều tra viên nhận thức được bị can đang khai báo gian dối, không thành khẩn, Điều tra viên đã áp dụng các phương pháp tác động tâm lý bị can như: phương pháp truyền đạt thông tin; đặt và thay đổi vấn đề tư duy; phương pháp thuyết phục; giao tiếp tâm lý có điều khiển,… nhằm làm thay đổi thái độ, quan điểm của bị can. Hoặc khi Điều tra viên nhận thấy bị can vẫn còn quanh co, khai báo không thành khẩn, điều tra viên thuyết phục để bị can hiểu rằng thành khẩn khai báo sẽ được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Hoạt động nhận thức trong quá trình tiến hành điều tra vụ án hình sự chủ yếu dựa vào quá trình nhận thức của Điều tra viên. Trong quá trình nhận thức, Điều tra viên không chỉ tự mình giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình tư duy mà còn đưa ra những nhiệm vụ tư duy để có thể khôi phục lại những sự kiện đã xảy ra, hoặc ủy nhiệm cho người khác khôi phục lại những sự kiện đã xảy ra. Việc nhận thức những sự kiện của vụ án thực hiện thông qua việc xây dựng mô hình tội phạm trên cơ sở những thông tin thu thập được cùng với các thông tin bổ trợ khác. Ngoài ra, Điều tra viên phải xây dựng mô hình tư duy về mối liên hệ biện chứng giữa các sự kiện đã xảy ra với những sự kiện thực tại. Do đó, Điều tra viên cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng thông tin, đánh giá chính xác các sự kiện và đề ra hướng hành động, kiểm tra các giả định.
Trong quá trình nhận thức, Điều tra viên phải luôn chủ động để phân tích các nguồn thông tin. Sự phong phú về thông tin vụ án, kết hợp cùng với những tin tức chưa đầy đủ hiện có là điều kiện giúp quá trình tư duy của Điều tra viên về vụ án gặp nhiều thuận lợi, từ đó mà nhanh chóng xây dựng được mô hình chính xác về vụ án đã xảy ra.
Đặc biệt, trong quá trình điều tra vụ án hình sự thì hoạt động nhận thức của Điều tra viên được thể hiện ở sự tập trung tinh thần cao độ. Vì vậy, đòi hỏi Điều tra viên phải có sự chuẩn bị tâm lí. Thông qua hoạt động nhận thức, Điều tra viên có thể khôi phục lại mô hình của sự kiện đã xảy ra theo các phương thức: trực tiếp nhận thức những sự kiện của thực tế khách quan hoặc nhận thức về các nguồn tin do người khác cung cấp khi không có điều kiện trực tiếp xem xét. Vì vậy, khi thực hiện hoạt động nhận thức, ở Điều tra viên thường nảy sinh hai quá trình liên quan mật thiết với nhau, là: Nhận thức về sự kiện cần thiết cho việc xây dựng mô hình xảy ra và nhận thức về những người cung cấp thông tin có liên quan đến vụ án.
Qua phân tích ở trên, có thể thấy: Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, vai trò của hoạt động nhận thức chủ yếu thể hiện thông qua quá trình nhận thức của Điều tra viên. Nó đóng vai trò chủ đạo, có vị trí trung tâm (vì nó ảnh hưởng đến các hoạt động khác sẽ diễn ra ở các giai đoạn sau), và là hoạt động có tính chất cơ sở, là phương tiện để tiếp tục thực hiện các giai đoạn sau. Bởi lẽ, mục đích của giai đoạn này là thu thập các thông tin về vụ án nhằm xác minh sự thật mang tính khách quan của vụ án. Do đó, Điều tra viên cần có nhận thức đúng đắn và khách quan về các sự kiện, tình tiết của vụ án, xây dựng nên mô hình tư duy đúng đắn về vụ án.

2.2.         Vai trò của hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án để ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật.[3]
Trong giai đoạn xét xử, hoạt động thiết kế đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, để thực hiện được tốt và chính xác hoạt động thiết kế trong giai đoạn này thì nhất thiết phải có hoạt động nhận thức trước đó. Mục đích cuối cùng của giai đoạn này là ra được bản án, quyết định đúng về vụ án đã xảy ra – đó là nhiệm vụ cơ bản của Tòa án. Nhưng hoạt động thiết kế của Tòa án chỉ có thể diễn ra và thực hiện có kết quả khả thi sau khi đã thực hiện đúng yêu cầu của hoạt động nhận thức trên cơ sở kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra chuyển sang. Do đó, hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử của Tòa án có nhiều khác biệt so với hoạt động nhận thức ở giai đoạn điều tra (hoạt động trọng tâm của giai đoạn điều tra). Để thực hiện hoạt động thiết kế dễ dàng và có kết quả đúng đắn thì các thông tin cần thiết phải được thu thập đầy đủ và chính xác từ giai đoạn điều tra. Bởi vì, tài liệu điều tra sẽ giúp Tòa án dễ dàng xác định được mô hình vụ án và hành vi phạm tội và mối quan hệ giữa chúng. Trên cơ sở của hoạt động điều tra thu thập chứng cứ và tìm kiếm những thông tin cần thiết, Tòa án có thể chọn lọc và hệ thống hóa thông tin, từ đó, nhận thức về các tình tiết của vụ án, các tình tiết liên quan đến vụ án dễ dàng hơn. Bởi vì, tất cả thông tin về vụ án, mô hình vụ án được thể hiện rõ rang, cụ thể trong hồ sơ điều tra của cơ quan điều tra, qua nghiên cứu hồ sơ đó sẽ giúp cho Tòa án có cách nhìn toàn diện về vụ án. Tuy nhiên, kết luận về tài liệu của cơ quan điều tra chỉ mang tính sơ bộ. Do đó, Tòa án phải nghiên cứu và kiểm tra lại mô hình này tại tòa. Xét hỏi về các tình tiết của vụ án là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử, là giai đoạn quan trọng nhất, giai đoạn độc lập trong hoạt động xét xử để nhằm xác minh sự thật của vụ án. Đây là yếu tố tìm kiếm của hoạt động nhận thức. Hoạt động nhận thức của Tòa án là quá trình nhận thức những chứng cứ mang tính gián tiếp cao. Lí do chủ yếu là vì trong các vụ án hình sự, Tòa án không tiếp xúc trực tếp với vụ án, không tham gia vào giai đoạn điều tra mà chỉ tiếp nhận chứng cứ, tài liệu thông qua điều tra viên. Từ đó, trong giai đoạn điều tra, Điều tra viên phải có những biện pháp củng cố tài liệu thu thập một cách đầy đủ và các tài liệu đó phải giúp cho Tòa án nhận thức được chứng cứ, xây dựng mô hình tư duy về vụ án cần nghiên cứu một cách dễ dàng hơn. Hoạt động nhận thức ở giai đoạn xét xử được thực hiện bởi các thành viên Hội đồng xét xử nhằm kiểm tra lại tính đúng đắn của các thông tin thu thập được trong giai đoạn điều tra thông qua hồ sơ và lời khai của những người tham gia tố tụng. Hoạt động nhận thức mang tính chủ động, ít căng thẳng hơn so với hoạt động nhận thức ở giai đoạn điều tra do chủ thể nhận thức đã được tiếp cận với lượng thông tin ít hơn, cô đọng hơn, đã được sàng lọc ở giai đoạn điều tra.
Từ phân tích trên, có thể thấy trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự tuy không đóng vai trò chủ đạo như hoạt động thiết kế nhưng hoạt động nhận thức có vai trò quan trọng, không thể thiếu.

2.3.         Vai trò hoạt động nhận thức trong giáo dục, cải tạo phạm nhân

Toàn bộ hoạt động giáo dục, hoạt động cải tạo cá nhân người phạm tội chỉ có thể tiến hành được với sự hiểu biết sâu sắc về các đặc điểm tâm lý của mỗi phạm nhân. Nhà giáo dục phải biết họ cần phải giáo dục cho phạm nhân những phẩm chất nào và cần phải loại bỏ những phẩm chất nào. Quá trình giáo dục, cải tạo phải kết hợp với việc nghiên cứu biểu hiện thái độ của phạm nhân trong lao động, học tập và đời sống xã hội… Do vậy, để đạt được hiệu quả nhất mục đích của hoạt động giáo dục thì hoạt động nhận thức trong giai đoạn giáo dục, cải tạo phạm nhân chiếm một vai trò khá quan trọng. Trên cơ sở hoạt động nhận thức sẽ đảm bảo cho hoạt động giáo dục, cải tạo phạm nhân đạt kết quả tốt. Để giáo dục, cải tạo phạm nhân, cán bộ quản giáo không những phải biết trạng thái tâm lý của họ trong hiện tại mà còn phải biết những thiếu sót tâm lý – xã hội của họ đã nảy sinh bằng cách nào trong quá trình hình thành những thói quen, cách xử sự chống đối pháp luật của họ. Nội dung hoạt động nhận thức trong quá trình giáo dục, cải tạo bao gồm: nghiên cứu điều kiện sống và lao động của phạm nhân; nghiên cứu hệ thống giao tiếp bắt buộc mà họ phải tham gia vào giao tiếp với cán bộ quản giáo, với những phạm nhân khác; ngoài ra, cán bộ quản giáo cũng phải thu thập những thông tin về điều kiện phát triển của phạm nhân, thông tin về gia đình phạm nhân, những mối quan hệ của họ với gia đình, về giáo dục, văn hóa, thói quen lao động của phạm nhân. Mặt khác, Điều tra viên điều tra vụ án hình sự do phạm nhân thực hiện có thể giúp cán bộ quản giáo thực hiện hoạt động nhận thức ở giai đoạn cải tạo. Nếu trong quá trình nghiên cứu, điều tra viên thu thập và tổng hợp lại những thông tin quan trọng để tổ chức giáo dục, cải tạo nhằm xác định người có ảnh hưởng tích cực đến phạm nhân,... thì sẽ thông báo thông tin này cho ban giám thị trại giam, giúp lựa chọn đúng biện pháp giáo dục, cải tạo phạm nhân. Cán bộ quản giáo cần phải nghiên cứu tỉ mỉ về thái độ, hành vi, hứng thú,…của phạm nhân. Kết quả nghiên cứu giúp cán bộ quản giáo hiểu rõ hơn về những phẩm chất của phạm nhân: tính cách, phẩm chất, ý chí của phạm nhân,…đã hình thình ở họ. Quá trình nghiên cứu nhân cách phạm nhân cho phép cán bộ quản giáo phát hiện cả những phẩm chất tích cực, tạo cơ sở củng cố nhân cách của họ và tác động đến phạm nhân khác, tạo cơ sở để thành lập nhóm phạm nhân tích cực. Thông qua những hoạt động này sẽ góp phần đáng kể trong việc nhận thức về cá nhân phạm nhân để thông qua đó có thể xây dựng, tổ chức quá trình giáo dục, cải tạo, biện pháp cải tạo…
Tuy hoạt động giáo dục đóng vị trí quan trọng nhất trong giai đoạn này, tuy nhiên, để hoạt động giáo dục có vai trò đó là phải dựa trên những tác động của hoạt động nhận thức. Ở giai đoạn này, hoạt động nhận thức tạo ra cơ sở về nhận thức tâm lí bên trong của phạm nhân, từ đó mà cán bộ quản giáo có những phương pháp giáo dục cải tạo phạm nhân phù hợp, cảm hóa dần những sai làm của họ và hướng tới việc đảm bảo cho họ sẽ không thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật nữa sau khi đã chấp hành xong hình phạt.

3.     Quan điểm cá nhân

Nhận thức là một trong những dạng hoạt động cơ bản của hoạt động tư pháp; là phương tiện thực hiện các hoạt động khác trong hoạt động tư pháp. Trong hoạt động nhận thức của quá trình tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng nhận được một khối lượng thông tin lớn từ nhiều nguồn khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành sàng lọc, chắp nối các thông tin lại, phân tích, đánh giá, rút ra mối quan hệ biện chứng giữa các nguồn thông tin. Do đó, người tiến hành tố tụng phải có khả năng tư duy, kinh nghiệm, có phẩm chất tâm lý vững vàng và ổn định.
Hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp không phải là hoạt động nhận thức đơn thuần một sự việc nào đó, mà nó liên quan chặt chẽ đến các thủ tục tố tụng, đảm bảo quy định của pháp luật một cách triệt để, xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự một cách nhanh chóng.
Hoạt động nhận thức là một trong những dạng hoạt động cơ bản và không thể thiếu được trong hoạt động tư pháp. Bởi vì có nhận thức được đúng đắn thì chúng ta mới có thể đưa ra được những nhận xét đúng đắn và khách quan về đối tượng cần nghiên cứu. Dẫn chiếu vào bài viết này ta nhận thấy, nếu không có hoạt động nhận thức thì các điều tra viên sẽ không đánh giá được các nguồn tin, tài liệu nào là cần thiết cho vụ án. Thậm chí là có thể đánh giá sai về hành vi phạm tội, về người phạn tội… từ đó mà sẽ không xây dựng lên được mô hình phạm tội, cũng như hành vi của người phạm tội. Ngoài ra, do không có nhận thức đúng đắn về vụ án nên cũng sẽ dẫn đến hiện tượng oan sai ngay từ giai đoạn điều tra. Do đó, trong giai đoạn điều tra thì hoạt động nhận thức là trung tâm, có vai trò quan trọng nhất.
Bước sang giai đoạn xét xử, để Tòa án có thể ra được quyết định đúng pháp luật, xử phạt đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan sai người vô tội thì Hội đồng xét xử cần có nhận thức đúng đắn về vụ án thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, cũng như đánh giá sự thật khách quan tại phiên tòa thông qua giai đoạn xét hỏi…Như vậy, bản án quyết định của Tòa án có đúng pháp luật hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào quá trình nhận thức khách quan về vụ án của các cơ quan tư pháp. Để cải tạo và giáo dục phạm nhân tốt, việc nhận thức về tính cách, thái độ, hành vi,… của phạm nhân sẽ giúp cán bộ quản giáo nhận biết được về phạm nhân, từ đó, những phương án cải tạo, giáo dục phù hợp để cảm hóa phạm nhân trở thành con người tốt sau khi chấp hành xong hình phạt.
Hoạt động nhận thức có tính chất là cơ sở và là phương tiện để thực hiện các hoạt động tư pháp tiếp theo. Để hoạt động thiết kế và hoạt động cải tạo, giáo dục đạt được hiệu quả cao thì nhất thiết chúng ta phải dựa trên những căn cứ của hoạt động nhận thức. Tránh được tình trạng oan sai khi quyết định hình phạt cũng như giáo dục không đúng mục đích của hoạt động tư pháp.
Hoạt động nhận thức và các hoạt động tư pháp khác (hoạt động thiết kế, hoạt động giáo dục, cải tạo) có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi, tuy các hoạt động có vị trí và vai trò khác nhau nhưng tổng thể có sự tác động qua lại với nhau, hỗ trợ nhau và hướng tới mục tiêu cuối cùng là làm cho hoạt động tư pháp diễn ra thống nhất, khách quan và đúng pháp luật, tránh những tình trạng oan, sai trong quá trình tố tụng hình sự.

                                                    KẾT THÚC
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học Tư pháp, Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
2. Chu Liên Anh, Giáo trình tâm lí học tư pháp, Viện đại học mở, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
3. Chu Liên Anh, Dương Thị Loan, Giáo trình tâm lí học tư pháp, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010.
4. Chu Liên Anh, Dương Thị Loan, Tâm lí học tư pháp - Hướng dẫn trả lời lí thuyết, giải bài tập tình huống và trắc nghiệm, Nxb. Chính trị-hành chính, Hà Nội, 2010.
5. Nguyễn Hồi Loan, Đặng Thanh Nga, Giáo trình tâm lí học pháp lí, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2004.



[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học Tư pháp, Nxb. CAND, Hà Nội, 2006, Tr. 46.
[2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014, Tr. 265.
[3] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014, Tr. 345.
Chi tiết...

HIỆN TƯỢNG VÔ THỨC


          Trong đời sống tâm lý con người, bên cạnh những hiện tượng tâm lý được ý thức, còn có những hiện tượng tâm lý chưa được ý thức. Hiện tượng tâm lý không ý thức, chưa nhận thức được như vậy, trong Tâm lý học được gọi là hiện tượng vô thức.
          Vô thức là vấn đề chính trong phân tâm học do nhà tâm lý học  người Áo Sigmund Freud khảo sát và sáng lập từ năm 1880.
I. Khái niệm và đặc điểm của vô thức
1. Khái niệm
          Vô thức là hiện tượng tâm lý ở tầng bậc chưa ý thức, nơi mà ý thức không thực hiện chức năng của mình. Hay nói cách khác, Vô thức là tập hợp những hiện tượng, những hành vi mà chủ thể không có nhận thức, không tỏ được thái độ và không thể thực hiện được sự kiểm tra có chủ ý đối với chúng.
          Vô thức là một lĩnh vực bao la, rộng lớn, nơi tập trung những hiện tượng mà vì lý do nào đó, “chiếc đèn pha” ý thức không thể “soi rọi” đến. Vô thức bao gồm những hiện tượng tâm lí mà ở đó ý thức không thực hiện được chức năng của mình. Vô thức bao gồm nhiều hiện tượng phổ biến khác trong đời sống con người, như:
          Hiện tượng quên và sực nhớ: quên là con người không tái hiện lại được các thông tin cũ vào thời điểm cần thiết. Ví dụ: quên kiến thức đã học của 1 năm trước, quên 1 ai đó….Sực nhớ là khả năng bất chợt tái hiện được một lượng thông tin nào đó. Ví dụ: trên đường đi Sực nhớ mình không theo sách vở khi đi học…
          Bản năng: là những khuynh hướng phản ứng vốn có ở con người, được thừa hưởng từ tổ tiên, đáp trả những kích thích tác động lên con người. Bản năng chỉ là những say mê những hành vi bột phát của con người hay cũng có thể là những phản xạ phức tạp không điều kiện.
          Xúc cảm: Những nghiên cứu khoa học cho thấy: Trước khi vỏ não của con người kịp nhận thức ra tác động của hoàn cảnh thì trung tâm chỉ huy cảm xúc đã “tỏ thái độ” đối với nó. Tức là, với cảm xúc, con người thường phản ứng một cách vô thức với hoàn cảnh.
          Hiện tượng lóe sáng: Là hiện tượng mà bất chợt con người chúng ta nhận ra nó một cách tình cờ, bất ngờ.
          Linh cảm: Là hiện tượng một quyết định, một ý nghĩ xuất hiện trong điều kiện thiếu thông tin, nghĩa là nếu lập luận logic thì không thể có được.
          Tiềm thức: những hiện tượng vốn ban đầu được ý thức nhưng sau đó bị đẩy xuống hoặc dần chìm sâu vào trong tâm thức, thỉnh thoảng trong điều kiện nào đó mới được ý thức.
          Tiền thức là những hiện tượng nằm sát ngay dưới ngưỡng ý thức, con người chỉ cảm nhận một cách mang máng, mơ hồ, chẳng hạn như cảm thấy thing thích một cái gì đó, lúc thích lúc không thức nhưng không hiểu tại sao.
          Các hiện tượng tâm lí diễn ra trong trạng thái hệ thần kinh bị ức chế như mộng du, mê sảng, bị thôi miên,….
          Như vậy, các hiện tượng tâm lý chưa được ý thức cũng rất đa dạng, phong phú. Tâm lí học hiện đại cho rằng, các hiện tượng tâm lí chưa được ý thức cũng giống như các hiện tượng tâm lý được ý thức, thuộc những cấp độ nông sâu khác nhau.C.G. Jung gọi những hiện tượng vô thức ở cấp độ nông là vô thức cá nhân, ở cấp độ sâu là vô thức tập thể.

2. Đặc điểm
Vô thức có 4 đặc điểm sau:
          Con người không nhận thức được hiện tượng tâm lý, hành vi, cảm nghĩ của mình.
         Con người không thể đánh giá, kiểm sóat được về hành vi, ngôn ngữ, cách cư xử của mình. 
          Vô thức không kèm theo dự kiến trước, hành vi không có chủ định. Sự xuất hiện hành vi vô thức thường bất ngờ, đột ngột, xảy ra một thời gian ngắn.
          Hình ảnh tâm lý trong vô thức có thể có cả quá khứ, hiện tại và tương lai nhưng chúng liên kết với nhau không thao quy luật hiện thực.
II. Vai trò của vô thức trong cuộc sống và trong lĩnh vực pháp lý
1. Trong cuộc sống
          Sự quên giúp giảm sự quá tải trong đầu óc, trong việc xử lí thông, tin tức có khối lượng rất lớn diễn ra hàng ngày, lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo độ chính xác, tránh căng thẳng, mệt mỏi đầu óc hoặc tránh sự ảnh hưởng từ những ký ức buồn trong quá khứ. Ví dụ, ta nên quên đi những ký ức không vui trong quá khứ, giữ lại những kỷ niệm vui, những gì có ý nghĩa lớn, ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi người, để hướng tới một tương lai tốt đẹp.
          Bản năng: giúp chúng ta thỏa mãn nhu cầu nhất định trong cuộc sống, cần thiết trong cuộc sống như phản xạ không điều kiện. Ví dụ như chúng ta đói, bản năng sẽ “mách bảo” chúng ta nên đi tìm thứ gì đó để ăn,…
          Hiện tượng lóe sáng: giúp chúng ta tìm ra, nghĩ ra những điều mới lạ mà trước đó cố gắng không thể nghĩ ra. Ví dụ như Niwton đã tìm ra định luật vạn vật hấp dẫn trong một giấy phút “lóe sáng” dưới gốc táo.


2. Trong lĩnh vực pháp lý
          Vô thức đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, điều khiển hành vi con người, qua phân tích các hành vi biểu hiện ở trạng thái vô thức giúp ta hiểu được các hiện tượng tâm lý (thái độ, suy nghĩ,… của con người).. Ví dụ: nhờ linh cảm, Thẩm phán Tòa án có thể tin rằng bị cáo vô tội, từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn, như tạm dừng phiên tòa để tiếp tục điều tra. Ví dụ: Vụ án Tô Đông Pha.

          Bên cạnh điểm tích cực, vô thức cũng có những điểm tiêu cực:
          Bản năng con người quá lớn đôi khi làm cho hành động một cách thiếu ý thức, trái phép tắc, chỉ thỏa mãn nhu cầu của chính mình.
           Sự quên nhiều khi khiến con người quên đi những điều quan trọng, những thứ có ý nghĩa trong cuộc sống.
          Linh cảm chưa hẳn đã chính xác. Khi linh cảm sai sẽ dễ dẫn đến những quyết định sai lầm.

KẾT LUẬN
          Cần nhận thức đúng đắn vai trò của vô thức trong đời sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ về con người. Tuy nhiên, không nên cường điệu hóa, tuyệt đối hóa, thần bí hóa vô thức, không nên coi vô thức là hiện tượng tâm lí cô lập tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh.
     
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nxb. Công an nhân dân, 2011.
2.     Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), Tâm lý học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2011.
3.     Một số trang web:
https://www.google.com.vn/#q=%C4%91%E1%BA%B7c+%C4%91i%E1%BB%83m+v%C3%B4+th%E1%BB%A9c
Chi tiết...

VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

      
          Nhân cách là một trong những vấn đề quan trọng trong Tâm lý học được các nhà tâm lý cũng như các tác giả ở các lĩnh vực khoa học khác quan tâm nghiên cứu. Từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời, con người chúng ta trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau. Ở mỗi giai đoạn, chúng ta đều để lại những dấu ấn mang tính đặc trưng, khác biệt so với mọi người và được xã hội nhìn nhận, đánh giá một cách tổng thể. Tổ hợp những đặc trưng đó còn được gọi là tổ hợp các thuộc tính tâm sinh lý (nhân cách). Sau đây em xin trình bày về đề tài “ Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành, phát triển nhân cách. Liên hệ với thực tiễn
I.Khái niệm về nhân cách
Nhân cách được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau thuộc nhiều nghành khoa học xã hội khác nhau, trong đó có khoa học tâm lý. Ta có thể định nghĩa nhân cách như sau: “Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm sinh lý của cá nhân thể hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị của người ấy”.
Từ định nghĩa trên cho ta thấy,chỉ có thể dùng nhân cách cho con người và chỉ từ một giao đoạn phát triển nhất định nào đó. Vì thế người ta không nói “ nhân cách của con vật” hay “ nhân cách của một đứa trẻ sơ sinh, một trẻ hai tuổi”. Nhưng lại có thể nói đến nhân cách của 1 học sinh tiểu học, nhân cách của 1 sinh viên. Con người được sinh ra chua phải đã là một nhân cách, mà trong quá trình sinh sống và hoạt , giao lưu của mình trong xã hội, con người mới trở thành một nhân cách.
II. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
Theo quan điểm tâm lý học Mácxít thì nhân cách không có sẵn và cũng không  phải nó được bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy. Nhân cách là cấu tạo tâm lí mới được hình thành trong quá trình sống, giao tiếp, vui chơi, lao động…của mỗi con người. Như V.I Lênin đã khằng định “ Cùng dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”[1]. Trong quá trình hình thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều yếu tố : yếu tố bẩm sinh -  di truyền, môi trường, giáo dục, giao tiếp, hoạt động.
1. Yếu tố bẩm sinh - di truyền có vai trò tạo tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách
Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng xương bằng thịt mà nhân cách của một con người cụ thể sống trong xã hội cụ thể. Theo sinh vật học hiện đại, Di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật đối với thế hệ trước và đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn.
Trong khi đó những đặc điểm giải phẫu sinh lí của cá thể ngoài những yếu tố do di truyền tạo nên, còn có những yếu tố riêng tự tạo do sự vận động và phát triển của cá thể. Những yếu tố đó đối với con người có ngay từ trong môi trường bào thai của mẹ. Chính vì vậy, một cá thể vừa mang đặc điểm giải phẫu sinh lí của cha mẹ vừa có những cái riêng của nó.
Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm  giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm về cấu tạo và chức năng của cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường di truyền, trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và các chức năng của các giác quan và não.
Ví dụ: Một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ là ca sỹ, nhạc sỹ thì nó sẽ có cơ hội và khả năng trở thành một người hoạt động nghệ thuật khi trưởng thành, cộng với việc bố mẹ nó phát triển và bồi dưỡng từ nhỏ khả năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh, phát triển giọng.
Theo quan điểm tâm lí học Mácxít “di truyền và những đặc điểm sinh học của nó không quyết định chiều hướng cũng như giới hạn phát triển của nhân cách. Mắc dù có thể nó ảnh hưởng mạnh tới quá trình hình thành tài năng, xúc cảm… trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển con người nhưng nó chỉ đóng vai trò tạo nên tiền đề cho sự phát triển nhân cách[2]
2. Yếu tố môi trường
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Môi trường chia thành 2 loại: Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
2.1 Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Để hình thành nên nhân cách của con người thì trước tiên vẫn phải trải qua các yếu tố của hoàn cảnh tự nhiên, nó như là các nền vốn có quy định ít nhiều tính cách của con người.
Như chúng ta đã biết, mỗi dân tộc sống trên một vùng lãnh thổ nhất định, có cái đọc đáo của hoàn cảnh địa lí : ruộng đồng và khoáng sản, núi và sông, trời và biển, mưa và gió, hoa cỏ và âm thanh…Những điều đấy quy định về đặc điểm của các dạng, các nghành sản xuất, đặc tính của nghề nghiệp( tức là phương thức hoạt động của con người trong tự nhiên) và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó, quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Cho nên có thể nói rằng, tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống.
Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán đều có nguồ gốc điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh sống tự nhiên. Một số nét tâm lí nào đó của bản địa, của nghề nghiệp cũng có thể được hiểu theo lôgic ấy. Nhân cách như là một thành viên xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của nghề nghiệp – những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy và qua phương thức sống của chính bản thân nó.
Ví dụ: Người dân vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long nước ta có truyền thống trồng lúa nước, cây lúa nước không đơn thuần là một cây nông nghiệp mà từ xa xưa nó đã trở thành biểu tượng của nền nông nghiệp 2 vùng này. Người dân không chỉ có kinh nghiệm trồng lúa nước, tâm lý gắn bó với cây lúa nước mà còn có những hoạt động văn hóa, nghệ thuật liên quan đến cây lúa nước. Sở dĩ có điều này là bởi nơi đây có điều kiện tự nhiên cho việc trồng lúa nước ( có 2 cong sông lớn chay qua, địa hình bằng phẳng…)
2.2 Môi trường xã hội có vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lí nhân cách
Nếu không có sự tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc trong một xã hội quá đơn điệu thì cơ thẻ sẽ lớn lên và phát triển trong trạng thái của động vật hoặc sẽ nghèo nàn về tâm lí, kém sự linh động. Chẳng hạn, bác sĩ Sing người Ấn Độ có kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đem đén thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi bằng 2 chân nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng 4 chân khá nhanh. Người ta dạy nói Kamala trong4 năm nhưng cô chỉ nói được 2 từ. Cô khổng thể thành người thực sự và 18 tuổi thì cô qua đời. Sự thực đó đã khẳng định tính đúng đắn trong nhận xét của C.Mác “ trong tính hiện thức của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội ” hay “ hoàn cảnh đã sáng tạo ra con người, trong chừng mực mà con người đã sang tạo ra hoàn cảnh” [3]
Như vậy, nhân cách là một sản phẩm của xã hội. Đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để lắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại.
Quan hệ sản xuất: Quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách. Tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này mức độ khác trong vai trò xã hội. Nhu cầu, hứng thú, lí tưởng phụ thuộc không ít vào vai trò ấy. Ví dụ:Người có địa vị cao như các chính trị gia, các nhà nghiên cứu, lãnh đạo…sẽ có nhu cầu, hứng thú khác với nông dân, sinh viên…
Đặc tính của quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị pháp luật biểu hiện qua hệ tư tưởng đạo đức và ở những mức độ khác nhau qua phong tục và tập quán.
Trong môi trường xã học ta còn thấy những hiện tượng tâm lý xã hội quần chúng khác ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí nhân cách. Dư luận và tâm trạng chung, đó là sự phán xét đánh giá của sự đông người về sự kiện đời sống xã hội của hoạt động tập thể của hành vi các nhân. Dư luận được hình thành thầm lặng hoặc có ý thức. Có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực trong đời sống được bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh, phát triển trên tâm trạng xã hội và có ảnh hưởng trở lại tâm trạng đó.
Tâm trạng chung: Bao trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan – sức phấn đấu chung của nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh hưởng của tâm trạng chung đó. Ví dụ: lời nói, cử chỉ, việc làm, cách nhìn, nếp nghĩ… ta có thể thấy tâm trạng chung của một gia đình, nhóm bạn thế hệ dân tộc…
Thi đua: Là phương thức tác động qua lại giữa 2 cá nhân, nhóm và tập thể làm tăng kết quả hoạt động của nhau. Nhiều phẩm chất nhân cách, tập thể được phát triển qua thi đua. Ví dụ: Thi đua trong lớp học nhằm đạt kết quả cao trong học tập, thúc đẩy mỗi thành viên cần nỗ lực học tập.
Bắt trước: Thể hiện ra trong mọi lĩnh vực cuat đời sống( vui chơi, học tập, lao động, giao tiếp) bắt trước diễn ra một cách có ý thức hay không có ý thức, bắt trước trong cách giao tiếp, ngôn ngữ, trong ăn mặc…
3. Yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách
Môi trường xã hội tác động đến mỗi cá nhân một cách tự phát và tự giác nhưng chủ yế bằng con đường tự giác là giáo dục.
Theo quan điểm của tâm lí học và giáo dục học hiện đại thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.
Giáo dục là một hoạt động chuyên môn nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. 
Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ được thể hiện ở những điểm sau:
- Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo hướng đó.
- Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được.
   - Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người.
   - Giáo dục uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tắc động tự phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.
   - Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng tới cá nhân ở mức độ hiện có của nó.
        Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng : Sự phát triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của sự dạy học và giáo dục. Điều này được chứng mình bằng cả lịch sử phát triển của loài người: Trên thế giới chưa từng có một nhà bác học, một danh nhân, một thiên tài nào lại chưa hề qua giáo dục của nhà trường cả. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, song không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục. Giáo dục không phải là vạn năng, bởi vì giáo dục cũng chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo hướng đó.
        Như vậy, giáo dục một mặt cung cấp cho con người những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, mặt khác hình thành trong nhân cách học những phẩm chất tâm lý cần thiết theo yêu cầu của sự phát triển xã hội.
4. Hoạt động là con đường quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
         Con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ trở nên không có hiệu quả nếu như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi vậy, hoạt động mới là nhân tố tác động quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự vận động, về động lực bên trong của sự phát triển nói chung. Chừng nào cá nhân nhận thức được ý nghĩa của hoạt động cá nhân trong sự phát triển, hoàn thiện bản thân mình thì hoạt động của cá nhân sẽ trở thành hoạt động tự giác giáo dục.
       Hoạt động để lại dấu ấn của mình lên chính bản thân con người. Tâm lý không chỉ được thể hiện mà còn được hình thành trong hoạt động. Chính nhân cách của con người cũng được hình thành trong hoạt động: con người trở lên can đảm, quả quyết, cứng rắn…Hãy quan sát những người xung quanh, bạn sẽ thấy hoạt động nghề nghiệp là thay đổi vẻ ngoài và thế giới tinh thân họ như thế nào? Đồng thời qua cung cách cư xử, lời ăn tiếng nói…của họ ta cũng biết họ làm nghề gì.
          Chúng ta đã biết, hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người là hoạt đông có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Vì vậy mỗi loại hoạt động có những yêu cầu nhất định và đòi hỏi ở con người những phẩm chất tâm lý nhất đinh. Quá trình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành những phẩm chất đó. Vì thế, nhân cách của học được hình thành và phát triển.
           Thông qua 2 quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân mình để hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động, con người đóng góp lực lượng bản chất của mình vào việc cải tạo thế giới khách quan.
          Hiểu được mối quan hệ giữa hoạt động và nhân cách nên hoạt động phải được coi là phương tiện giáo dục cơ bản. Nhưng không phải là ở tất cả các giai đoạn hay thời kỳ phát triển và cũng không phải các dạng hoạt động đều có tác động như nhau đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách của con người phải tham gia vào các dạng hoạt động khác, nhất là vai trò của hoạt động chủ đạo.
          Hoạt động của con người khác với hoạt động của động vật ở chỗ con người hoạt động có mục đích, có ý thức. Hoạt động của con người được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển ý thức, là nguồn gốc và nội dung của ý thức. Hoạt động của con người được thực hiện không chỉ trong mối quan hệ của con người với sự vật mà còn cả trong mối quan hệ với người khác. Vì thế hoạt động của con người luôn mang tính chất xã hội, tính cộng đồng.
         Tóm lại, hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách, vì vậy trong công tác giáo dục cần chú ý việc tổ chức hoạt động sao cho phong phú hấp dẫn. Đặc biệt, cần chú ý tổ chức hoạt động chủ đạo ở mỗi lứa tuổi, vì hoạt động đấy quyết định sự hình thành cấu trúc tâm lý – nhân cách đặc trưng của lứa tuổi đó.
5. Giao tiếp là con đường quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách
     Liên quan đến vấn đề này nhà tâm lý học Xôviết B.F.Lômôp đã viết “ khi chung ta nghiên cứu lối sống của cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem nó làm cái gì và như thế nào, mà chúng ta còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai như thế nào” [4] .Khác với hoạt động, đối tượng của giao tiếp là những chỉnh thể tâm lý sống động, những nhân cách hoàn chỉnh. Ở đây diễn ra mối quan hệ giữa chủ thể với chủ thể.
      Giao tiếp là điều kiện để tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Không thể có xã hội nếu không có giao tiếp, vì xã hội là một cộng đồng người chư không phải là một dấu cộng đơn giản của nhiều người.Mỗi cá nhân sẽ không thể phát triển bình thường theo kiểu người và không thể trở thành nhân cách nếu không được giao tiếp với cá nhân khác. Giao tiếp là nhu cầu xã hộc cơ bản và xuất hiện sớm. C.Mác viết “ Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao lưu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp với họ ” ( C.Mác, Ănghen , toàn tập – tập 3)[5]. Chằng vậy mà có câu ngạn ngữ rằng : “ Hãy cho tôi biết bạn của anh là ai tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào ”.
      Nhờ có giao tiếp con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp năng lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại.
      Trong khi giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác, nhân thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân mình như một nhân cách.
      Tóm lại, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người – người, là một yếu tố cơ bản của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách. Song mọi hoạt động và giao tiếp của con người chỉ có thể diễn ra trong cộng đồng, trong nhóm và trong tập thể.
III. Liên hệ với thực tiễn
      Mỗi thời đại, mỗi đất nước đều có những chuẩn mực nhân cách của riêng mình và sự tác động của các yếu tố liên quan đến sự hình thành và phát triển của nhân cách cũng không giống thời đại nào, đất nước nào cũng có những vĩ nhân, những nhân cách lớn. Việt Nam tự hòa có vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh.
       Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình đổi mới kinh tế, phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Có thể nói xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội của những sự chuyển đổi toàn diện sau sắc. Điều đó tác động tới mỗi thành viên trong xã hội, làm phong phú đa dạng thêm đồng thời cũng phức tạp thêm lối sống của mỗi người, đặc biệt ảnh hưởng tới sự hình thành của lớp trẻ. Thực tiễn cho thấy những năm qua, thang giá trị của xã hội đang có sự thay đổi nhanh chóng. Chính sự thay đổi một số giái trị dẫn đến sự thay đổi đặc điểm nhân cách của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kì mới. Những giá trị truyền thống gia đình, tình nghĩa, đề cao cái tâm, chữ tín và đạo hiếu, lễ nghĩa vẫn được duy trì nhằm hạn chế, khắc phục tính ích kỉ, thờ ơ thậm chí lạnh lung của một số người dưới cơ chế thị trường.Mục tiêu, yêu cầu của mô hình nhân cách tuổi trẻ Việt Nam cần phải có sự kết hợp những giá trị chuẩn mực truyền thống và mô hình phát triển của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
          Chúng ta hiện nay rất cần những nhân cách có đủ đức và tài để đạt được mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ”. Bác Hồ cũng đã từng dạy: “ Có tài mà không có đức là đồ vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó ” Vì thế một nhân cách hoàn thiện phải có đủ “ đức ” và “ tài ”. Để đạt được điều ấy thì cần có sự tác động vào các yếu tố ấy cần có sự tác động vào các yếu tố hình thành và phát triển nhân cách một cách thích hợp.
          Việc nhận thực được vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách là vô cùng cần thiết đặc biệt là thê hệ trẻ, những con người mong muốn vươn tới sự hoàn thiện hoàn mỹ của nhân cách. Từ việc hiểu biết về nhân cách, về vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, kết hợp với những kiến thức về thực tế đời sống xã hội ta có thể liên hệ với bản thân và xác định phương hướng phát triển cho phù hợp.
               Khi đã có sự hiểu biết về vai trò của yếu tố sinh thể với nhân cách ta có thể có những biện pháp để phát triển những mặt mạnh, kiềm chế những yếu tố không tốt thuộc về mặt bẩm sinh di truyền trong khả năng có thể.
       Đồng thời ta cũng cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, tìm hiểu các kiến thức về xã hội để xác định được những yêu cầu chuẩn mực của thời đại mới, từ đó có sự rèn luyện bản thân theo hương đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu đó.
       Tích cực giao tiếp với bạn bè, thầy cô và mọi người tạo mối quan hệ rộng lớn, thu nhập nhiều kiến thức lịch sử - xã hội giúp nhân cách được phát triển toàn diện.
       Cần có sự năng động, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Làm một sinh viên, kiến thức về chuyên môn là cần thiết nhưng kiến thức và kinh nghiệm đời sống cũng quan trọng không kém. Vì thế để có đúc nhiều kinh nghiệm sống thì chúng ta cần hoạt bát hơn, năng động hơn.
        Tạo mội trường hoạt động tốt với những phương pháp học sáng tạo cũng là một giải pháp tốt thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
        Cuối cùng phải luôn luôn nhìn nhận lại bản thân đánh giái đúng sai những việc đã làm, vạch ra mục tiêu cần vươn tới, luôn luôn phải nghiêm khắc với chính mình, nhìn nhận, đánh giá cuộc sống để giảm bớt nhưng hành vi sai lệch. Quá trình tự giáo dục phải được xác định là thường xuyên liên tục thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi.

KẾT LUẬN

Tóm lại, qua những phân tích trên ta thấy các yếu tố này luôn là những yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân, giữa chúng có mối liên hệ với nhau để tác động lên quá trình hình thành và phát triển nhân cách của một con người. Vì vậy, mỗi cá nhân phải nhận thức được một cách đúng mực vai trò của các yếu tố đó, biết kết hợp hài hòa giữa các yếu tố để tác động đối với quá trình phát triển nhân cách, xây dựng các kế hoạch cho bản thân, tự thân vận động, không ngừng học tập, rèn luyện, không ngừng tham gia vào các hoạt động xã hội, gio tiếp cộng đồng…để hoàn thiện dần nhân cách của mình

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Đặng Thanh Nga ( chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb Công an nhân dân, Hà nội, 2006
2. GS.TS Nguyễn Quang Uẩn ( chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương. Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2008
3. Nguyễn Xuân Thức( chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương. Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2008



[1] Nguyễn Xuân Thức( chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb Đại học sư phạm, Hà nội, 2008, trang 250
[2] Nguyễn Xuân Thức( chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2008, Trang 251
[3] Nguyễn Xuân Thức( chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2008, Trang 252
       [4] Nguyễn Xuân Thức( chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2008, Trang 257

[5] Nguyễn Quang Uẩn( chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cướng, Nxb Đại học sư phạm, Hà nội, 2008, trang 219
Chi tiết...

XEM NHIỀU TRONG TUẦN