Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Hợp tác xã 2012 so với Luật Hợp tác xã năm 2003 (tối thiểu là năm điểm mới)


Luật Hợp tác xã năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004) cùng với các văn bản hướng dẫn (Nghị định 177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004, Nghị định 77/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2005, Nghị định 87/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005, Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 và các văn bản khác có liên quan) đã thể chế hóa một bước quan điểm mới của Nghị quyết số 13/NQ-TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Sau 9 năm thực hiện, nhìn chung Luật hợp tác xã 2003 đã giúp đạt được một số kết quả, tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức kinh tế tập thể phát triển so với khung pháp luật thời kỳ trước đây, có đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, góp phần vào việc hoàn thiện quan hệ sản xuất, và vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, Luật Hợp tác xã 2003 còn có một số bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm thúc đẩy phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã một cách vững chắc hơn.
Xuất phát từ mục tiêu khắc phục một số bất cập từ Luật Hợp tác xã 2003, nhằm khuyến khích và phát triển mạnh mẽ mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu mới, đồng thời định hướng phát triển các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hiện có hoạt động theo đúng bản chất hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đưa khu vực hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nói riêng và thành phần kinh tế tập thể nói chung trở thành lực lượng to lớn, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta; bảo đảm quyền và lợi ích của hàng chục triệu hộ nông dân, hàng chục triệu người tiêu dùng, hộ kinh doanh cá thể, ngày 20 tháng 11 năm 2012 tại kỳ họp thứ 4 Khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Luật Hợp tác xã năm 2012 (số 23/2012/QH13).
Để hiểu rõ hơn về vấn đề trên em xin chọn đề tài “Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Hợp tác xã 2012 so với Luật Hợp tác xã năm 2003 (tối thiểu là năm điểm mới)” làm bài tập lớn học kỳ cho mình.


I.                  KHÁI QUÁT CHUNG
1.     Khái niệm Hợp tác xã
Theo Điều 1 Luật Hợp tác xã 2003: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy của các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
Theo định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Luật Hợp tác xã năm 2012 thì: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.
Thứ nhấtvề góc độ kinh tế, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế cơ bản và quan trọng nhất của thành phần kinh tế tập thể, dựa trên sở hữu của các xã viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn từ đó mới phát sinh các quan hệ tổ chức quản lí và quan hệ phân phối tương ứng. Trong hợp tác xã có sự phối hợp, hỗ trọ giúp đỡ lẫn nhau để kêt hợp sức mạnh của tập thể giải quyết tốt hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh cũng như đời sống kinh tế và mục tiêu xa hơn nữa là nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi xã viên.
Thứ hai, về góc độ xã hội, hợp tác xã mang tính xã hội sâu sắc. Tính xã hội của hợp tác xã thể hiệ ở việc hợp tác xã không chỉ quan tâm đến mục tiêu kinh tế mà còn chú trọng đến lợi ích, điều kiện sống của các thành viên. Điều đó thể hiện trong toàn bộ nguyên tắc tổ chức, hoạt động của mình. Với việc tạo điều kiện cho những người lao động, những người sản xuất nhỏ không những có thể trụ vững trong thị tường cạnh tranh mà còn đẩy mạnh sự phát triển, xóa bớt một số gánh nặng về thất nghiệp, chất lượng cuộc sống,... cho xã hội. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, do những người lao động thành lập ra để cùng nhau thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hợp tác xã, những người lao động cùng nhau thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng người, làm cho hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Thứ ba, về góc độ pháp lí, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Về tổ chức, hợp tác xã bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người nhiều vốn và người ít vốn (thực hiện nguyên tắc đối nhân), cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lí dân chủ. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế được thành lập theo thủ tục pháp lí nhất định, có đăng kí kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản tách biệt so với tài sản của các xã viên, có thẩm quyền nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật.
Thứ tư, về tổ chức quản lí, hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Hợp tác xã hoạt động lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích của các thành viên hợp tác xã và lợi ích của tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên. Hợp tác xã luôn tôn trọng quyền độc lập, tự chủ kinh tế của thành viên hợp tác xã. Sự hình thành và phát triển của hợp tác xã không phá vỡ tính độc lập, tự chủ về kinh tế của các thành viên hợp tác xã. Khi thành viên hợp tác xã là một hộ gia đình hay thậm chí là một tổ chức, pháp nhân thì khi trở thành thành viên của hợp tác xã sẽ phải thực hiện những quy định trong điều lệ hợp tác xã và hợp tác xã không có bất kì sự can thiệp nào ngoài những quy định trong điều lệ của mình.
Thứ năm, về phân phối, kinh tế hợp tác xã thực hiện phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ. Hợp tác xã được coi là tổ chức kinh tế hoạt động như doanh nghiệp. Hợp tác xã được quyết định không phải bởi số vốn góp mà là yếu tố thành viên của hợp tác xã. Việc phân phối trong hợp tác xã không chỉ dựa theo nguyên tắc vốn góp mà còn theo lao động và tùy thuộc mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.
Theo Luật Hợp tác xã 2003 thì nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là:
Tự nguyệnMọi cá nhân, gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật hợp tác xã, tán thành Điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã và cũng theo đó cá nhân hộ xã viên có quyền ra khỏi hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã.
Dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện công khai phương hướng sản xuất kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ hợp tác xã.
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: Hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, tự quyết về phân phối thu nhập. Mục đích thành lập hớp tác xã nông nghiệp chủ yếu là phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân. Vì vậy, sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của hợp tác xã, lãi được trích một phần vào các quỹ của hợp tác xã, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.
Hợp tác và phát triển cộng đồng: Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng đồng xã hội; hợp tác giữa các hợp tác xã trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Có tư cách pháp nhân, và bình đẳng trước pháp luật: Đây là một trong những nguyên tắc nhằm đẳm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mình, có tư cách pháp nhân đó là điều kiện cần để tiến tới việc thành lập và đảm bảo quyề lợi của hợp tác xã như một doanh nghiệp, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh.
Luật Hợp tác xã năm 2012 được xây dựng trên cơ sở tiếp tục thể chế hóa sâu sắc chủ trương của Đảng, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về phát triển hợp tác xãnhằm phục vụ nhu cầu, nguyện vọng của thành viên. Bên cạnh kế thừa những quy định cũ, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã bổ sung nhiều điểm mới so với Luật Hợp tác xã2003 ở một số phương diện như sau:
Luật Hợp tác xã 2003 ngay phần mở đầu đã quy định, “hợp tác xã là doanh nghiệp…”. Đây là một hạn chế cơ bản dẫn đến các cấp, các ngành, lãnh đạo các địa phương và đặc biệt là người dân chưa có nhận thức đầy đủ về bản chất và tính ưu việt của tổ chức hợp tác xã kiểu mới. Sau gần 10 năm thực hiện, mô hình hợp tác xã kiểu mới ở nhiều nơi đã bị biến tướng hoặc bị lợi dụng để trục lợi từ chính sách. Phần lớn hợp tác xã mua bán đổi mục tiêu hoạt động, quan tâm kinh doanh để tạo lợi nhuận trả lương cho cán bộ nhân viên là xã viên, ít chú tâm phục vụ người tiêu dùng là xã viên cũ. Vì vậy các xã viên là các hộ dân trước đây không muốn tham gia hợp tác xã, xã viên tự nguyện góp vốn chủ yếu là những cán bộ nhân viên  làm việc tại hợp tác xã. Do đó, trong Luật hợp tác xã năm 2012 đã xác định rõ bản chất của hợp tác xã đó là hợp tác xã không phải là Doanh nghiệp, điểm khác nhau cơ bản nhất của hợp tác xã với Doanh nghiệp đó là hợp tác xã là một tổ chức được ít nhất là 07 người thành lập ra phục vụ cho chính mình là đặc điểm lơn nhất của hợp tác xã, Doanh nghiệp được thành lập ra phục vụ cho cộng đồng, cho người khác, mục tiêu hợp tác xã đó là “  hợp tác xã nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”; “phân phối của hợp tác xã chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên; theo công sức lao động, phần còn lại chia theo vốn góp”. Khẳng định này nhằm mục đích xóa bỏ tình trạng doanh nghiệp "đột lốt" hợp tác xã. Trên thực tiễn, hợp tác xã và các loại hình doanh nghiệp đều là các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Hai loại hình tổ chức này có đặc điểm giống nhau như được thành lập hợp pháp, có điều lệ, có cơ cấu tổ chức, có tài sản và tự chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản. Theo đó, hợp tác xã cũng phải được quản trị như doanh nghiệp nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả.  Tuy nhiên, hợp tác xã có những đặc điểm riêng khác với Doanh nghiệp về bản chất. Mục đích hoạt động của hợp tác xã là tối đa hóa lợi ích cho thành viên thông qua việc đáp ứng nhu cầu chung của thành viên về sản phẩm, dịch vụ hoặc tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho thành viên một cách hiệu quả hơn so với việc để từng thành viên đơn lẻ thực hiện.
Hoạt động của hợp tác xã có thể đem lại lợi nhuận cho các thành viên nhưng lợi nhuận chỉ là phương tiện để hợp tác xã thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho thành viên và thông qua lợi ích đó để tối đa hóa lợi nhuận cho từng thành viên.  Trong khi đó, mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp và cổ đông doanh nghiệp là lợi nhuận. Hoạt động của Doang nghiệp thông thường không tác động đến hoạt động kinh tế của các cổ đông mà chỉ tác động tới vốn góp nhằm mục tiêu lợi nhuận cho mỗi cổ đông.  Vì vậy, Luật Hợp tác xã 2012 bỏ quy định “hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp”
2. Về điều lệ của hợp tác xã
Luật hợp tác xã năm 2012 có quy định thêm ba nội dung trong điều lệ của hợp tác xã đó là:
Thứ nhất, điều lệ của hợp tác xã phải quy định về “mức độ thường xuyên sử dụng sản phẩm, dịch vụ; giá trị tối thiểu của sản phẩm, dịch vụ mà thành viên, hợp tác xã thành viên phải sử dụng; thời gian liên tục không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhưng không quá 03 năm; thời gian liên tục không làm việc cho hợp tác xã đối với hợp tác xã tạo việc làm nhưng không quá 02 năm” (khoản 5 Điều 21). Việc quy định như vậy sẽ nâng cao trách nhiệm của các thành viên trong việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ đồng thời cũng là căn cứ để chấm dứt tư cách thành viên theo quy định tại Điều 16.
Thứ hai, điều lệ của hợp tác xã phải quy định về “nội dung hợp đồng dịch vụ giữa hợp tác xã với thành viên, giữa liên hiệp hợp tác xã với hợp tác xã thành viên bao gồm nghĩa vụ cung ứng và sử dụng sản phẩm, dịch vụ; giá và phương thức thanh toán sản phẩm, dịch vụ. Đối với hợp tác xã tạo việc làm, nội dung hợp đồng dịch vụ giữa hợp tác xã và thành viên là nội dung hợp đồng lao động giữa hợp tác xã và thành viên” (khoản 12 Điều 21). Việc quy định về nội dung hợp đồng dịch vụ cũng sẽ nâng cao ý thức của các thành viên trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình và có căn cứ để giải quyết khi có tranh chấp phát sinh.
Thứ ba, điều lệ của hợp tác xã phải quy định về “việc cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm mà hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cam kết cung ứng, tiêu thụ cho thành viên, hợp tác xã thành viên ra thị trường. Tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm mà hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cam kết cung ứng, tiêu thụ cho thành viên, hợp tác xã thành viên ra thị trường cho từng lĩnh vực, loại hình theo quy định của Chính phủ” (khoản 13 Điều 21). Theo đó Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm nhằm tránh tình trạng cung ứng không đủ hoặc thừa không phù hợp với thực tiễn.
Theo Luật hợp tác xã năm 2003 thành viên hợp tác xã được gọi là “xã viên”còn theo Luật hợp tác xã năm 2012 thành viên hợp tác xã được gọi là “thành viên”, việc thay đổi tên gọi như vậy là phù hợp với mô hình quản lý trong điều kiện mới.
Về điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã thì theo Luật hợp tác xã năm 2003 cá nhân Việt Nam từ 18 tuổi thì có thể trở thành thành viên hợp tác xã, còn theo Luật hợp tác xã năm 2012 thì cá nhân Việt Nam phải đủ 18 tuổi mới có thể trở thành thành viên hợp tác xã. Việc quy định cá nhân đủ 18 tuổi mới có thể trở thành thành viên hợp tác xã là hoàn toàn hợp lý phù hợp với quy định của pháp luật vì theo quy định của pháp luật Dân sự thì cá nhân từ đủ 18 tuổi mới có năng lực hành vi dân sự đầy đủ vì khi đó về mặt pháp lý cá nhân đó mới khả năng nhận thức đầy đủ về hành vi của mình cho nên có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình (mặc dù Nghị định số 177/2004/NĐ-CP hướng dẫn Luật hợp tác xã năm 2003 cũng hướng dẫn cá nhân đủ 18 tuổi mới có thể trở thành thành viên của hợp tác xã nhưng đây lại là văn bản dưới luật và so sánh hai văn bản Luật hợp tác xã năm 2003 và 2012 thì đã có quy định khác nhau).
Luật hợp tác xã năm 2012 còn cho phép cá nhân là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam và đáp ứng các điều kiện chung thì cũng có thể trở thành thành viên hợp tác xã. Quy định này tạo điều kiện cho cá nhân nước ngoài cư trú ở Việt Nam nếu có nhu cầu góp vốn, góp sức có thể tham gia vào hợp tác xã, đồng thời cũng tạo thêm khả năng phát triển của hợp tác xã khi có điều kiện mở rộng giao lưu với người nước ngoài. Mặt khác, đối với hợp tác xã tạo việc làm thành viên chỉ có thể là cá nhân.
Luật hợp tác xã năm 2012 đã quy định rõ và đầy đủ hơn quyền của thành viên HTX với tư cách là người chủ của hợp tác xã. Cụ thể tại Điều 14 Luật hợp tác xãnăm 2012 đã bổ sung nhiều quyền lợi của thành viên hợp tác xã so với các quy định trong Luật hợp tác xã năm 2003. Theo đó, thành viên hợp tác xã có quyền yêu cầuhợp tác xã cung ứng dịch vụ, sản phẩm theo nhu cầu của mình. Điều này là hoàn toàn phù hợp bởi hợp tác xã được hình thành xuất phát từ nhu cầu đáp ứng các lợi ích của các thành viên, từ nguyên tắc của hợp tác xã là hoạt động để đáp ứng nhu cầu của thành viên, nhiệm vụ của hợp tác xã là phải chăm lo, quan tâm đến thực trạng lao động của các thành viên của mình. Như vậy, quy định này đã giúp đảm bảo quyền lợi hợp pháp đáng có của các thành viên hợp tác xã mà Luật hợp tác xã năm 2003 chưa làm được.
Bên cạnh đó, Luật hợp tác xã cũng bổ sung quy định về nghĩa vụ của các thành viên hợp tác xã là phải có nghĩa vụ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã. Luật hợp tác xã năm 2003 không có quy định về nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của hợp tác xã đối với xã viên và các nghĩa vụ của các xã viên nên đã dẫn đến tình trạng hợp tác xã tùy tiện cung cấp dịch vụ ra bên ngoài, phục vụ lợi ích của xã viên thì ít, phục vụ cho bên ngoài thì nhiều. Đây là một khuyết điểm rất lớn của Luật hợp tác xã năm 2003. Khắc phục những hạn chế này, Luật hợp tác xã năm 2012 đã quy định cụ thể là thành viên hợp tác xã phải sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã cung cấp. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định  hợp tác xã phải đảm bảo việc phục vụ lợi ích của các thành viên. Chỉ khi các nhu cầu về lợi ích của các thành viên đã được đáp ứng, hợp tác xã mới được quyền cung ứng dịch vụ ra bên ngoài. Đây là quy định rất mới, rất phù hợp để đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích của thành viên hợp tác xã cũng như chính việc duy trì hoạt động hợp tác xã.
5. Chấm dứt tư cách thành viên
So với Luật hợp tác xã năm 2003 thì Luật hợp tác xã năm 2012 có thêm hai trường hợp chấm dứt tư cách thành viên, đó là trong trường hợp: “thành viên, hợp tác xã thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 03 năm. Đối với hợp tác xã tạo việc làm, thành viên không làm việc trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 02 năm; tại thời điểm cam kết góp đủ vốn, thành viên, hợp tác xã thành viên không góp vốn hoặc góp vốn thấp hơn vốn góp tối thiểu quy định trong điều lệ” (Điều 16 Luật hợp tác xã năm 2012). Hợp tác xã được thành lập dựa trên việc góp vốn, góp sức của các thành viên vì vậy khi tham gia vào hợp tác xã các thành viên phải sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã để tăng thêm thu nhập cho hợp tác xã và đây cũng chính là mục tiêu của hợp tác xã, đồng thời việc phân phối thu nhập cũng chủ yếu dựa vào mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên đó. Cho nên nếu một thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thì gian dài thì không làm cho hợp tác xã phát triển và cũng không được chia lợi nhuận và cũng không làm đúng nghĩa vụ của mình cho nên sẽ bị chấm dứt tư cách thành viên. Hoặc trong trường hợp đến thời hạn cam kết góp đủ vốn mà thành viên không góp vốn hoặc góp vốn thấp hơn vốn góp tối thiểu quy định trong điều lệ sẽ bị chấm dứt tư cách thành viên bởi vì thành viên đó không góp hoặc góp không đủ có thể sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã, đồng thời hợp tác xã cũng được thành lập trên việc góp vốn của các thành viên mà lại không góp thì sẽ bị chấm dứt tư cách thành viên (trừ trường hợp không góp vốn nhưng không cam kết góp mà có thể góp sức thì vẫn là thành viên hợp tác xã), hơn nữa đây cũng là hành vi vi phạm nghĩa vụ của thành viên. Như vậy, Luật hợp tác xã năm 2012 đã bổ sung thêm các hai trường hợp chấm dứt tư cách thành viên trong trường hợp thành viên không góp hoặc không  góp đủ vốn hoặc không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, việc quy định như vậy sẽ giúp cho hợp tác xã có thêm căn cứ pháp lí để có thể chấm dứt tư cách thành viên đối với các thành viên vi phạm. Tuy nhiên, Luật hợp tác xã năm 2012 không đề cập đến việc chấm dứt tư cách thành viên trong trường hợp “xã viên đã chuyển hết vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã” (điểm c khoản 1 Điều 20 Luật hợp tác xã năm 2003), trong trường hợp này thì thành viên sẽ đương nhiên chấm dứt tư cách thành viên, tuy nhiên cần quy định trong luật để có căn cứ pháp lí khi giải quyết vụ việc cụ thể.
Luật Hợp tác xã 2012 Quy định mức góp vốn tối đa của thành viên khi tham gia hợp tác xã không quá 20% vốn điều lệ; Luật Hợp tác xã 2003 quy định vốn góp tối đa của xã viên (thành viên) không quá 30% vốn điều lệ.
Việc quy định mức góp vốn tối đa của một thành viên ở một mức hợp lý và mức vốn góp không quá chênh lệch giữa các thành viên là cần thiết, nhằm đề cao nguyên tắc bình đẳng “mỗi người có 1 phiếu biểu quyết như nhau không phụ thuộc mức vốn góp” trong quản lý hợp tác xã, khuyến khích nhiều thành viên góp vốn thay vì chỉ huy động vốn góp của một số ít thành viên, tránh rủi ro cao cho hợp tác xã khi phụ thuộc vào vốn góp của một hoặc một số ít thành viên. Vốn góp vào vốn điều lệ hợp tác xã chủ yếu xác nhận tư cách thành viên của hợp tác xã. Thực tế, việc quy định mức vốn góp tối đa cho thành viên nhằm ghi nhận sự khác biệt giữa hợp tác xã với các loại hình Doanh nghiệp, đặc biệt là để đề cao và bảo đảm thực hiện sự bình đẳng trong quản lý hợp tác xã.  Trường hợp cần huy động vốn đầu tư, hợp tác xã ưu tiên vay vốn từ các thành viên hợp tác xãnhất là thành viên có nhiều vốn trên cơ sở thỏa thuận hai bên. Vốn góp tối đa của thành viên không vượt quá 20%  trong Luật Hợp tác xã 2012 (thay vì 30% Luật Hợp tác xã 2003) đối với hợp tác xã và không vượt quá 30% đối với liên hợp tác xã.
Theo Luật Hợp tác xã năm 2003 thì cơ cấu tổ chức của hợp tác xã bao gồm: Đại hộ xã viên, ban quản trị ( cơ quan quản lý), chủ nhiệm hợp tác (người quản ly),ban kiểm soát. Cơ cấu tổ chức hợ tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012 không có gì thay đổi đáng kể mà chỉ đổi tên, bao gồm: Đại hội thành viên, hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) và ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên. Tuy nhiên, theo luật hợp tác xã năm 2003 thì cơ quan quản lý và cơ quan điều hành của hợp tác xã có thể được tổ chức theo một trong hai mô hình hợp tác xã thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành (Điều 27) hoặc hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành (Điều 28), còn theo quy định của Luật hợp tác xã 2012 về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong hợp tác xã thì có thể hiểu hợp tác xã sẽ chỉ tổ chức theo một mô hình đó là thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành. Quy định này là hoàn toàn phù hợp, bởi vì nếu thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành theo Luật hợp tác xã năm 2003 thì trưởng Ban quản trị đồng thời là chủ nhiệm hợp tác xã (Điều 6 Nghị Định số 177/2004/NĐ-CP) vừa thực hiện chức năng quản lý vừa thực hiện chức năng điều hành, nếu một người cùng một lúc đảm nhận hai công việc như vậy sẽ làm hạn chế khả năng quản lý cũng như điều hành. Cho nên, Luật hợp tác xã năm 2012 đã quy định hợp tác xã sẽ thành lập bộ máy quản lý riêng bộ máy điều hành, theo đó Hội đồng quản trị sẽ là cơ quan quản lý hợp tác xã (Điều 35). Với việc quy định như vậy sẽ giảm bớt được gánh nặng cho một cơ quan, công việc sẽ được chia đều cho hai cơ quan khác nhau, điều này sẽ giúp cho hoạt động quản lý, điều hành của hợp tác xã được tốt hơn.
          So với Luật hợp tác xã năm 2003 thì Luật hợp tác xã năm 2012 có thêm một số điểm mới về tổ chức đại hội thành viên bất thường và điều kiện để tiến hành địa hội.
          Thứ nhất, về tỷ lệ đại biểu tham dự đại hội đại biểu thành viên. Theo Điều 11 Nghị định số 177/2004/ĐN-CP thì “các hợp tác xã có từ trên 100 đến 500 xã viên thì tỷ lệ đại biểu tham dự đại hội không thấp hơn 30% tổng số xã viên; các hợp tác xã có từ trên 500 xã viên thì tỷ lệ đại biểu tham dự đại hội không thấp hơn 20% tổng số xã viên”. Việc quy định số lượng đại biểu tham dự địa hội như vậy là chưa cụ thể đối với từng hợp tác xã bởi vì nếu hợp tác xã có trên 1000 thành viên mà chỉ có 20% số đại biểu tham gi thì quá ít và khó giải quyết được vấn đề của hợp tác xã. Do đó, Luật hợp tác xã năm 2012 đã quy định cụ thể hơn về số lượng đại biểu tham gia đại hội xã viên “không được ít hơn 30% tổng số thành viên đối với hợp tác xã có từ trên 100 đến 300 thành viên, không được ít hơn 20% tổng số thành viên đối với hợp tác xã có từ trên 300 đến 1000 thành viên, không được ít hơn 200 đại biểu đối với hợp tác xã có trên 1000 thành viên”. (Khoản 4 Điều 30). Việc quy định cụ thể số lượng đại biểu tối thiếu tham gia đại hội thành viên như vậy sẽ giúp cho hợp tác xã có thể giải quyết tốt công việc của từng hợp tác xã với số lượng thành viên khác nhau.
  Để Đại hội thành viên có thể tiến hành thì thay vì phải có ít nhất 2/3 tổng số thành viên hoặc đại biểu xã viên tham dự (Luật hợp tác xã năm 2003) thì Luật hợp tác xã năm 2012 quy định cụ thể hơn, Đại hội thành viên được tiến hành khi có ít nhất 75% tổng số thành viên hợp tác xã hoặc đại biểu thành viên tham dự, nếu không đủ sẽ tiến hành lần hai nhưng chỉ cần có ít nhất 50% tổng số thành viên hợp tác xã hoặc đại biêu thành viên, nếu không đủ số lượng sẽ tiếp tục họp lần ba nhưng làn này sẽ không phụ thuộc vào số thành viên tham dự. Việc quy đinh như vậy sẽ tránh được trường hợp có người không muốn tham gia Đại hội mà làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành viên khác.
Thứ hai, về các trường hợp triệu tập Đại hội thành viên bất thường của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và theo yêu cầu của thành viên hợp tác xã. Theo Luật hợp tác xã năm 2012 thì hội đồng quản trị không chỉ triệu tập Đại hội thành viên trong trường hợp “giải quyết những vấn đề vượt quá thẩm quyền của Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát và trường hợp theo đề nghị của ít nhất một phần ba tổng số thành viên hợp tác xã mà không được giải quyết theo quy định” mà Hội đồng quản trị còn được triệu tập Đại hội thành viên trong trường hợp Hội đồng quản trị không tổ chức được cuộc họp định kỳ sau hai lần triệu tập hoặc theo đề nghị của ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên (Điều 31). Còn Ban kiểm soát được triệu tập Đại hội thành viên trong trường hợp quá 03 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính mà hội đồng quản trị không triệu tập đại hội thường niên, bỏ trường hợp “khi có hành vi vi phạm pháp luật về hợp tác xã, Điều lệ, Nội quy, Quy chế của hợp tác xã và Nghị quyết Đại hội xã viên, Ban kiểm soát đã yêu cầu mà Ban quản trị không thực hiện hoặc thực hiện không có kết quả các biện pháp ngăn chặn” (Điều 12 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP). Việc quy định như vậy sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho Hội động quản trị và Ban kiểm soát trong việc tiến hành Đại hội để giải quyết kịp thời các công việc của hợp tác xã.
Theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP thì trong trường hợp Ban kiểm soát không triệu tập Đại hội xã viên bất thường khi Ban quản trị không triệu tập Đại hội xã viên khi nhận được yêu cầu của ít nhất 1/3 số xã viên thì sau 15 ngày xã viên gửi đơn đến cơ quan đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã đề nghị can thiệp, trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày cơ quan đăng ký kinh doanh có văn bản yêu cầu mà hợp tác xã vẫn không tổ chức Đại hội xã viên bất thường thì cơ quan đăng ký kinh doanh báo cáo Uỷ ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để làm thủ tục giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã. Như vậy, theo Luật hợp tác xã năm 2003 thì nếu Đại hội xã viên không được tiến hành theo yêu cầu của ít nhất 1/3 số xã viên sẽ tiếp tục yêu cầu cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh can thiệp, nếu Đại hội xã viên vẫn không được tiến hành thì hợp tác xã sẽ bị giải thể. Tuy nhiên, theo Luật hợp tác xã năm 2012 nếu Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát không tổ chức Đại hội thành viên theo yêu cầu của ít nhất 1/3 thành viên hợp tác xã thì thành viên đại diện cho ít nhất 1/3 tổng số thành viên có quyền triệu tập đại hội (khoản 4 Điều 31). Như vậy, thay vì gửi đơn đề nghị đến cơ quan đang ký kinh doanh thì các thành viên có thể cử người đại diện tổ chức Đại hội thành viên, việc quy định như vậy sẽ tạo điều kiện đảm bảo quyền lợi cho thành viên và hợp tác xã có thể giải quyết nhanh chóng thay vì phải đợi yêu cầu của cơ quan đăng ký kinh doanh, mặt khác việc không tiến hành Đại hội thành viên mà dẫn đến giải thể có lẽ chưa phù hợp vì có thể vì nếu giải thể thì có thể làm mất việc làm của các thành viên trong khi họ lại không muốn như vậy. Cho nên trao quyền cho các thành viên có thể tự tổ chức Đại hội thành viên trong trường hợp nhất định là hoàn toàn phù hợp.
Thứ ba,về việc biểu quyết trong Hội đồng thành viên thì Luật hợp tác xã năm 2012 quy định thêm một trường hợp chỉ được tiến hành khi có ít nhất 75% tổng số đại biểu tán thành, đó là việc “đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của hợp tác xã”(khoản 1 Điều 34), đây là việc liên quan đến tài sản lớn của hợp tác xã vì vậy cần phải số lượng lớn đại biểu tán thành chứ không thể thực hiện qua 50% số đại biểu tán thành như Luật hợp tác xã năm 2003.
Ngoài ra, về việc chuẩn bị đại hội thì người triệu tập đại hội phải gửi giấy mời họp phải kèm theo chương trình, tài liệu liên quan đến nội dung đại hội thành viên ít nhất 07 ngày trước ngày đại hội thành viên khai mạc thay vì chậm nhất là mười ngày như trước. Và nội dung chương trình đại hội có thể thay đổi khi có ít nhất một phần ba tổng số thành viên hợp tác xã hoặc đại biểu thành viên trở lên kiến nghị điều chỉnh về cùng một nội dung bằng văn bản.
7.2. Hội đồng quản trị
Theo Luật hợp tác xã năm 2012 thì số lượng thành viên hội đồng quản trị do điều lệ quy định nhưng tối thiểu là 03 người, tối đa là 15 người. Hội đồng quản trị hợp định kỳ theo quy định của điều lệ nhưng ít nhất 03 tháng một lần thay vì họp mỗi tháng một lần như trước bởi vì nếu mỗi tháng họp một lần thì sẽ ít công việc để giải quyết thậm chí là ko có việc gì, hơn nữa việc quản lí được tiến hành trong thời gian dài để có thể nắm bắt được những thiếu sót để sửa đổi. Ngoài ra Luật hợp tác xã năm 2012 quy định thêm về só lượng thành viên tham gia cuộc họp, cuộc họp hội đồng quản trị được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên hội đồng quản trị tham dự, mặt khác luật còn quy định về việc xem sét tư cách thành viên khi không tham dự họp nhằm có biện pháp xử lí. Việc quy định như vậy sẽ tạo điều kiện cho hội đồng quản trị có thể tiến hành thuận lợi để giải quyết các công việc phát sinh đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm cho thành viên hội đồng quản trị.
7.3. Ban kiểm soát
Theo quy định tại Điều 39 Luật hợp tác xã năm 2012 thì hợp tác xã có từ 30 thành viên trở lên phải bầu ban kiểm soát, đối với hợp tác xã có dưới 30 thành viên việc thành lập ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên do điều lệ quy định. Việc quy định như vậy đã buộc hợp tác xã phải tiến hành thành lập ban kiểm soát nhằm kiểm tra, giám sát các hoạt động của hợp tác xã tránh tình trạng một số hợp tác xã không thành lập ban kiểm soát nhằm tiết kiệm chi phí tổ chức.
Bổ sung quy định về việc trả lại vốn góp cho thành viên nhằm tăng trách nhiệm của thành viên hợp tác xã, đồng thời bảo đảm sự hoạt động bền vững của hợp tác xã (Điều 45): Việc trả lại vốn góp của thành viên chỉ được thực hiện sau khi hợp tác xã đã quyết toán thuế của năm tài chính và phải bảo đảm khả năng thanh toán các khoản nợ, các nghĩa vụ tài chính khác của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; thành viên chỉ được trả lại vốn góp sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính của mình đối với hợp tác xã; cá nhân hoặc tập thể quyết định việc trả lại vốn góp cho thành viên không đúng quy định tại khoản này phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có) cho hợp tác xã. Sửa đổi, bổ sung quy định về huy động vốn đầu tư phát triển của hợp tác xã nhằm định hướng hợp tác xã hoạt động đúng bản chất của tổ chức mình, vừa có thể khai thông kênh huy động vốn đầu tư cho hợp tác xã, nhất là từ thành viên có nhiều vốn. Luật Hợp tác xã 2012 ngoài quy định về vốn góp của thành viên, bổ sung quy định “hợp tác xã phải ưu tiên huy động vốn từ thành viên để đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở thỏa thuận với thành viên của mình” (Khoản 1 Điều 44) và “hợp tác xã phải trích lập quỹ đầu tư phát triển không thấp hơn 20% thu nhập sau thuế (Khoản 1, Điều 46).
Luật hợp tác xã năm 2003 không tách bạch và làm rõ được hai loại vốn: Vốn góp xác nhận tư cách thành viên và vốn huy động như là khoản vốn vay từ thành viên phục vụ đầu tư sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. Đồng thời, cùng với việc quy định phân phối thu nhập sau thuế cho thành viên trước hết theo mức vốn góp mà không theo mức độ sử dụng dịch vụ có thể tạo nguy cơ chuyển hợp tác xã dần trở thành tổ chức doanh nghiệp hướng theo lợi nhuận, không hướng vào đáp ứng nhu cầu của thành viên. Quy định của Luật hợp tác xã 2012  đảm nguyên tắc tự chủ tài chính của hợp tác xã. Theo đó, vốn đầu tư của hợp tác xã chủ yếu và trước hết hình thành từ nội lực của hợp tác xã và của thành viên.
KẾT LUẬN
Hiện nay, để thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, việc phát triển kinh tế tập thể nói chung và kinh tế hợp tác xã đã trở thành đòi hỏi bức xúc và là quá trình phát triển tất yếu khách quan.
Việc tăng cường hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã phát triển không chỉ là yêu cầu thiết thực mà còn là một phần nội dung của chiến lược phát triển. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng khung pháp lý thuận lợi hợp tác sẽ phát huy tiềm năng của mình và góp phần xứng đáng trong các mặt chính trị, văn hóa – xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng của đất nước.

Related Post

Previous
Next Post »