Trong TTDS, ngoài người đại diện, đương sự còn
có thể nhờ (yêu cầu) người khác tham gia tố tụng để BVQLIHP của mình. Người
tham gia tố tụng này được gọi là NBVQLIHP.
Trong phạm vi bài tập nhóm, nhóm đã chọn đề
tài: “Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự”,
qua đó làm rõ hơn các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định
này và những điểm mới của BLTTDS 2015 về vấn đề này.
Khoản 1 Điều 63 BLTTDS 2004 quy định: “Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và
được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự”.
Tại khoản 2 Điều 63 quy định NBVQLIHP bao gồm:
Luật sư tham gia TTDS theo quy định của pháp luật về luật sư; Trợ giúp viên
pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ
giúp pháp lý; Công dân Việt Nam khi đáp ứng các điều kiện của pháp luật TTDS.
BLTTDS năm 2015 tại Khoản 1 Điều 75 quy định: “Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Tại Khoản 2, luật đã quy định
thêm trường hợp đại diện của tập thể lao động cũng là NBVQLIHP của người lao
động theo quy định của pháp luật về lao động, công đoàn. Đây là những điểm mới
của BLTTDS 2015 so với BLTTDS 2004.
2. Đặc điểm
Thứ nhất, NBVQLIHP là người am
hiểu pháp luật. Bởi, có sự am hiểu nhất định về pháp luật thì NBVQLIHP mới có
thể bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình một cách tốt nhất, thành công nhất;
Thứ hai, NBVQLIHP phải có đủ
điều kiện tham gia TTDS theo quy định của Khoản 1 Điều 18 Nghị quyết số
03/2012/NQ – HĐTP hướng dẫn thi hành“Những quy định chung” của
BLTTDS.
Thứ ba, sự có mặt của NBVQLIHP
phụ thuộc vào đương sự. Điều này thể hiện ở việc NBVQLIHP xuất hiện từ khi
đương sự nhờ và được tòa án chấp nhận (Khoản 2, 3, 4 Điều 18 Nghị quyết
03/2012/NQ – HĐTP);
Thứ tư, mục đích tham gia tố
tụng để BVQLIHP cho đương sự. NBVQLIHP có thể BVQLIHP của
nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của những
người đó không đối lập nhau. Nhiều NBVQLIHP có thể cùng BVQLIHP của một đương
sự trong vụ án;
3. Ý nghĩa
Thứ nhất, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trước Tòa án.
NBVQLIHP giúp đương sự nhận thức đúng quyền, nghĩa vụ của mình và
bảo vệ các quyền và lợi ích đó trước Tòa án khi có sự vi phạm. Đó là nhờ các
quyền được pháp luật TTDS quy định cho NBVQLIHP: quyền xác minh, thu thập chứng
cứ và cung cấp cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án; giúp đương sự trình bày về
yêu cầu của họ và cung cấp các tài liệu; tham gia hỏi tại phiên tòa,...
Thứ hai, đối với việc giải quyết
vụ việc dân sự của Tòa án. NBVQLIHP có sự am hiểu
pháp luật chuyên sâu, vì vậy, những chứng cứ họ đưa ra sẽ dễ dàng được chấp
nhận, giúp cho quá trình giải quyết vụ việc được nhanh chóng; bảo vệ được lợi ích
của đương sự. Mặt khác, với sự tham gia của NBVQLIHP, quá trình xét xử vụ án
của Tòa án được công minh hơn, làm cho người THTT phải khách quan, tôn trọng
pháp luật hơn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS[1] thì: “đương sự có quyền tự bảo
vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của bộ luật
này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Theo quy định tại Điều 63 BLTTDS 2004,
những người có thể tham gia tố tụng với tư cách NBVQLIHP gồm: Luật sư, Bào chữa
viên nhân dân và người khác được Toà án chấp nhận. Để được công nhận là NBVQLIHP
thì người đó phải xuất trình các giấy tờ theo quy định tại Điều 18 Nghị quyết
03/2012:
- Luật
sư thì phải xuất trình cho Tòa án giấy giới thiệu của Văn phòng Luật sư nơi họ
là thành viên hoặc có hợp đồng làm việc cử họ tham gia tố tụng tại Tòa án và thẻ
Luật sư;
- Trợ
giúp viên pháp lý, người tham gia trợ giúp pháp lý thì phải xuất trình cho Tòa
án giấy giới thiệu của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử họ tham gia tố tụng
và thẻ Trợ giúp viên pháp lý hoặc thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý;
- Đối
với người khác thì phải xuất trình cho Tòa án văn bản có nội dung thể hiện ý
chí của đương sự nhờ BVQLIHP cho đương sự; văn bản của UBND xã, phường, thị trấn
nơi họ cư trú hoặc của cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc xác nhận họ không có tiền
án, không đang bị khởi tố về hình sự, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính, không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Tòa án,
Kiểm sát, Công an; một trong các loại giấy tờ tuỳ thân (như chứng minh nhân
dân, hộ chiếu, sổ hộ khẩu,..)
Bên cạnh đó, theo quy định
tại Khoản 4 Điều 18 Nghị quyết 03/2012 quy định:“Tại phiên toà đương sự mới nhờ NBVQLIHP,
thì Hội đồng xét xử chấp nhận, nếu người được đương sự nhờ làm NBVQLIHP đáp ứng
các điều kiện được hướng dẫn tại khoản 1 Điều này và việc chấp nhận đó không
gây cản trở cho Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án”.
Như
vậy, NBVQLIHP được tham gia tố tụng không chỉ sau khi Tòa án đã cấp giấy
chứng nhận NBVQLIHP như theo quy định của Điều 63 BLTTDS, mà họ được tham
gia khi đáp ứng đủ điều kiện được hướng dẫn tại khoản 4 Điều 18 Nghị quyết 03/2012/NQ
– HĐTP.
Đến BLTTDS năm 2015,
ngay tại Khoản 1, luật đã bỏ cụm từ “được
Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng”. Ngoài ra, luật quy định Tòa án phải vào
sổ đăng ký NBVQLIHP và xác nhận vào giấy yêu cầu NBVQLIHP khi đã kiểm tra các
giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm NBVQLIHP. Trường hợp Tòa án từ
chối đăng ký thì phải thông báo bằng văn bản và thông báo lý do cho người đề
nghị. BLTTDS 2015 quy định như vậy nhằm hạn chế nhiều trường hợp NBVQLIHP đã xuất trình đầy đủ các giấy tờ, tài liệu
theo luật định nhưng Tòa án vẫn từ chối hoặc kéo dài thời gian cấp giấy chứng
nhận, gây khó khăn cản trở cho NBVQLIHP trong thực tiễn.
Ngoài ra, tại điểm c
Khoản 1 Điều 75 BLTTDS năm 2015, luật đã quy định cho đại diện của tổ chức đại
diện tập thể lao động là NBVQLIHP của người lao động theo pháp luật về lao động,
công đoàn. Quan hệ lao động là quan hệ mua bán, trao đổi sức lao động giữa người
sử dụng lao động và người lao động nên khó tránh khỏi sự lạm dụng, bóc lột. Do
vậy, sự tham gia của tổ chức đại diện lao động – tổ chức công đoàn nhằm tạo ra
tương quan để BVQLIHP của người lao động là hết sức cần thiết.
Tại điểm c Khoản 4 Điều
75 BLTTDS 2015, luật cũng đã quy định điều kiện để được công nhận là NBVQLIHP của
người này là phải xuất trình văn bản của tổ chức cử mình tham gia BVQLIHP cho
người lao động, tập thể lao động.
2.1.
Quyền của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
NBVQLIHP
có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá
trình TTDS (Điều 64, BLTTDS 2004 và Điều 76 BLTTDS 2015). Vai trò và hoạt động
của NBVQLIHP được thể hiện trong ba giai đoạn của quá trình tố tụng là: giai đoạn
trước khi mở phiên tòa, giai đoạn mở phiên tòa và giai đoạn sau khi phiên tòa kết
thúc.
a. Giai
đoạn trước khi mở phiên tòa
-
Quyền thu thập
chứng cứ.
Khoản
2 Điều 64 BLTTDS 2004 quy định: NBVQLIHP
có quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu
hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ
vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Việc
xác minh, thu thập chứng cứ là vô cùng quan trọng và cần thiết, nó góp phần làm
sáng tỏ sự thật vụ việc dân sự, BVQLIHP của đương sự. Tuy nhiên việc xác minh,
thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải đảm bảo tuân
thủ đúng pháp luật, chứng cứ thu thập phải đảm bảo tính khách quan và liên quan
với nhau, phải lựa chọn thời điểm thích hợp để cung cấp cho tòa án, có thể trước
khi xét xử hoặc trong quá trình xét xử. Khi
nghiên cứu hồ sơ, có yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu chứng cứ thì NBVQLIHP
phải làm đơn gửi Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc đó.
Quy
định về việc thu thập tài liệu, chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, khoản 2 Điều 76 BLTTDS 2015 có bổ sung như sau: “NBVQLIHP có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án và
được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án trừ tài
liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này”. Đó là những
tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân
tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình.
Toà án không công khai nội dung tài liệu, chứng cứ này theo yêu cầu chính đáng
của đương sự nhưng phải thông báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng cứ
không được công khai.
BLTTDS
2004 không quy định cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên tại Nghị quyết số
03/2012/NQ – HĐTP, tại Điều 19 và Điều 17 có quy định các tài liệu, chứng cứ mà
Toà án cung cấp không liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật
kinh doanh, bí mật đời tư. Có thể thấy rằng các quy định này không được cụ thể
và đầy đủ như quy định của BLTTDS 2015.
Theo
quy định của BLTTDS có những vụ việc bắt buộc phải tiến hành hòa giải và bắt buộc
hòa giải tại tòa án cấp sơ thẩm mà không bắt buộc ở cấp phúc thẩm. Luật TTDS
quy định cho NBVQLIHP được tham gia phiên hòa giải cùng đương sự, nếu không
tham gia được thì NBVQLIHP có thể gửi văn bản BVQLIHP tới phiên hòa giải.
Trước
khi tham gia hòa giải, NBVQLIHP tư vấn cho đương sự dựa trên cơ sở pháp luật về
nội dung chuẩn bị hòa giải, dự liệu cho đương sự những thuận lợi và khó khăn
trong vụ việc cần giải quyết. Ngoài ra, NBVQLIHP cần phải chuẩn bị các tình huống
dự phòng khác nhau cho phiên hòa giải. Trong trường hợp hòa giải không thành, NBVQLIHP
phải tiếp tục củng cố chứng cứ và lập luận để chuẩn bị cho phiên xét xử. Cũng
thông qua phiên hòa giải không thành, các thông tin mà Tòa án có được trong quá
trình hòa giải sẽ giúpTòa án áp dụng luật giải quyết tranh chấp một cách rõ
ràng.
NBVQLIHP
có quyền thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người THTT, người tham gia tố tụng
khác theo quy định của pháp luật (khoản 4 Điều 64 BLTTDS 2004). Đây là quyền
phái sinh từ quyền của đương sự, mục đích là bảo vệ quyền lợi của đương sự một
cách chính đáng nhất.
b. Giai
đoạn mở phiên tòa
Trong
giai đoạn mở phiên toà, việc BVQLIHP được thực hiện ở thủ tục hỏi và thủ tục
tranh luận tại phiên tòa.
-
Thủ tục hỏi.
NBVQLIHP
của nguyên đơn trình bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. NBVQLIHP của bị đơn trình bày ý kiến của bị
đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng
cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. NBVQLIHP của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn, yêu cầu độc lập, đề
nghị của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề
nghị đó là có căn cứ và hợp pháp (Điều 221 BLTTDS năm 2004).
BLTTDS
2015 tại Điều 248 cơ bản vẫn giữ nguyên các quy định so với Điều 221 BLTTDS
2004. Tuy nhiên, ngay ở tên của điều luật, nhà làm luật đã khẳng định rõ hơn vị
trí, vai trò của NBVQLIHP khi quy định “Điều
248. Trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
Ngoài ra, BLTTDS 2015 cũng đã đưa nội dung này sang phần tranh tụng tại phiên
hòa. Đây là điểm mới đáng chú ý, thể hiện rõ nét nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử được quy định tại Điều 24.
-
Thủ tục tranh luận.
NBVQLIHP
có quyền tranh luận tại phiên toà theo quy định tại khoản 6 Điều 64, điểm m khoản
2 Điều 58 BLTTDS 2004.
Theo
Điều 232 BLTTDS 2004, NBVQLIHP của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa
vụ liên quan phát biểu ý kiến, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích
liên quan có quyền bổ sung ý kiến. Khi tranh luận, trình bày quan điểm của
mình, NBVQLIHP cần nhận định các tình tiết quan trọng của vụ việc, trình bày
quá trình đánh giá chứng cứ, khẳng định lại giá trị chứng minh của chứng cứ kết
hợp với căn cứ của pháp luật để làm căn cứ pháp lý, NBVQLIHP cần phải tôn trọng
sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa và phải tập trung làm sáng tỏ các tình tiết
cần chứng minh trên cơ sở đó có thể BVQLIHP của đương sự một cách tốt nhất. Nếu
thấy đã tranh luận về các vẫn đề nhưng vẫn chưa rõ hoặc chưa khẳng định được những
tình tiết của vụ việc thì NBVQLIHP có thể đề nghị Hội đồng xét xử quay lại thủ
tục hỏi.
c. Giai
đoạn sau khi phiên tòa kết thúc
Nếu
NBVQLIHP bảo vệ cho đương sự từ cấp sơ thẩm thì tùy thuộc vào diễn biến của
phiên tòa mà bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể giúp đương sự kháng cáo ngay
khi Tòa sơ thẩm tuyên án. Nếu sau phiên tòa sơ thẩm, đương sự mới nhờ người bảo
vệ, thì tùy thuộc vào yêu cầu của đương sự và thực tiễn bản án so với các tình
tiết khách quan của vụ án mà NBVQLIHP nghiên cứu lại hồ sơ vụ việc, có thể giúp
đương sự chuẩn bị tài liệu, chứng cứ mới để kháng cáo một phần hay toàn bộ bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
2.2.
Nghĩa vụ của người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
a. Nghĩa vụ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Cùng với những quyền TTDS được quy định tại
điều 64 BLTTDS 2004 và các văn bản pháp luật khác thì NBVQLIHP có những
nghĩa vụ do pháp luật quy định như các quy định tại các điểm q và r khoản 2 điều
58 của BLTTDS.Theo đó họ cần phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án
trong thời gian giải quyết vụ án, cũng như tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh
nội quy tại phiên tòa. Việc này cho thấy trách nhiệm của người bảo vệ là rất lớn,
không những đảm bảo được tiến độ của vụ án mà còn thể hiện được tinh thần,
trách nhiệm của người thi hành pháp luật. Ví dụ, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án: vấn
đề sao chép, ghi, chụp lại những tài liệu cần thiết cho vụ án không phải lúc
nào cũng có thể được thược hiện, đòi hỏi người bảo vệ phải có mặt ngay khi cần
thiết để không bỏ sót một chi tiết quan trọng nào. Sự tôn trọng và chấp hành
nghiêm chỉnh nội quy của Tòa án thể hiện rõ ràng thái độ cũng như trình độ hiểu
biết pháp luật của người bảo vệ. Từ đó, tạo sự tin tưởng vào luật pháp của người
dân.
Ngoài ra, NBVQLIHP có nghĩa vụ giúp đỡ đương
sự về mặt pháp lý trong quá trình họ tham gia tố tụng. Do đó, họ có trách nhiệm
hướng dẫn, giải thích, cố vấn các quy định của pháp luật liên quan tới từng vụ
việc, khía cạnh cụ thể cho đương sự hiểu họ có quyền, nghĩa vụ gì, lợi ích họ đạt
được là gì ... Bởi vậy việc giúp đỡ đương sự về mặt pháp lý là một nghĩa vụ của
NBVQLIHP. Việc pháp luật quy định nghĩa vụ này của họ là cần thiết, phù hợp với
mục đích tham gia tố tụng của NBVQLIHP.
b.
Nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa
NBVQLIHP còn có nghĩa vụ bảo vệ pháp luật,
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, họ là những người đại diện cho pháp luật, thực
thi pháp luật để bảo vệ trật tự, an ninh xã hội. Khi tham gia tố tụng, NBVQLIHP
phải có trách nhiệm giúp CQTHTT, người THTT, làm rõ sự thật khách quan của vụ
án, giám sát hoạt động của CQTHTT, người THTT, bảo vệ sự nghiêm minh của hoạt động
tố tụng. NBVQLIHP không được chỉ quan tâm tới lợi ích của khách hàng mà bất chấp
sự thật, bất chấp pháp luật, thiếu sự cộng tác, tư vấn gây khó khăn cho CQTHTT
trong việc giải quyết vụ án. Quan tâm tới lợi ích của khách hàng nhằm giữ chữ
tín, tạo thương hiệu là điều quan trọng, nhưng nếu đi ngược lại với những quy định
của pháp luật thì vô tình đã gây ra sự đối lập, phản kháng lại quy định của
pháp luật.
III. Thực tiễn áp dụng quy định pháp
luật về NBVQLIHP của đương sự
1.
Kết quả đạt được
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường kéo theo các vấn về khác nhau
của xã hội, đặc biệt là trong nhận thức của con người. Do vậy, một số lượng lớn
người dân khi tham gia tố tụng đã nhờ người khác bảo vệ quyền lợi của mình
trong những năm qua.
Theo như thực tế hiện nay thì trong các vụ án dân sự, NBVQLIHP thường
là luật sư.Với sự tham gia của luật sư, quyền và lợi ích của đương sự sẽ được đảm
bảo chắc chắn hơn, đặc biệt là thể hiện được vai trò cũng như tầm quan trọng của
luật sư trong các vụ án. Còn trước kia, NBVQLIHP (ngoại trừ luật sư) thường là những người thậm chí chưa hề qua một
lớp đào tạo nào về luật mà họ hoạt động nhờ kinh nghiệm và sự học hỏi thực tế.
Vì vậy, mà chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân và sự tin tưởng của tòa án.
Nhưng với năng lực hiện nay của NBVQLIHP, vấn đề đó đã được khắc phục. Đương sự
dần tìm đến các luật sư bởi sự vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ và mối quan hệ
tốt với tòa án.Thực tiễn đạt được đó là: Trong hoạt động tham gia tố tụng, giai
đoạn 2005 – 2010, đội ngũ luật sư đã tham gia hơn 53.000 vụ việc về dân sự,
giai đoạn 2009 – 2015 đội ngũ luật sư cũng đã tham gia gần 65.236 vụ án dân sự,
góp phần quan trọng trong việc BVQLIHP.[4]
Thứ nhất, về số lượng và chất lượng của Luật sư chưa cao. Tính đến năm
2014, tổng số Luật sư của cả nước là 8.928 luật sư trên số dân 90.5 triệu người
(tức là cứ 10.000 người thì mới có 1 luật sư). Ngoài ra, số lượng luật sư phân
bố không đồng đều giữa các tỉnh, thành, số lượng lớn tập trung ở: Hà Nội (2.379
luật sư) và TP. Hồ Chí Minh (3.756 luật sư)[5]. Trong số những người tham
gia tố tụng để BVQLIHP vẫn có một phần trong số đó khả năng bảo vệ đương sự còn
yếu thậm chí nhiều khi còn gây bất
lợi cho chính bản thân do cách bảo vệ vi phạm pháp luật[6]. Mặt
khác, chất lượng luật sư chưa cao, còn hạn chế ở trình độ, trong 8.928 luật sư
thì số người đủ tiêu chuẩn tham gia giải quyết tranh chấp quốc tế còn ít. Mặc
dù nước ta có cơ sở đào tạo Luật sư nhưng chất lượng đào tạo không thể đảm bảo
để người học có thể hành nghề được sau khi tốt nghiệp. Bên cạnh đó, một số luật
sư khi tham gia BVQLIHP không những không làm tròn nghĩa vụ mà còn vi phạm pháp
luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp như sử dụng biện pháp bất hợp pháp để bảo vệ
khách hàng hoặc giao kết hợp đồng với khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Điều
này đã gây bất lợi cho đương sự được bảo vệ và nhiều khi chính luật sư cũng bị
xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, tại các phiên tòa chưa có một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo an
toàn cho NBVQLIHP. Ví dụ
như vụ bị đơn Nguyễn Bích Thúy cầm guốc xông vào đánh Luật sư Trần Đình Triển ngay trước mặt Chủ tọa,
Thẩm phán, đại diện Viện kiểm sát và những người tham dự phiên tòa trong phòng
xử án TAND TP. Hà Nội ngày 01/4/2008[7]. Ngoài ra, còn nhiều khó
khăn cho NBVQLIHP như: Thủ tục cấp giấy chứng nhận bảo chữa, thu thấp chứng cứ,
tài liệu, nhiều trường hợp bị tòa gây khó khăn với nhiều lý do cho việc tiếp cận
hồ sơ để nghiện cứu.
Nguyên
nhân của bất cập này là do quy định của pháp luật còn thiếu và chưa hợp lý như:
-
Một số
tòa căn cứ vào điều 63 BLTTDS 2005 đã gây cản trở cho NBVQLIHP tham gia tố tụng
(như đã nêu ở phần II.1).
-
Điều 90
BLTTDS 2005 chỉ quy định cho thẩm phán có quyền trưng cầu giám định, tuy nhiên
các thẩm phán thường không chủ động mà chờ khi có đơn yêu cầu của đương sự.
Trong khi đó luật lại không quy định cho đương sự và NBVQLIHP được trưng cầu
giám định mà phải làm đơn tới thẩm phán thụ lý vụ việc. Điều này gây cản trở tới
việc xác minh, thu thập chứng cứ của đương sự và NBVQLIHP, đặc biệt là trong những
vụ việc mà kết luận giám định là chứng cứ quan trọng nếu thiếu sẽ không giải
quyết được vụ việc.
-
Điều 64
BLTTDS 2005 quy định “NBVQLIHP được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
nếu tòa án xét thấy cần thiết”. Như vậy chỉ khi nào tòa án xét thấy cần thiết
thì mới cho NBVQLIHP tham gia thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên trên
thực tế rất khó có khả năng này bởi đây là một thủ tục đặc biệt, nhiều khi
không cần thiết thì tòa án không triệu tập đương sự đến. Vì vậy quy định này tạo
cho tòa án quyền hạn rất lớn trong việc xác định thế nào là cần thiết và là
nguyên nhân hạn chế hầu hết sự tham gia giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm của NBVQLIHP.
Thứ ba, những quy định của BLTTDS về tranh luận tại phiên tòa nhiều
khi chỉ mang tính hình thức. Một số Thẩm phán quá coi nhẹ sự có mặt của NBVQLIHP, nhiều bản án
không hề ghi nhận quá trình tranh luận tại phiên tòa và trong nhiều trường hợp
yêu cầu của họ cũng không được chấp nhận do tòa cho rằng không có căn cứ và
cũng không có giải thích gì thêm.
Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ hệ thống cơ quan tiến
hành tố tụng chưa thực sự khách quan, chưa thể tạo điều kiện thuận lợi nhất để NBVQLIHP
được thực hiện đầy đủ quyền trong quá trình tố tụng. Cụ thể là còn một số cán bộ,
thẩm phán thiếu trách nhiệm, sa sút về phẩm chất, ý thức rèn luyện, không hoàn
thành nhiệm vụ, thậm chí vi phạm pháp luật.
Thứ nhất, cần đào tạo nhiều luật sư hơn cũng như nâng cao chuyên môn cho luật
sư. Chất lượng đào tạo của nước ta chưa thực sự tốt, điều kiện để trở thành luật
sư tương đối cao và thời gian đào tạo cũng khá dài tuy nhiên cũng chưa đào tạo
ra được nhiều luật sư giỏi. Để
nâng cao chuyên môn cho luật sư, nhất là các luật sư trẻ, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần phối hợp với Bộ Tư pháp sớm
thành lập Trung tâm đào tạo luật sư hội nhập kinh tế quốc tế để có các chương trình đào tạo,
theo học kịp thời.[8]
Nước ta là một nước đông dân, nhu cầu sử dụng luật sư ngày càng tăng
lên nhưng đội ngũ luật sư của ta vẫn còn thiếu. Do đó cần có sự quan tâm của
nhà nước đến vấn đề này như dành các ưu đãi để thu hút nhiều người hơn nữa theo
học nghề luật sư.
Theo Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 được
Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt, đến năm 2020 cả nước phấn đấu có khoảng 20.000 luật sư hành nghề chuyên sâu, đạt tỷ lệ số luật sư trên số dân là 1/4.500, tại mỗi địa phương khó khăn về kinh tế xã hội có 30 – 50 luật sư. Ngoài ra, cả nước phấn đấu phát triển được khoảng 30 tổ chức hành nghề luật sư có quy mô 50 – 100 luật sư và từ 100 luật sư trở lên họat
động chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài.[9]
Thứ hai, cần tạo điều kiện hơn cho NBVQLIHP khi tham gia tố tụng.
-
Cần có
cơ chế chặt chẽ hơn để bảo đảm an toàn cho NBVQLIHP đặc biệt là trong những vụ
án dân sự có tranh chấp lớn. Bên cạnh đó cũng cần có sự nghiêm minh, xử lý kịp
thời những tình huống phát sinh tại phiên tòa của chủ tọa phiên tòa. Tránh tình
trạng lơ là hay cố tình làm ngơ dẫn đến việc phát sinh những hậu quả đáng tiếc
như trọng vụ bị cáo Nguyễn Bích Thúy cầm guốc xông vào đánh Luật sư Trần Đình
Triển.
-
Cần quy
định thêm cho NBVQLIHP quyền yêu cầu giám định khi họ cho rằng việc giám định
là cần thiết để thu thập chứng cứ giải quyết vụ việc.
Trong BLTTDS 2015 vấn đề yêu cầu giám định được quy định tại điều 102.
Theo đó đã quy định thêm cho đương sự quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi
đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự.
Đây là một cách giải quyết bởi khi đó nếu cảm thấy cần yêu cầu giám định thì NBVQLIHP
có thể tư vấn để đương sự tự mình yêu cầu giám định. Tuy nhiên đương sự chỉ có
thể tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng
Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự dó đó có thể nói để có thể yêu cầu giám định
vẫn còn khá phức tạp, gây cản trở cho quá trình thu thập chứng cứ trong khi đó NBVQLIHP
sẽ là người hiểu rõ nhất trường hợp nào cần phải trưng cầu giám định để thu thập
chứng cứ BVQLIHP của đương sự lại không được quy định trực tiếp quyền yêu cầu
trưng cầu giám định.
- Việc quy định chỉ khi nào tòa án xét thấy cần
thiết thì mới cho NBVQLIHP tham gia thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dẫn đến họ
đôi khi bị thụ động trong việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Do đó cần mở rộng
quyên của NBVQLIHP ngang bằng với đương sự, đương sự được tham gia giai đoạn
nào thì người bảo vệ phải được tham gia vào gia đoạn đó, như vậy mới đảm bảo
cho việc bảo vệ quyền lợi của đương sự được thuận lợi. Tiếc rằng, BLTTDS 2015 vẫn
tiếp tục bỏ ngỏ vấn đề này[10].
Thứ ba, nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ làm việc trong hệ thống các CQTHTT
về tầm quan trọng của sự tham gia của NBVQLIHP. Sự tham gia của họ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên cần được chú trọng và tạo
điều kiện.
Việc tham gia tố tụng vào vụ việc dân sự của người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự không những có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án mà còn có ý nghĩa cả với
việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án.
DANH MỤC TÀI LIỆU
THAM KHẢO
4.
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
5.
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004;
6.
Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 03/2012/NQ-HĐTP ngày
3/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định
chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLTTDS.;
7.
Luật Luật sư năm 2012;
8.
Trường Đại
học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2015;
9.
Học viện Tư pháp, Giáo
trình Luật Tố tụng Dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007;
10.
Trường
Đại học Luật Hà Nội, Câu hỏi và bài tập về
luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2003.
[1] Cả Điều 9 BLTTDS năm 2004 và Điều
9 BLTTDS năm 2015.
[2] Khoản 3 Điều 64 BLTTDS 2004 và
Khoản 3 Điều 76 BLTTDS 2015.
[3] Khoản 4 Điều 64 BLTTDS 2004 và
Khoản 4 Điều 76 BLTTDS 2015.
[4]
http://chutunganh.blogspot.com/2015/06/nguoi-bao-ve-quyen-va-loi-ich-hop-phap.html
[5]
http://www.tienphong.vn/Phap-Luat/viet-nam-co-bao-nhieu-luat-su-849781.tpo
[10] Khoản 2 Điều 338 BLTTDS 2015 tiếp
tục quy định “trường hợp xét thấy cần thiết”.