>> DOWNLOAD ÁN LỆ SỐ 05 tại đây!
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn
án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số
39/2014/DS-GĐT ngày 09-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn
là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải
(Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị Xê, Nguyễn Chí Đạt (Danforth Chi
Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Thị Thuý
Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận, Trần Thành Khang.
Khái
quát nội dung của án lệ:
Trong vụ án tranh chấp di sản thừa
kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức
đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia
thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu
cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di
sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải
xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di
sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
Quy
định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Khoản 1 Điều 5 và Điều 218 của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2004;
Từ
khoá của án lệ:
“Yêu cầu khởi kiện”; “Yêu cầu phản
tố”; “Công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 18-7-2008 và
trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân
trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự
(chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà
Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí
Trai. Ông Trai có vợ là bà Ông Thị Mạnh và có 05 người con là anh Nguyễn Thuần
Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh
năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Tại Quyết định số 413/2008
ngày 31-3-2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố ông Trai, bà
Mạnh, anh Thuần Huy, chị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) là đã
chết.
Căn nhà số 263 đường Trần Bình
Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển
nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm 1966 thì hai cụ xây dựng
nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở,
quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để
lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thuý Phượng là con ông Nguyễn
Chí Trải đang quản lý. Quá trình quản lý, chị Phượng cho bà Nguyễn Thị Bích Đào
thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị Phượng ở đây có sửa chữa nhà
nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Trải không có đóng góp gì vào việc xây dựng
và sửa chữa vì ông Trải đi cải tạo, còn bà Tư vợ ông Trải không có nghề nghiệp,
con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng góp. Nếu chị Phượng có chứng cứ
chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các bà sẽ trả.
Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế
căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn lại bằng
tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc diện thừa kế nên phải trả lại
nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác.
Bị đơn là chị Nguyễn Thị Thuý Phượng
trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia đình. Cha chị là ông Nguyễn Chí Trải,
mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người con gồm chị, anh Nguyễn Chí Đức, chị
Nguyễn Thị Thuý Loan (anh Đức, chị Loan hiện sống ở Canada). Căn nhà số 263
đường Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị mua từ năm 1953, khi đó là nhà
ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ chị và cha mẹ chị ở tại căn
nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị chết năm 1980. Chị sống tại
căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây
tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà. Chị có
phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập tờ cho đứt chị tài sản thừa
kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị được hưởng của cụ Hưng, cụ
Ngự. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì thời hiệu chia thừa kế đã
hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn nhà này. Chị có cho bà
Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì, chị và bà Đào sẽ tự giải
quyết với nhau về việc thuê nhà.
Bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải trình
bày: Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có đơn đề nghị có nội dung ngày
25-4-2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của ông cho chị Phượng được hưởng
phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ tại Việt Nam, nay ông xin huỷ
bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin uỷ quyền cho bà Thưởng, bà Xuân
thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần tài sản thừa kế của ông xin
được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí Đức hiện cư trú tại Canada.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày
22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông không đồng ý chia thừa kế
nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp tục trông nom để ở, ông và
vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà này. Nhưng đến ngày 14-7-2010,
ông Trải lại có văn bản có nội dung ông cho con trai là anh Nguyễn Chí Đức phần
tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày 11-3-2011, ông Trải có Tờ tường
trình nội dung ông đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ông không kháng
cáo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan:
- Bà Nguyễn Thị Trinh (là con cụ
Hưng, cụ Ngự) trình bày: Bà thống nhất như trình bày của các nguyên đơn về quan
hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà bị hư dột, cha mẹ bà có sửa lại
nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà nhưng bà không yêu cầu phần bà đã
đóng góp. Việc chị Phượng cho rằng cha mẹ chị và chị có đóng góp trong việc sửa
chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần thừa kế của bà giao cho bà Xuân, bà
Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng trả lại nhà.
- Anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm
1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Cha mẹ các anh là ông Nguyễn Chí Trai, bà
Ông Thị Mạnh cùng 03 người em của các anh đều đã chết trên biển khi vượt biên
vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên đơn về việc chia thừa kế,
xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và giao cho bà Thưởng, bà
Xuân quản lý.
- Bà Nguyễn Thị Xê (là con của cụ
Hưng, cụ Ngự) thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình
và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà
là Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên.
- Lời khai của chị Nguyễn Thị Thuý
Loan, anh Nguyễn Chí Đức theo giấy uỷ quyền lập ngày 21-5-2007 (đã được hợp
pháp hoá lãnh sự) thì chị Loan, anh Đức ủy quyền cho chị Phượng quyết định mọi
sự việc liên quan đến những tranh chấp hay phân chia tài sản và nhà đất bên
Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị Phượng xuất trình theo đơn của chị Phượng đề
ngày 25-3-2011, sau khi xét xử sơ thẩm).
Chị Loan có đơn (kèm theo văn bản uỷ
quyền) có nội dung xin vắng mặt phiên toà ngày 13-8-2009. Về tài sản tranh chấp
cha mẹ chị có tiền đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm
1975, mọi người đi hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị Tòa cho
chị Phượng ở lại nhà đất tranh chấp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số
3363/2009/DSST ngày 18-11-2009, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết
định:
- Xác định nhà đất tại 263 Trần Bình
Trọng là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn Hưng, cụ Lê Thị Ngự; mỗi kỷ phần thừa
kế được hưởng là 10.655.687.000: 6 =1.775.947.800 đồng.
- Buộc mẹ con chị Phượng và bà Đào
giao lại nhà đất tranh chấp cho bà Thưởng, bà Xuân. Bà Thưởng, bà Xuân có trách
nhiệm trả cho các thừa kế khác bằng tiền mà họ được hưởng.
- Ghi nhận việc ông Nguyễn Chí Trải
cho con là anh Nguyễn Chí Đức được nhận kỷ phần thừa kế của ông.
Ngày 30-11-2009, chị Nguyễn Thị Thuý
Phượng có đơn kháng cáo có nội dung cho rằng cụ Hưng, cụ Ngự chết đã quá 10 năm
nên thời hiệu khởi kiện về thừa kế không còn.
Ngày 15-3-2011, chị Phượng có đơn
kháng cáo bổ sung nội dung:
- Cha chị là ông Trải không đồng ý
chia và đồng ý cho chị quản lý căn nhà này. Các đồng thừa kế không có văn bản
xác nhận nhà tranh chấp là tài sản chung chưa chia. Cha mẹ chị và các con trong
đó có chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn nhà này, đã bảo quản, giữ gìn căn
nhà nhưng nay lại buộc mẹ con chị phải ra khỏi nhà là không thấu tình đạt lý.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011, Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Ngày 16-6-2011, chị Nguyễn Thị Thuý
Phượng có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 158/2014/KN-DS
ngày 06-5-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự
phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử
giám đốc thẩm huỷ Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số
3363/2009/DSST
ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại
diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao.
Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:
Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Hưng (chết
năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con gồm bà Nguyễn Thị Xê,
ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị
Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Vợ chồng ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh có
05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới
Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968).
Ông Trai, bà Mạnh, anh Huy, chị Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) bị
tuyên bố chết ngày 31-3-2008 theo Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để
lại di chúc. Các con của hai cụ và chị Phượng (con ông Trải) đều thừa nhận căn
nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ
Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng của ông Đào Thành Phụng năm 1953 là tài sản của
hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị Phượng quản lý, sử dụng.
Năm 2008, bà Xuân, bà Thưởng khởi
kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng, cụ Ngự để lại.
Các đương sự đều xác định ông Trải
định cư tại Mỹ trước ngày 01-7-1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Nghị
quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xác
định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn còn là có cơ
sở. Đối với di sản của cụ Ngự thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa
kế, nhưng ông Trải và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận di sản của cụ
Ngự là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí chia đều cho các
thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu mục a điểm 2.4 mục 2
phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ Ngự cho các thừa kế là
có căn cứ.
Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa
kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung
của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm
ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Như vậy,
chị Phượng được hưởng một phần tài sản của mẹ là bà Tư, nhưng ông Trải đã định
đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng của cụ Hưng cho anh Đức là chưa
đúng.
Chị Phượng sinh năm 1953 và các
đương sự xác định chị Phượng ở tại nhà của ông, bà từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982,
chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ Ngự còn sống nhưng ở nơi khác,
bà Thưởng chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979 nhưng không ở đây, nên chị
Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp từ sau khi cụ Ngự chết
đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi khác. Khi chia thừa kế và
tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét tạo điều kiện cho
chị Phượng có chỗ ở mà buộc chị Phượng phải giao lại nhà cho các nguyên đơn
trong đó có phần quyền tài sản chị Phượng được hưởng thừa kế của mẹ là bà Tư là
chưa phù hợp.
Tuy chị Phượng không phải thừa kế
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ
và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình
giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho
rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa
kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu
cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công
sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3
Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011;
QUYẾT
ĐỊNH
Huỷ toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm
số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh và huỷ toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST
ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp
thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với
bị đơn là chị Nguyễn Thị Thuý Phượng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan khác.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
NỘI
DUNG ÁN LỆ
“Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy
định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần
thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản
chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư
gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng.
Tuy chị Phượng không phải thừa kế
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ
và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình
giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho
rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa
kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu
cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công
sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.”.