Thực tế cho thấy, cơ quan cạnh tranh có chức
năng quản
lý, điều hòa, điều tiết quan hệ cạnh tranh ở mức nhất định trong môi trường
thương mại.Góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh
một cách lành mạnh nhất. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, mỗi quốc
gia sẽ xây dựng mô hình cơ quan cạnh tranh khác nhau, song đều có chung mục
đích là góp phần thực thi Luật Cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất.
Việc
cơ quan cạnh tranh được tổ chức và hoạt động như thế nào là một vấn đề quan trọng.Trong
phạm vi bài tập học kỳ, tôi đã lựa chọn đề tài: “Mô hình cơ quan cạnh tranh một số
nước trên thế giới”để thực hiện, qua đó, giới thiệu một cách khái quát nhất
về mô hình cơ quan cạnh tranh của một số nước và kiến nghị hoàn thiện cơ quan cạnh
tranh ở Việt Nam.
Tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của mình, môi quốc gia sẽ xây dựng mô hình
cơ quan cạnh tranh với những nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm
vụ phù hợp. Một số quốc gia thiết lập vị trí cơ quan cạnh tranh thuộc Quốc hội,
có những quốc gia lại xác định cơ quan cạnh tranh là một cơ quan ngang bộ hoặc
trực thuộc Chính phủ hay thuộc Tổng thống, một số quốc gia khác lại xác định cơ
quan cạnh tranh là một đơn vị thuộc Bộ.
Sau
đây, tôi xin giới thiệu khái quát về mô hình cơ quan cạnh tranh của Hoa Kỳ, Úc
và Canada, tương ứng với 3 mô hình cơ quan cạnh tranh trực thuộc Quốc hội, trực
thuộc Chính phủ, đơn vị trực thuộc Bộ.
1.1.
Cơ cấu tổ chức
Ủy
ban Thương mại Hoa Kỳ (US – FTC) là một cơ quan độc lập báo cáo trực tiếp cho
Quốc hội. Ủy ban hoạt động dưới sự chỉ đạo của năm ủy viên có nhiệm kỳ 7 năm,
được bổ nhiệm bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện. Tổng thống chỉ
định một ủy viên đảm trách Chủ tịch.Không quá ba ủy viên là thành viên của một
Đảng. Không quá 3 ủy viên là thành viên của 1 Đảng.
Hiện
tại US – FTC được điều hành bởi bà Edith Ramirez (do Tổng thống Barack Obama chỉ
định từ ngày 4/3/2013). Hoạt động của US – FTC được thực hiện bởi các Cục gồm:
Cục Bảo vệ người tiêu dùng, Cục Cạnh tranh, Cục Kinh tế và các Văn phòng: Văn
phòng các vấn đề cộng đồng, Văn phòng quan hệ Quốc hội, Văn phòng Giám đốc điều
hành, Văn phòng Tổng thanh tra, Văn phòng Tổng tham vấn, Văn phòng Thư ký, Văn
phòng Công vụ, Văn phòng Kế hoạch – Chính sách, Văn phòng Luật sư, Văn phòng
Quan hệ quốc tế, và 7 văn phòng khu vực có nhiệm vụ hỗ trợ thực hiện các hoạt động
này.[1]
Chủ
tịch US – FTC
Bà Edith Ramirez
|
|||||
Ủy
viên US – FTC
|
|||||
Cục
|
10
Văn phòng
|
||||
Bảo vệ người tiêu dùng
|
Cạnh tranh
|
Kinh tế
|
|||
7
Văn phòng khu vực
|
|||||
(Sơ đồ tổ chức Ủy
ban Thương mại Hoa Kỳ)
1.2.
Chức năng, nhiệm vụ
Cục
Bảo vệ người tiêu dùng có nhiệm vụ là bảo vệ người tiêu dùng trước các hành vi
không công bằng, hành vi gian lận hoặc dối trá. Cục Bảo vệ Người tiêu dùng thực
thi các văn bản pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng do Quốc hội ban hành cũng
như các quy định về thương mại do Uỷ ban ban hành. Hoạt động chính của Cục bao
gồm tiến hành các cuộc điều tra đối với các công ty tư nhân và các ngành công
nghiệp lớn, giải quyết các tranh chấp của toà hành chính và toà án liên bang,
nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. Thêm vào đó, Cục Bảo vệ
Người tiêu dùng còn hỗ trợ Uỷ ban báo cáo Quốc hội và các cơ quan Chính phủ về
các hoạt động có nguy cơ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
Cục
Cạnh tranh có nhiệm vụ phát hiện các hoạt động kinh doanh gây hạn chế cạnh
tranh, từ đó góp phần đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng thể hiện ở mức giá thấp
và tính sẵn có của các sản phẩm và dịch vụ. Cục sẽ tiến hành các cuộc điều tra
để phát hiện hành vi vi phạm, trình Uỷ ban xem xét xử lý. Khi Uỷ ban có quyết định
xử lý, Cục sẽ thực thi các quyết định này thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp
của toà án liên bang hoặc theo các quy định hành chính.
Cục
cũng có nhiệm vụ như một bộ phận nghiên cứu, hoạch định chính sách về các vấn đề
liên quan đến cạnh tranh.Cục chuẩn bị các báo cáo và chứng cớ trước Quốc hội,
hoặc có thể đưa ra những bình luận về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh trước
khi có quyết định từ những cơ quan quản lý khác. Cục Cạnh tranh cũng phát triển
những kiến thức chuyên sâu về một số ngành công nghiệp quan trọng đối với người
tiêu dùng như: chăm sóc sức khoẻ, lương thực, năng lượng và các dịch vụ chuyên môn khác. Luật Chống
độc quyền do cả Cục Cạnh tranh của Uỷ ban và Vụ Chống độc quyền thuộc Bộ Tư
pháp thi hành. Do đó, để tránh chồng chéo, hai cơ quan này sẽ tham khảo ý kiến
của nhau trước khi tiến hành xử lý bất kỳ trường hợp nào.
Cục
Kinh tế giúp US – FTC đánh giá ảnh hưởng kinh tế của các hoạt động của US – FTC.Để
thực hiện điều này, Cục tiến hành các phân tích kinh tế và hỗ trợ các cuộc điều
tra về chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng. Cục cũng phân tích những ảnh
hưởng từ các quy định do Chính phủ ban hành về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu
dùng và cung cấp cho Quốc hội cũng như cho công chúng các phân tích kinh tế về
các quy trình thị trường liên quan đến chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng
và các quy định khác.
Văn
phòng các vấn đề cộng đồng: cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động của
US – FTC, các tin tức, vụ việc… cho công chúng.
Văn
phòng quan hệ Quốc hội hỗ trợ các thành viên Quốc hội và các nhân viên riêng và
nhân viên ủy ban của họ.Nhiệm vụ của văn phòng là cung cấp các thông tin liên
quan đến các vấn đề chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng một cách chính
xác, kịp thời và toàn diện cho Quốc hội.
Văn
phòng Giám đốc điều hành phục vụ mục tiêu quản lý và thực thi của FTC chịu
trách nhiệm toàn bộ hoạt động của cơ quan. Văn phòng có 4 tiểu ban chức năng gồm:
Ban Dịch vụ Hành chính, Ban Quản trị Tài chính, Ban Quản trị Nhân lực, Ban Quản
trị Công nghệ và Thông tin.
Văn
phòng Tổng tham vấn có nhiệm vụ là đại diện cho Ủy ban trước tòa và tham vấn luật
cho Ủy ban.
Văn
phòng Thư ký có nhiệm vụ giám sát, xử lý nhanh chóng và kịp thời tất cả các vấn
đề trình lên Ủy ban và hỗ trợ Ủy ban trong quá trình ra quyết định, đảm bảo Ủy
ban hoạt động hiệu quả.
Văn
phòng Tổng thanh tra (OIG) là cơ quan trực thuộc US – FTC được thành lập năm
1989 theo Đạo luật Tổng thanh tra sửa đổi năm 1988. OIG có nhiệm vụ thực hiện
và giám sát việc kiểm toán và điều tra độc lập, khách quan liên quan đến các
chương trình và hoạt động của cơ quan; ngăn chặn và phát hiện các hành vi gian
lận, lãng phí và lạm dụng trong các chương trình và hoạt động của cơ quan; rà
soát và khuyến nghị về hệ thống những quy định pháp luật liên quan tới các
chương trình và hoạt động của cơ quan hiện hành hoặc được đưa ra; và báo cáo cập
nhật chi tiết các thông tin về các vấn đề trong các chương trình và hoạt động của
cơ quan cho thủ trưởng cơ quan và cho Quốc hội.
Các
Văn phòng khu vực bao gồm bảy khu vực địa lý. Các văn phòng khu vực làm việc với
Cục Cạnh tranh và Cục Bảo vệ người tiêu dùng để tiến hành hoạt động điều tra và
khởi kiện; cung cấp các ý kiến tư vấn cho các quan chức cấp bang và địa phương
về những tác động cạnh tranh của các hoạt động được đề xuất, các trường hợp
khuyến nghị; cung cấp các dịch vụ tiếp cận địa phương cho người tiêu dùng và
các doanh nhân, và phối hợp hoạt động với các cơ quan địa phương, bang và khu vực.[2]
2.1.
Cơ cấu tổ chức
Ủy
ban Cạnh tranh và Người tiêu dùng Úc (Australian Competition & Consumer
Commission – ACCC) được thành lập năm 1995 thay thế cho Ủy ban Thực tiễn thương
mại (Trade Practices Commission – thành lập năm 1974) và Cục Giám sát giá
(thành lập năm 1983) sau khi có Luật Cải cách chính sách cạnh tranh năm 1995.
Chủ
tịch ACCC
Ông Rod Sims
|
|||
Phó
Chủ tịch ACCC
|
|||
Bà Delia Rickard
|
Ông Michael Schaper
|
||
Cao
ủy ACCC
|
|||
Bà Cristina Cifuentes
|
Ông Roger Featherston
|
Bà Sarah Court
|
Ông Mick Keogh
|
Các
bộ phận
|
|||
Quản trị doanh nghiệp
|
Điều tiết năng lượng
|
Xét duyệt cấp phép và sáp nhập
|
Người tiêu dùng, doanh nghiệp nhỏ
và an toàn sản phẩm
|
Quy định cơ sở hạ tầng
|
Dịch vụ cá nhân và doanh nghiệp
|
Thực thi cạnh tranh
|
Pháp lý và kinh tế
|
(Sơ đồ tổ chức Ủy ban Cạnh tranh và Người
tiêu dùng Úc)
ACCC
là một cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ, hoạt động độc lập và được thành lập theo
luật Liên bang Úc. ACCC có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Cao uỷ. Bổ nhiệm
Chủ tịch và các Uỷ viên của ACCC có sự tham dự của Chính phủ Liên bang, bang và
lãnh thổ.
Hiện
nay, Chủ tịch ACCC là ông Rod Sims, được bổ nhiệm tháng 8 năm 2011 cho một nhiệm
kỳ năm năm và tái bổ nhiệm thêm ba năm trong tháng 8 năm 2016. Hai Phó Chủ tịch
của ACCC là: bà Delia Rickard (được bổ nhiệm vào vị trí Phó Chủ tịch ACCC vào
tháng 6 năm 2012 trong thời hạn năm năm) và ông Michael Schaper. Bốn vị Cao ủy
trong Ủy ban là: bà Cristina Cifuentes, ông Roger Featherston, ông Mick Keogh
và bà Sarah Court.[3]
Dưới
ủy ban là các bộ phận cụ thể phụ trách từng mảng lĩnh vực như: bộ phận quản trị
doanh nghiệp; bộ phận điều tiết năng lượng; bộ phận thực thi cạnh tranh; bộ phận
xét duyệt cấp phép và sáp nhập; bộ phậnvề người tiêu dùng, doanh nghiệp nhỏ và
an toàn sản phẩm; bộ phận quy định cơ sở hạ tầng; bộ phận pháp lý và kinh tế; bộ
phận dịch vụ cá nhân và doanh nghiệp.[4]
2.2.
Chức năng, nhiệm vụ
ACCC
thúc đẩy cạnh tranh và thương mại công bằng trên thị trường nhằm đảm bảo lợi
ích hợp pháp cho người tiêu dùng, các nhà kinh doanh và cộng đồng.ACCC cũng quản
lý các dịch vụ về cơ sở hạ tầng của quốc gia. ACCC là cơ quan duy nhất của Úc
giải quyết các vấn đề chung liên quan đến cạnh tranh và cũng là cơ quan duy nhất
chịu trách nhiệm thực thi Luật Thương mại và Luật ứng dụng của bang và lãnh thổ.
Trong thương mại công bằng và bảo vệ người tiêu dùng, vai trò của ACCC là bổ
sung cho các cơ quan phụ trách các vấn đề tiêu dùng của bang và lãnh thổ quản
lý những quy định thuộc thẩm quyền của mình và Phòng Chính sách Cạnh tranh và
Tiêu dùng của Bộ Tài chính liên bang.
Cơ
cấu tổ chức của Uỷ ban này phản ánh những hoạt động chính của mình: thực thi,
chiến lược tuân thủ (bao gồm giáo dục và thông tin), xét xử, sáp nhập, viễn
thông, giám sát giá cả, cải cách điều tiết và quản lý những ngành phục vụ công
cộng.
ACCC
là một cơ quan nhà nước độc lập, chịu trách nhiệm thực thi các đạo luật thực
hành thương mại năm 1974 và Đạo luật giám sát giá cả 1983 với các nhiệm vụ chủ
yếu như:
- Khuyến
khích sự cạnh tranh ở trên tất cả các thị trường;
- Đảm
bảo duy trì nguyên tắc kinh doanh trung thực ở trên các thị trường;
- Đảm
bảo giữ gìn an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng;
- Bắt
buộc các nhà sản xuất phải thực hiện đúng các tiêu chuẩn sản phẩm do Nhà nước
quy định;
- Kiểm
tra và giám sát giá cả;
- Khuyến
khích sự cạnh tranh về giá cả ở bất cứ nơi nào làm được, và hạn chế sự tăng giá
ở các thị trường mà sự cạnh tranh còn ít có hiệu quả;…
2.3.
Tòa Cạnh tranh và Hội đồng cạnh
tranh quốc gia
Theo
Luật Thực tiễn thương mại của Úc năm 1974, ngoài ACCC, thì cơ quan có trách nhiệm
liên quan đến quy định cạnh tranh còn có: Tòa Cạnh tranh Úc (Australian
Competition Tribunal – ACT) và Hội đồng Cạnh tranh quốc gia (National
Competition Council – NCC).[5]
Tòa
Cạnh tranh Úc có chức năng xem xét kháng nghị các quyết định của ACCC liên quan
tới việc cho phép (authorizations) hoặc thông báo (notifications) và quy định
tiếp cận nguồn lực (access regime). Ngoài ra, Tòa Cạnh tranh còn xem xét các vụ
tập trung kinh tế diễn ra ở ngoài nước Úc nhưng lại có ảnh hưởng hạn chế cạnh
tranh tại Úc và nếu có thì liệu những lợi ích đối kháng lại với công chúng cần
bỏ qua không.
Hội
đồng Cạnh tranh quốc gia được thành lập vào năm 1995 theo Luật Cải cách chính
sách cạnh tranh năm 1995. Hội đồng Cạnh tranh quốc gia chịu trách nhiệm tư vấn
về những vấn đề thuộc Luật Cạnh tranh.
3.1.
Cơ cấu tổ chức
Canada
lựa chọn và xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ. Cục Cạnh tranh
Canada là cơ quan trực thuộc Bộ Công nghiệp Canada.
|
Cục
trưởng Cục Cạnh tranh Canada
Ông John Pecman
|
|
||||
Cục
phó
|
||||||
Bà Jeanne Pratt
|
Ông
Matthew Boswell
|
Bà Vicky Eatrides
|
Bà Ana Maia
|
|||
Phòng
Sáp nhập
|
Phòng
Chấp hành và
thực thi
|
Phòng Kinh tế
và các vấn đề quốc tế
|
Phòng
các vấn đề dân
sự
|
Phòng
các vấn đề
hình sự
|
Phòng Thương mại
lành mạnh
|
(Sơ đồ cơ cấu tổ chức Cục Cạnh
tranh Canada)
Đứng
đầu Cục là Cục trưởng được bổ nhiệm theoluật. Hiện nay, “Ủy viên Cạnh tranh (Commissioner
of Competition)” là ông John Pecman, được bổ nhiệm ngày 12 tháng 6 năm 2013,
cho một nhiệm kỳ năm năm.[6]
Dưới
Cục trưởng, có 4 Cục phó, bao gồm: bà Jeanne Pratt (Phó Ủy viên cao cấp - Senior
Deputy Commissioner), ông Matthew Boswell (Senior Deputy Commissioner), bà Vicky
Eatrides (Deputy Commissioner) và bà Ana Maia (Executive Director).[7]
Cơ
cấu tổ chức của Cục Cạnh tranh Canada gồm có 6 bộ phận, bao gồm: Phòng Sáp nhập,
Phòng Chấp hành và thực thi, Phòng Kinh tế và các vấn đề quốc tế, Phòng các vấn
đề dân sự, Phòng các vấn đề hình sự và Phòng Thương mại lành mạnh.
3.2.
Chức năng, nhiệm vụ
Cục
trưởng Cục Cạnh tranh: là người đứng đầu Cục Cạnh tranh, chịu trách nhiệm theo
dõi và thực thi Luật Cạnh Tranh, Luật về nhãn mác và đóng gói hàng hóa, Luật
nhãn mác kim loại quý và Luật Nhãn hiệu hàng dệt may.
Phòng
Sáp nhập: chịu trách nhiệm xem xét, đánh giá hoạt động sáp nhập. Các vụ sáp nhập
có tổng giá trị tài sản trên 400 triệu đô la, giá trị chuyển nhượng lớn hơn 35
triệu đô la, thì phải có hồ sơ gửi trước cho Phòng Sáp nhập.
Phòng
Chấp hành và thực thi: có nhiệm vụ phát triển các chương trình điều phối, thực
thi có hiệu quả các chính sách của Cục, tuyên truyền giáo dục cho cộng đồng. Đồng
thời Phòng còn chịu trách nhiệm lập kế hoạch, quản lý và xử lý thông tin.
Phòng
Kinh tế và các vấn đề quốc tế: Điều phối các hoạt động hợp tác quốc tế trong
các diễn đàn quốc tế về chính sách cạnh tranh và là kênh liên lạc với đại diện
các cơ quan chính phủ khác. Phòng cũng cung cấp các phân tích, tư vấn về kinh tế
cho các bộ phận khác để thực thi luật trong từng trường hợp cụ thể, từng vụ việc
về chính sách cụ thể, về các thay đổi của
luật pháp, và cả những can thiệp có tính chất điều tiết. Phòng cũng đưa ra các
tư vấn về chính sách cạnh tranh và các đề xuất nhằm hỗ trợ chính phủ các nước
khác.
Phòng
Các vấn đề dân sự: điều tra những hành động nghi vấn có yếu tố hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, nhà sản xuất khống chế người tiêu dùng, như
là việc từ chối cung cấp hàng, giữ độc quyền kinh doanh, hay bán kèm điều kiện
khắt khe. Trách nhiệm của Phòng là phải ra tay can thiệp trước khi các cơ quan
điều tiết hay toà cấp tỉnh, cấp liên bang tham gia vào.
Phòng
Các vấn đề Hình sự: điều tra các hành vi vi phạm có tính hình sự, chẳng hạn như
thông đồng để định giá trên thị trường, móc ngoặc – gian lận trong đấu thầu, cơ
chế phân biệt giá, phá giá, duy trì giá... Ngoài ra, Phòng còn phụ trách cả bộ
phận Sửa đổi, bổ sung Luật để đảm bảo là các điều khoản trong Luật Cạnh tranh
và những chế định về dán nhãn mác thích
hợp với thực tiễn.
Phòng
Thương mại lành mạnh: có nhiệm vụ khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường thông qua các hướng dẫn chấp hành, các chương trình đào tạo cho cả nhà sản
xuất lẫn người tiêu dùng. Phòng sẽ áp dụng những điều khoản trong Luật cạnh tranh
để giải quyết những vi phạm trong quảng cáo và những vụ gian lận khác. Ngoài
ra còn quản lý việc thực thi Luật Cạnh
tranh, cũng như Luật Đóng gói, nhãn hiệu, Luật nhãn mác kim loại và Luật nhãn
hiệu hàng dệt may.[8]
Theo quy định tại Điều 49 và Điều 53 Luật Cạnh tranh
2004, cơ quan cạnh tranh tại Việt Nam bao gồm: Cơ quan quản lý lạnh tranh, cụ
thể là Cục Quản lý cạnh tranh (Vietnam Competition Authority – VCA) và Hội đồng
cạnh tranh (Vietnam Competition Council – VCC).
1.1.
Cơ cấu tổ chức
Năm 2003, Ban quản lý cạnh tranh được
thành lập, trực thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương).Đến năm 2004, trên
cơ sở Ban này, Cục quản lý cạnh tranh chính thức được thành lập.
Hiện nay, Cục Quản lý cạnh tranh bao gồm:
Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Phòng Giám sát và quản lý cạnh
tranh, Phòng Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Phòng Bảo
vệ người tiêu dùng, Phòng Kiểm soát theo mẫu, điều kiện giao dịch chung, Phòng
Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, Phòng Điều tra vụ kiện
phòng vệ thương mại của doanh nghiệp trong nước, Phòng Hợp tác quốc tế, Văn
phòng Cục, Trung tâm thông tin cạnh tranh, Trung tâm đào tạo điều tra viên và
các Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.Cục Quản lý cạnh
tranh có một Cục trưởng là ông Bạch Văn Mừng và 3 Cục phó gồm: ông Trần Anh
Sơn, ông Nguyễn Phương Nam và ông Trịnh Anh Tuấn.[9]
LÃNH ĐẠO VCA
Cục trưởng Bạch
Văn Mừng
|
||
Phó cục trưởng
Trần Anh Sơn
|
Phó cục trưởng
Nguyễn Phương
Nam
|
Phó cục trưởng
Trịnh Anh Tuấn
|
Bộ máy giúp việc
|
Đơn vị sự nghiệp
|
Văn phòng Cục
|
Trung tâm đào tạo Điều tra viên
|
Phòng Kiểm
soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
|
Trung tâm thông tin cạnh tranh
|
Phòng Điều tra
vụ việc hạn chế cạnh tranh
|
|
Xử lý các vụ
kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài
|
|
Phòng Điều tra
và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
|
|
Phòng Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng
|
|
Phòng Điều tra
vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh nghiệp trong nước
|
|
Phòng Giám sát
và quản lý cạnh tranh
|
|
Phòng Hợp tác
quốc tế
|
|
Văn phòng đại
diện tại Đà Nẵng
|
|
Văn phòng đại
diện tại TP. Hồ Chí Minh
|
(Sơ đồ cơ cấu tổ chức Cục Quản lý cạnh tranh)
1.2.
Chức năng, nhiệm
vụ
Chức năng, nhiệm vụ của VCA được quy định
tại Điều 49 Luật Cạnh tranh, và được quy định cụ thể tại Quyết định Số: 848/QĐ
– BCT của Bộ Công Thương. Theo đó,
Cục quản lý cạnh tranh là đơn vị thuộc Bộ
Công Thương, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và
tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá giá, chống
trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng; đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế
liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ theo quy định
của pháp luật.
2.1. Cơ cấu tổ chức
Hội đồng Cạnh tranh được
thành lập theo Điều 53 Luật Cạnh tranh. Theo đó, Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan
do Chính phủ thành lập. Hội đồng Cạnh tranh có từ mười một đến mười lăm thành
viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ
Thương mại (nay là Bộ trưởng Bộ Công Thương).
Hiện nay, cơ cấu tổ chức
của VCC có Chủ tịch Hội đồng là ông Trần Quốc Khánh – Thứ trưởng Bộ Công
Thương, 02 Phó Chủ tịch là: Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng và Thứ trưởng
Bộ Tài chính Trương Chí Trung. Và 11 ủy viên khác.Giúp việc cho Hội đồng có Ban
Thư ký và Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh.[10]
2.2.
Chức năng, nhiệm
vụ
Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan tiến hành tố tụng cạnh
tranh độc lập do Chính phủ thành lập, có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu
nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh
theo quy định của Luật Cạnh tranh.Và được quy định cụ thể tại Điều 2 Nghị định
số 07/2015/NĐ – CP của Chính phủ.
Việc lựa chọn mô hình
cơ quan quản lý cạnh tranh là vấn đề quan trọng và có nhiều quan điểm khác nhau
tại các nước trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam lựa chọn mô hình cơ quan quản lý
cạnh tranh thuộc Bộ. Với thực trạng hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh cùng với
xu hướng tối cao hóa cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới thì trong tương
lai, chúng ta nên xây dựng một cơ quan quản lý cạnh tranh ngang bộ (trực thuộc
Chính phủ) để đáp ứng và thực hiện các mục tiêu:
Thứ nhất, đảm bảo tính
độc lập trong hoạt động của cơ quan này trong điều kiện bộ máy hành chính nhà
nước của Việt Nam còn nhiều bất cập và còn tư tưởng “cục bộ”.Độc lập không có
nghĩa là phải đứng độc lập, riêng rẽ về mặt tổ chức, không trực thuộc cơ quan
chủ quản nào mà là độc lập về hoạt động cũng như, nhiệm vụ, quyền hạn.
Thứ hai, hoạt động của
cơ quan quản lý cạnh tranh chủ yếu được thể hiện trong hoạt động điều tra và xử
lý vụ việc cạnh tranh. Trong điều kiện nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà
nước đang giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, do đó, đối tượng
điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh có thể sẽ là các tổng công ty nhà nước,
các tập đoàn kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu
không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ không thể thực hiện
tốt các nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, việc thành lập
một cơ quan quản lý cạnh tranh độc lập của Chính phủsẽ tạo điều kiện cho việc
huy động nguồn thu ngân sách thông qua hoạt động một cách độc lập, tăng thêm
tính tự chủ của cơ quan quản lý cạnh tranh. Kinh nghiệm tách bộ, ngành, tái cơ
cấu được thực thi trong những năm gần đây cho thấy việc thiết lập một cơ quan
ngang bộ về mặt thể chế, có cơ cấu gọn nhỏ trong giai đoạn đầu, có cơ chế huy động
ngân sách hoạt động cụ thể là khả thi.
Thứ tư, vị trí độc lập
của một cơ quan ngang bộ giúp đảm bảo và thúc đẩy việc tập trung chuyên môn,
tính công chính, minh bạch và khả năng chịu trách nhiệm và giải trình của cơ
quan này.
Mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của
các quốc gia trên thế giới rất phong phú, đa dạng.Mặc dù tuổi đời còn non trẻ
nhưng Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định.
Trong thời gian tới, với những kết quả đã đạt được, hy vọng rằng, cơ quan cạnh
tranh Việt Nam sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tốt đẹp, khắc phục hạn chế để
quản lý nhà nước và thực thi pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá
giá, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế
liên quan đến bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh,… hoàn thành nhiệm vụ được
giao.
[1]
https://www.ftc.gov/about-ftc/bureaus-offices
[3]https://www.accc.gov.au/about-us/australian-competition-consumer-commission/accc-chair-commissioners
[4]https://www.accc.gov.au/about-us/australian-competition-consumer-commission/organisation-structure
[5]
http://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=26
[6]
http://www.competitionbureau.gc.ca/eic/site/cb-bc.nsf/eng/h_00109.html
[7]
http://www.competitionbureau.gc.ca/eic/site/cb-bc.nsf/eng/h_02866.html
[8]
http://legal.moit.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_id=9&news_id=721
[9]
http://www.vca.gov.vn/Organization.aspx?CateID=11
[10]
http://www.hoidongcanhtranh.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_id=2&id=41