Mô hình cơ quan cạnh tranh một số nước (Mỹ, Úc, Canada, Việt Nam)

Thực tế cho thấy, cơ quan cạnh tranh có chức năng quản lý, điều hòa, điều tiết quan hệ cạnh tranh ở mức nhất định trong môi trường thương mại.Góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh một cách lành mạnh nhất. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, mỗi quốc gia sẽ xây dựng mô hình cơ quan cạnh tranh khác nhau, song đều có chung mục đích là góp phần thực thi Luật Cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất.
Việc cơ quan cạnh tranh được tổ chức và hoạt động như thế nào là một vấn đề quan trọng.Trong phạm vi bài tập học kỳ, tôi đã lựa chọn đề tài: Mô hình cơ quan cạnh tranh một số nước trên thế giới”để thực hiện, qua đó, giới thiệu một cách khái quát nhất về mô hình cơ quan cạnh tranh của một số nước và kiến nghị hoàn thiện cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam.

Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của mình, môi quốc gia sẽ xây dựng mô hình cơ quan cạnh tranh với những nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ phù hợp. Một số quốc gia thiết lập vị trí cơ quan cạnh tranh thuộc Quốc hội, có những quốc gia lại xác định cơ quan cạnh tranh là một cơ quan ngang bộ hoặc trực thuộc Chính phủ hay thuộc Tổng thống, một số quốc gia khác lại xác định cơ quan cạnh tranh là một đơn vị thuộc Bộ.
Sau đây, tôi xin giới thiệu khái quát về mô hình cơ quan cạnh tranh của Hoa Kỳ, Úc và Canada, tương ứng với 3 mô hình cơ quan cạnh tranh trực thuộc Quốc hội, trực thuộc Chính phủ, đơn vị trực thuộc Bộ.
1.1.         Cơ cấu tổ chức
Ủy ban Thương mại Hoa Kỳ (US – FTC) là một cơ quan độc lập báo cáo trực tiếp cho Quốc hội. Ủy ban hoạt động dưới sự chỉ đạo của năm ủy viên có nhiệm kỳ 7 năm, được bổ nhiệm bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện. Tổng thống chỉ định một ủy viên đảm trách Chủ tịch.Không quá ba ủy viên là thành viên của một Đảng. Không quá 3 ủy viên là thành viên của 1 Đảng.
Hiện tại US – FTC được điều hành bởi bà Edith Ramirez (do Tổng thống Barack Obama chỉ định từ ngày 4/3/2013). Hoạt động của US – FTC được thực hiện bởi các Cục gồm: Cục Bảo vệ người tiêu dùng, Cục Cạnh tranh, Cục Kinh tế và các Văn phòng: Văn phòng các vấn đề cộng đồng, Văn phòng quan hệ Quốc hội, Văn phòng Giám đốc điều hành, Văn phòng Tổng thanh tra, Văn phòng Tổng tham vấn, Văn phòng Thư ký, Văn phòng Công vụ, Văn phòng Kế hoạch – Chính sách, Văn phòng Luật sư, Văn phòng Quan hệ quốc tế, và 7 văn phòng khu vực có nhiệm vụ hỗ trợ thực hiện các hoạt động này.[1]

Chủ tịch US – FTC
Bà Edith Ramirez


Ủy viên  US – FTC

Cục
10 Văn phòng
Bảo vệ người tiêu dùng
Cạnh tranh
Kinh tế
7 Văn phòng khu vực
(Sơ đồ tổ chức Ủy ban Thương mại Hoa Kỳ)
1.2.         Chức năng, nhiệm vụ
Cục Bảo vệ người tiêu dùng có nhiệm vụ là bảo vệ người tiêu dùng trước các hành vi không công bằng, hành vi gian lận hoặc dối trá. Cục Bảo vệ Người tiêu dùng thực thi các văn bản pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng do Quốc hội ban hành cũng như các quy định về thương mại do Uỷ ban ban hành. Hoạt động chính của Cục bao gồm tiến hành các cuộc điều tra đối với các công ty tư nhân và các ngành công nghiệp lớn, giải quyết các tranh chấp của toà hành chính và toà án liên bang, nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. Thêm vào đó, Cục Bảo vệ Người tiêu dùng còn hỗ trợ Uỷ ban báo cáo Quốc hội và các cơ quan Chính phủ về các hoạt động có nguy cơ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
Cục Cạnh tranh có nhiệm vụ phát hiện các hoạt động kinh doanh gây hạn chế cạnh tranh, từ đó góp phần đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng thể hiện ở mức giá thấp và tính sẵn có của các sản phẩm và dịch vụ. Cục sẽ tiến hành các cuộc điều tra để phát hiện hành vi vi phạm, trình Uỷ ban xem xét xử lý. Khi Uỷ ban có quyết định xử lý, Cục sẽ thực thi các quyết định này thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của toà án liên bang hoặc theo các quy định hành chính.
Cục cũng có nhiệm vụ như một bộ phận nghiên cứu, hoạch định chính sách về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh.Cục chuẩn bị các báo cáo và chứng cớ trước Quốc hội, hoặc có thể đưa ra những bình luận về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh trước khi có quyết định từ những cơ quan quản lý khác. Cục Cạnh tranh cũng phát triển những kiến thức chuyên sâu về một số ngành công nghiệp quan trọng đối với người tiêu dùng như: chăm sóc sức khoẻ, lương thực, năng  lượng và các dịch vụ chuyên môn khác. Luật Chống độc quyền do cả Cục Cạnh tranh của Uỷ ban và Vụ Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp thi hành. Do đó, để tránh chồng chéo, hai cơ quan này sẽ tham khảo ý kiến của nhau trước khi tiến hành xử lý bất kỳ trường hợp nào.
Cục Kinh tế giúp US – FTC đánh giá ảnh hưởng kinh tế của các hoạt động của US – FTC.Để thực hiện điều này, Cục tiến hành các phân tích kinh tế và hỗ trợ các cuộc điều tra về chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng. Cục cũng phân tích những ảnh hưởng từ các quy định do Chính phủ ban hành về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng và cung cấp cho Quốc hội cũng như cho công chúng các phân tích kinh tế về các quy trình thị trường liên quan đến chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng và các quy định khác.
Văn phòng các vấn đề cộng đồng: cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động của US – FTC, các tin tức, vụ việc… cho công chúng.
Văn phòng quan hệ Quốc hội hỗ trợ các thành viên Quốc hội và các nhân viên riêng và nhân viên ủy ban của họ.Nhiệm vụ của văn phòng là cung cấp các thông tin liên quan đến các vấn đề chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng một cách chính xác, kịp thời và toàn diện cho Quốc hội.
Văn phòng Giám đốc điều hành phục vụ mục tiêu quản lý và thực thi của FTC chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của cơ quan. Văn phòng có 4 tiểu ban chức năng gồm: Ban Dịch vụ Hành chính, Ban Quản trị Tài chính, Ban Quản trị Nhân lực, Ban Quản trị Công nghệ và Thông tin.
Văn phòng Tổng tham vấn có nhiệm vụ là đại diện cho Ủy ban trước tòa và tham vấn luật cho Ủy ban.
Văn phòng Thư ký có nhiệm vụ giám sát, xử lý nhanh chóng và kịp thời tất cả các vấn đề trình lên Ủy ban và hỗ trợ Ủy ban trong quá trình ra quyết định, đảm bảo Ủy ban hoạt động hiệu quả.
Văn phòng Tổng thanh tra (OIG) là cơ quan trực thuộc US – FTC được thành lập năm 1989 theo Đạo luật Tổng thanh tra sửa đổi năm 1988. OIG có nhiệm vụ thực hiện và giám sát việc kiểm toán và điều tra độc lập, khách quan liên quan đến các chương trình và hoạt động của cơ quan; ngăn chặn và phát hiện các hành vi gian lận, lãng phí và lạm dụng trong các chương trình và hoạt động của cơ quan; rà soát và khuyến nghị về hệ thống những quy định pháp luật liên quan tới các chương trình và hoạt động của cơ quan hiện hành hoặc được đưa ra; và báo cáo cập nhật chi tiết các thông tin về các vấn đề trong các chương trình và hoạt động của cơ quan cho thủ trưởng cơ quan và cho Quốc hội.
Các Văn phòng khu vực bao gồm bảy khu vực địa lý. Các văn phòng khu vực làm việc với Cục Cạnh tranh và Cục Bảo vệ người tiêu dùng để tiến hành hoạt động điều tra và khởi kiện; cung cấp các ý kiến tư vấn cho các quan chức cấp bang và địa phương về những tác động cạnh tranh của các hoạt động được đề xuất, các trường hợp khuyến nghị; cung cấp các dịch vụ tiếp cận địa phương cho người tiêu dùng và các doanh nhân, và phối hợp hoạt động với các cơ quan địa phương, bang và khu vực.[2]
2.1.         Cơ cấu tổ chức
Ủy ban Cạnh tranh và Người tiêu dùng Úc (Australian Competition & Consumer Commission – ACCC) được thành lập năm 1995 thay thế cho Ủy ban Thực tiễn thương mại (Trade Practices Commission – thành lập năm 1974) và Cục Giám sát giá (thành lập năm 1983) sau khi có Luật Cải cách chính sách cạnh tranh năm 1995.

Chủ tịch ACCC
Ông Rod Sims

Phó Chủ tịch ACCC
Bà Delia Rickard
Ông Michael Schaper
Cao ủy ACCC
Bà Cristina Cifuentes
Ông Roger Featherston
Bà Sarah Court
Ông Mick Keogh
Các bộ phận
Quản trị doanh nghiệp
Điều tiết năng lượng
Xét duyệt cấp phép và sáp nhập
Người tiêu dùng, doanh nghiệp nhỏ và an toàn sản phẩm
Quy định cơ sở hạ tầng
Dịch vụ cá nhân và doanh nghiệp
Thực thi cạnh tranh
Pháp lý và kinh tế
(Sơ đồ tổ chức Ủy ban Cạnh tranh và Người tiêu dùng Úc)
ACCC là một cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ, hoạt động độc lập và được thành lập theo luật Liên bang Úc. ACCC có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Cao uỷ. Bổ nhiệm Chủ tịch và các Uỷ viên của ACCC có sự tham dự của Chính phủ Liên bang, bang và lãnh thổ.
Hiện nay, Chủ tịch ACCC là ông Rod Sims, được bổ nhiệm tháng 8 năm 2011 cho một nhiệm kỳ năm năm và tái bổ nhiệm thêm ba năm trong tháng 8 năm 2016. Hai Phó Chủ tịch của ACCC là: bà Delia Rickard (được bổ nhiệm vào vị trí Phó Chủ tịch ACCC vào tháng 6 năm 2012 trong thời hạn năm năm) và ông Michael Schaper. Bốn vị Cao ủy trong Ủy ban là: bà Cristina Cifuentes, ông Roger Featherston, ông Mick Keogh và bà Sarah Court.[3]
Dưới ủy ban là các bộ phận cụ thể phụ trách từng mảng lĩnh vực như: bộ phận quản trị doanh nghiệp; bộ phận điều tiết năng lượng; bộ phận thực thi cạnh tranh; bộ phận xét duyệt cấp phép và sáp nhập; bộ phậnvề người tiêu dùng, doanh nghiệp nhỏ và an toàn sản phẩm; bộ phận quy định cơ sở hạ tầng; bộ phận pháp lý và kinh tế; bộ phận dịch vụ cá nhân và doanh nghiệp.[4]
2.2.         Chức năng, nhiệm vụ
ACCC thúc đẩy cạnh tranh và thương mại công bằng trên thị trường nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp cho người tiêu dùng, các nhà kinh doanh và cộng đồng.ACCC cũng quản lý các dịch vụ về cơ sở hạ tầng của quốc gia. ACCC là cơ quan duy nhất của Úc giải quyết các vấn đề chung liên quan đến cạnh tranh và cũng là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm thực thi Luật Thương mại và Luật ứng dụng của bang và lãnh thổ. Trong thương mại công bằng và bảo vệ người tiêu dùng, vai trò của ACCC là bổ sung cho các cơ quan phụ trách các vấn đề tiêu dùng của bang và lãnh thổ quản lý những quy định thuộc thẩm quyền của mình và Phòng Chính sách Cạnh tranh và Tiêu dùng của Bộ Tài chính liên bang.
Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban này phản ánh những hoạt động chính của mình: thực thi, chiến lược tuân thủ (bao gồm giáo dục và thông tin), xét xử, sáp nhập, viễn thông, giám sát giá cả, cải cách điều tiết và quản lý những ngành phục vụ công cộng.
ACCC là một cơ quan nhà nước độc lập, chịu trách nhiệm thực thi các đạo luật thực hành thương mại năm 1974 và Đạo luật giám sát giá cả 1983 với các nhiệm vụ chủ yếu như:
-  Khuyến khích sự cạnh tranh ở trên tất cả các thị trường;
-  Đảm bảo duy trì nguyên tắc kinh doanh trung thực ở trên các thị trường;
-  Đảm bảo giữ gìn an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng;
-  Bắt buộc các nhà sản xuất phải thực hiện đúng các tiêu chuẩn sản phẩm do Nhà nước quy định;
-  Kiểm tra và giám sát giá cả;
-  Khuyến khích sự cạnh tranh về giá cả ở bất cứ nơi nào làm được, và hạn chế sự tăng giá ở các thị trường mà sự cạnh tranh còn ít có hiệu quả;…
2.3.         Tòa Cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh quốc gia
Theo Luật Thực tiễn thương mại của Úc năm 1974, ngoài ACCC, thì cơ quan có trách nhiệm liên quan đến quy định cạnh tranh còn có: Tòa Cạnh tranh Úc (Australian Competition Tribunal – ACT) và Hội đồng Cạnh tranh quốc gia (National Competition Council – NCC).[5]
Tòa Cạnh tranh Úc có chức năng xem xét kháng nghị các quyết định của ACCC liên quan tới việc cho phép (authorizations) hoặc thông báo (notifications) và quy định tiếp cận nguồn lực (access regime). Ngoài ra, Tòa Cạnh tranh còn xem xét các vụ tập trung kinh tế diễn ra ở ngoài nước Úc nhưng lại có ảnh hưởng hạn chế cạnh tranh tại Úc và nếu có thì liệu những lợi ích đối kháng lại với công chúng cần bỏ qua không.
Hội đồng Cạnh tranh quốc gia được thành lập vào năm 1995 theo Luật Cải cách chính sách cạnh tranh năm 1995. Hội đồng Cạnh tranh quốc gia chịu trách nhiệm tư vấn về những vấn đề thuộc Luật Cạnh tranh.
3.1.         Cơ cấu tổ chức
Canada lựa chọn và xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ. Cục Cạnh tranh Canada là cơ quan trực thuộc Bộ Công nghiệp Canada.

Cục trưởng Cục Cạnh tranh Canada
Ông John Pecman

Cục phó


Bà Jeanne Pratt

Ông Matthew Boswell

Bà Vicky Eatrides

Bà Ana Maia



Phòng
Sáp nhập

Phòng
Chấp hành và thực thi

Phòng Kinh tế và các vấn đề quốc tế

Phòng
các vấn đề dân sự

Phòng
các vấn đề hình sự

Phòng Thương mại lành mạnh
(Sơ đồ cơ cấu tổ chức Cục Cạnh tranh Canada)
Đứng đầu Cục là Cục trưởng được bổ nhiệm theoluật. Hiện nay, “Ủy viên Cạnh tranh (Commissioner of Competition)” là ông John Pecman, được bổ nhiệm ngày 12 tháng 6 năm 2013, cho một nhiệm kỳ năm năm.[6]
Dưới Cục trưởng, có 4 Cục phó, bao gồm: bà Jeanne Pratt (Phó Ủy viên cao cấp - Senior Deputy Commissioner), ông Matthew Boswell (Senior Deputy Commissioner), bà Vicky Eatrides (Deputy Commissioner) và bà Ana Maia (Executive Director).[7]
Cơ cấu tổ chức của Cục Cạnh tranh Canada gồm có 6 bộ phận, bao gồm: Phòng Sáp nhập, Phòng Chấp hành và thực thi, Phòng Kinh tế và các vấn đề quốc tế, Phòng các vấn đề dân sự, Phòng các vấn đề hình sự và Phòng Thương mại lành mạnh.
3.2.         Chức năng, nhiệm vụ
Cục trưởng Cục Cạnh tranh: là người đứng đầu Cục Cạnh tranh, chịu trách nhiệm theo dõi và thực thi Luật Cạnh Tranh, Luật về nhãn mác và đóng gói hàng hóa, Luật nhãn mác kim loại quý và Luật Nhãn hiệu hàng dệt may.
Phòng Sáp nhập: chịu trách nhiệm xem xét, đánh giá hoạt động sáp nhập. Các vụ sáp nhập có tổng giá trị tài sản trên 400 triệu đô la, giá trị chuyển nhượng lớn hơn 35 triệu đô la, thì phải có hồ sơ gửi trước cho Phòng Sáp nhập.
Phòng Chấp hành và thực thi: có nhiệm vụ phát triển các chương trình điều phối, thực thi có hiệu quả các chính sách của Cục, tuyên truyền giáo dục cho cộng đồng. Đồng thời Phòng còn chịu trách nhiệm lập kế hoạch, quản lý và xử lý thông  tin.
Phòng Kinh tế và các vấn đề quốc tế: Điều phối các hoạt động hợp tác quốc tế trong các diễn đàn quốc tế về chính sách cạnh tranh và là kênh liên lạc với đại diện các cơ quan chính phủ khác. Phòng cũng cung cấp các phân tích, tư vấn về kinh tế cho các bộ phận khác để thực thi luật trong từng trường hợp cụ thể, từng vụ việc về chính sách cụ thể, về các thay đổi  của luật pháp, và cả những can thiệp có tính chất điều tiết. Phòng cũng đưa ra các tư vấn về chính sách cạnh tranh và các đề xuất nhằm hỗ trợ chính phủ các nước khác.
Phòng Các vấn đề dân sự: điều tra những hành động nghi vấn có yếu tố hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, nhà sản xuất khống chế người tiêu dùng, như là việc từ chối cung cấp hàng, giữ độc quyền kinh doanh, hay bán kèm điều kiện khắt khe. Trách nhiệm của Phòng là phải ra tay can thiệp trước khi các cơ quan điều tiết hay toà cấp tỉnh, cấp liên bang tham gia vào.
Phòng Các vấn đề Hình sự: điều tra các hành vi vi phạm có tính hình sự, chẳng hạn như thông đồng để định giá trên thị trường, móc ngoặc – gian lận trong đấu thầu, cơ chế phân biệt giá, phá giá, duy trì giá... Ngoài ra, Phòng còn phụ trách cả bộ phận Sửa đổi, bổ sung Luật để đảm bảo là các điều khoản trong Luật Cạnh tranh và những chế định về  dán nhãn mác thích hợp với thực tiễn.
Phòng Thương mại lành mạnh: có nhiệm vụ khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thông qua các hướng dẫn chấp hành, các chương trình đào tạo cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng. Phòng sẽ áp dụng những điều khoản trong Luật cạnh tranh để giải quyết những vi phạm trong quảng cáo và những vụ gian lận khác. Ngoài ra  còn quản lý việc thực thi Luật Cạnh tranh, cũng như Luật Đóng gói, nhãn hiệu, Luật nhãn mác kim loại và Luật nhãn hiệu hàng dệt may.[8]
Theo quy định tại Điều 49 và Điều 53 Luật Cạnh tranh 2004, cơ quan cạnh tranh tại Việt Nam bao gồm: Cơ quan quản lý lạnh tranh, cụ thể là Cục Quản lý cạnh tranh (Vietnam Competition Authority – VCA) và Hội đồng cạnh tranh (Vietnam Competition Council – VCC).
1.1.    Cơ cấu tổ chức
Năm 2003, Ban quản lý cạnh tranh được thành lập, trực thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương).Đến năm 2004, trên cơ sở Ban này, Cục quản lý cạnh tranh chính thức được thành lập.
Hiện nay, Cục Quản lý cạnh tranh bao gồm: Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh, Phòng Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Phòng Bảo vệ người tiêu dùng, Phòng Kiểm soát theo mẫu, điều kiện giao dịch chung, Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh nghiệp trong nước, Phòng Hợp tác quốc tế, Văn phòng Cục, Trung tâm thông tin cạnh tranh, Trung tâm đào tạo điều tra viên và các Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.Cục Quản lý cạnh tranh có một Cục trưởng là ông Bạch Văn Mừng và 3 Cục phó gồm: ông Trần Anh Sơn, ông Nguyễn Phương Nam và ông Trịnh Anh Tuấn.[9]
LÃNH ĐẠO VCA
Cục trưởng Bạch Văn Mừng
Phó cục trưởng
Trần Anh Sơn
Phó cục trưởng
Nguyễn Phương Nam
Phó cục trưởng
Trịnh Anh Tuấn
Bộ máy giúp việc
Đơn vị sự nghiệp
Văn phòng Cục
Trung tâm đào tạo Điều tra viên
Phòng Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
Trung tâm thông tin cạnh tranh
Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh

Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài
Phòng Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Phòng Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh nghiệp trong nước
Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh
Phòng Hợp tác quốc tế
Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng
Văn phòng đại diện tại TP. Hồ Chí Minh
(Sơ đồ cơ cấu tổ chức Cục Quản lý cạnh tranh)
1.2.         Chức năng, nhiệm vụ
Chức năng, nhiệm vụ của VCA được quy định tại Điều 49 Luật Cạnh tranh, và được quy định cụ thể tại Quyết định Số: 848/QĐ – BCT của Bộ Công Thương. Theo đó,
Cục quản lý cạnh tranh là đơn vị thuộc Bộ Công Thương, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ theo quy định của pháp luật.
2.1.    Cơ cấu tổ chức
Hội đồng Cạnh tranh được thành lập theo Điều 53 Luật Cạnh tranh. Theo đó, Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập. Hội đồng Cạnh tranh có từ mười một đến mười lăm thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ trưởng Bộ Công Thương).
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của VCC có Chủ tịch Hội đồng là ông Trần Quốc Khánh – Thứ trưởng Bộ Công Thương, 02 Phó Chủ tịch là: Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng và Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung. Và 11 ủy viên khác.Giúp việc cho Hội đồng có Ban Thư ký và Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh.[10]
2.2.    Chức năng, nhiệm vụ
Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh độc lập do Chính phủ thành lập, có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh.Và được quy định cụ thể tại Điều 2 Nghị định số 07/2015/NĐ – CP của Chính phủ.
Việc lựa chọn mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh là vấn đề quan trọng và có nhiều quan điểm khác nhau tại các nước trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam lựa chọn mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ. Với thực trạng hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh cùng với xu hướng tối cao hóa cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới thì trong tương lai, chúng ta nên xây dựng một cơ quan quản lý cạnh tranh ngang bộ (trực thuộc Chính phủ) để đáp ứng và thực hiện các mục tiêu:
Thứ nhất, đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của cơ quan này trong điều kiện bộ máy hành chính nhà nước của Việt Nam còn nhiều bất cập và còn tư tưởng “cục bộ”.Độc lập không có nghĩa là phải đứng độc lập, riêng rẽ về mặt tổ chức, không trực thuộc cơ quan chủ quản nào mà là độc lập về hoạt động cũng như, nhiệm vụ, quyền hạn.
Thứ hai, hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh chủ yếu được thể hiện trong hoạt động điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong điều kiện nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đang giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, do đó, đối tượng điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh có thể sẽ là các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, việc thành lập một cơ quan quản lý cạnh tranh độc lập của Chính phủsẽ tạo điều kiện cho việc huy động nguồn thu ngân sách thông qua hoạt động một cách độc lập, tăng thêm tính tự chủ của cơ quan quản lý cạnh tranh. Kinh nghiệm tách bộ, ngành, tái cơ cấu được thực thi trong những năm gần đây cho thấy việc thiết lập một cơ quan ngang bộ về mặt thể chế, có cơ cấu gọn nhỏ trong giai đoạn đầu, có cơ chế huy động ngân sách hoạt động cụ thể là khả thi.
Thứ tư, vị trí độc lập của một cơ quan ngang bộ giúp đảm bảo và thúc đẩy việc tập trung chuyên môn, tính công chính, minh bạch và khả năng chịu trách nhiệm và giải trình của cơ quan này.

Mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới rất phong phú, đa dạng.Mặc dù tuổi đời còn non trẻ nhưng Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Trong thời gian tới, với những kết quả đã đạt được, hy vọng rằng, cơ quan cạnh tranh Việt Nam sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tốt đẹp, khắc phục hạn chế để quản lý nhà nước và thực thi pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá giá, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh,… hoàn thành nhiệm vụ được giao.



[1] https://www.ftc.gov/about-ftc/bureaus-offices
[3]https://www.accc.gov.au/about-us/australian-competition-consumer-commission/accc-chair-commissioners
[4]https://www.accc.gov.au/about-us/australian-competition-consumer-commission/organisation-structure
[5]   http://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=26
[6] http://www.competitionbureau.gc.ca/eic/site/cb-bc.nsf/eng/h_00109.html
[7] http://www.competitionbureau.gc.ca/eic/site/cb-bc.nsf/eng/h_02866.html
[8] http://legal.moit.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_id=9&news_id=721
[9] http://www.vca.gov.vn/Organization.aspx?CateID=11
[10] http://www.hoidongcanhtranh.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_id=2&id=41

Related Post

Previous
Next Post »