Vấn
đề tổ chức hành chính quốc gia là một trong những vấn đề then chốt của mọi chế
độ chính trị trong lịch sử. Xã hội luôn luôn vận động, vì vậy, nền hành chính
cũng phải luôn luôn có sự điều chỉnh, cách tân để đáp ứng sự biến đổi của xã
hội. Do đó, trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, cùng với
sự biến đổi của thể chế chính trị
- xã hội, thường dẫn đến những
cải cách từng phần hoặc toàn diện nền hành chính trên phạm vi toàn quốc. Cuộc
cải cách của vau Lê Thành Tông là một cuộc cải cách lớn trong lịch sử nước ta
và đó cũng là một cuộc cải cách toàn diện và thành công nhất. Chính quyền từ
trung ương đến địa phương được thiết lập rất khoa học và hợp lý. Để làm rõ hơn
về cải cách chính quyền của vua Lê Thánh Tông, em xin đi chọn để tài: “Phân
tích cải cách ở chính quyền cấp đạo của vua Lê Thánh Tông”. Do kiến thực lý
luận của em còn hạn chế, trong bài viết không thể tránh khỏi những sai sót, em
rất mong được sự chỉ bảo của thấy, cô để em được hiểu và rõ hơn.
B. NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sử của đất nước trước cải
cách của vua Lê Thánh Tông.
Trước
khi đi tìm hiểu cải cách Lê Thánh Tông, chúng ta cần xem xét bối cảnh của công
cuộc cải cách, qua đó mới nhìn nhận được hết các khía cạnh của nú. Mới nhìn,
tưởng rằng cuộc cải cách này chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân đơn giản trước mắt là
sự yếu kém của bộ máy hành chính đã được cải tổ từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông.
Nhưng thực tế nú bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa, mà từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân
Tông tuy cũng muốn làm nhưng chưa
thực hiện được. Nguyên nhân trước hết là do khủng hoảng thiết chế chính trị
diễn ra từ cuối Trần: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và hành chính mang
tính phân tán, quyền lực của nhà nước quân chủ quan liêu trung ương tập quyền
bị hạn chế. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly nhằm thay thế thiết chế quân chủ quý
tộc bằng một thiết chế mới quân chủ quan liêu là đúng đắn, cần thiết, nhưng do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nú đã thất bại nhanh chóng. Dưới thời
thuộc Minh( Trung Quốc), Đại Việt trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh của
nhà Minh do ba ty quản lý.
Cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427)
thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, bắt tay xây dựng cường quốc mới
theo thiết chế cũ của nhà Trần. Ở trung ương, dưới vua là các chức Tả, Hữu
tướng quốc, Bình chương, Đại hành khiển, Tả hữu bộc xạ là những trọng thần giúp
vua bàn bạc các “quõn quốc
trọng sự”. Dưới đó là các
chức quan như: Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh…Cỏc bộ chỉ là các ban, phòng nằm
trong thượng
Ở
địa phương, đất nước rộng lớn đã thống nhất, nhưng Lê Thái Tổ mới chia làm ba
đạo, rồi Lê Thái Tông chia làm 5 đạo. Lê Thái Tổ đã xác định xã là cấp cơ sở và
đặt xã quan. Nhưng các cấp trung gian lại còn quá nhiều và hỗn độn như: Phủ,
huyện, lỵ, trấn… ở thời Lê Thái Tổ. Đến thời Lê Thái Tông lại vẫn thấy: Phủ, lộ,
trấn, huyện…
Thiết
chế chính trị như trên rõ ràng chưa chặt chẽ, chưa hoàn chỉnh, mang tính phân
tán. Nhược điểm này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV và từ đó đã đặt ra yêu
cầu cải cách. Giờ đây, trong hoàn cảnh mới nhưng vẫn duy trì thiết chế chính trị
đó rõ ràng không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, của xu thế
thời đại. Yêu cầu đặt ra cần thiết lập một bộ máy hành chính mới phù hợp với
tình hình thực tiễn của đất nước.
Mặt
khác, sau khi Lê Thái Tổ qua đời, các vua
kế vị thường còn ít tuổi (10 tuổi và 2 tuổi). Mọi việc quyết đoán trong triều
đình đều nằm trong tay các đại thần. Nhưng mặc dù đã có với nhau gần 10 năm “nằm gai nếm mật”, họ vẫn không
thoát khỏi sự đố kị khi trở thành người nắm giữ vận mệnh quốc gia. Hàng loạt “công thần khai quốc” như: Nguyễn Trói, Lưu Nhân Chú, Lê
Sát, Lê Ngõn… lần lượt bị giết. Tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng, ăn
chơi sa đoạ khá phổ biến, đến nỗi Lê Thái Tông phải ra lệnh chỉ, nêu:“ Nay
các khanh không kính giữ phép công, người giữ tiền bạc, sổ sách nhà nước thì
chậm trễ hoặc gây khó dễ. Thuế đáng thu hay đáng miễn thì không chịu phê tâu
dứt khoát để làm khổ dân. Người coi quan thì không thương dân đau khổ, mượn đồ
của dân vứt bỏ bừa bãi đến nỗi hỏng, mất, đến khi có việc lại đến hạch sách. Còn
kẻ coi dân thì chỉ vụ lợi riêng, không lo nuôi dưỡng dân, hoặc tha cho người
giàu, bắt tội người nghèo mua gỗ làm nhà làm cửa, xử kiện không công bằng,
chỉgây bè phái, lo hối lộ…”[2,326]. Ngay trong bản Trung hưng kí, được viết
sau khi Lê
hối lộ công hành… phường dốt đặc nổi dậy như ong…Văn giai như Đào
Công Soạn tuổi gần 80, tế thần như Lê Ê không biết một chữ. Người trẻ không
biết nghĩ, tự ý làm càn; người già không chết đi, thành ra tai hại. Bán quan,
mua ngục, ưa giàu, ghét nghốo…kẻ xiểm nịnh được nghe theo, bọn dạn sát thì được
bổ dụng”[2, 437].
Thực
trạng đó cũng làm cho nhà nước tập quyền thêm suy yếu. Để xây dựng một nhà nước
quân chủ trung ương tập quyền mạnh, đòi hỏi phải chấn chỉnh lại kỉ cương phép
nước, phải cải cách cả thiết chế chính trị, cả về cơ chế vận hành của bộ máy
hành chính từ trung ương đến địa phương, khắc phục tình trạng bất cập giữa tập
trung và phân tán. Tình hình trên đặt ra yêu cầu cần tiến hành một công cuộc
cải cách, đặc biệt là mặt hành chính nhằm chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà
nước, xây dựng một nhà nước tập quyền có đủ khả năng ổn định lại tình hình, đưa
đất nước phát triển đi lên. Lê Thánh Tông - Vị vua hiền trong triều đại nhà Lê
lên ngôi đã đảm đương công việc này.
II. Cải cách hành chính của vua Lê Thánh
Tông ở cấp đạo – xứ.
Đối với cấp đạo, Lê Thánh Tông thực hiện ba biện pháp: Một
là chia cả nước thành nhiều đạo nhỏ, hai là không để quyền hành ở đạo tập trung
vào tay một người mà được tản ra cho ba cơ quan (tam ti), ba là giám sát chặt
chẽ cấp đạo.
Từ năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo và phủ
Trung Đô (có thời gian được gọi là phủ Phụng Thiên). Phủ này gồm hai huyện là
Quảng Đức và Thọ Xương, là đất kinh đô, được đặt thành một khu hành chính đặc
biệt, trực thuộc triều đình. Phủ Trung Đô là đơn vị hành chính tương đương với
đạo, khác với những phủ thông thường khác (dưới cấp đạo). Bởi vậy, sử sách có
khi nói 12 đạo và Trung Đô phủ, có khi nói 13
đạo (gồm cả Trung Đô phủ). Năm 1471, Lê Thánh Tông đánh chiếm thêm một
phần đất của người Chămpa và lập thêm đạo Quảng Nam (gồm Quảng Nam, Quàng Bình,
Quảng Ngãi ngày nay). Biên giời Đại Việt lui vào tới đèo Củ Mông. Như vậy, từ
năm 1471, Đại Việt có 13 đạo và phủ Trung Đô. Từ năm 1490, đạo được gọi là xứ
(hay còn gọi là xứ thừa tuyên), có 13 xứ và Trung Đô phủ.
Việc chia cả nước thành nhiều đạo nhỏ nhằm hai mục đích:
-
Hạn chế tiềm lực và thế lực của những lực lượng
phong kiến địa phương, ngăn ngừa sự cát cứ.
-
Chính quyền cấp đạo quản lí địa phương có hiệu lực
và hiệu quả hơn.
Đồng thời, Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Hành khiển và thay vào
đó bằng ba ti (sử sách thường gọi là tam ti).
Ti Tuyên chính sứ (đứng đầu là tuyên chính sứ) được lập ra ở
các đạo từ năm 1464 để thay cho Hành khiển. Sự kiện này đánh dấu quá trình chuyển
hình thức cai quản địa phương bởi một cá nhân, hơn nữa chỉ thiên về quản lãnh
quân sang hình thức cai quan bằng một cơ quan có một cơ quan đứng đầu và cơ sự
phân công chức trách giữa các bộ phận trong ti. Năm 1466, ti Tuyên chính sứ được
gọi là Thừa ti chính sứ (Thừa ti) quan đứng đầu được gọi là thừa chính sứ. Năm
1467 bãi bỏ việc đô tổng binh sứ kiêm nhiệm chức thừa chính sứ. Vì rằng, chức
thừa chính sứ phần nhiều do tổng binh kiêm nhiệm mà đô tổng binh là hạng võ thường
ít hiểu chữ nghĩa, kiêm hai chức e rằng trở ngại đến việc quân ngũ và chính trị.
Đô binh sứ (Đô ti) được lập ra từ năm 1466 để lãnh đạo trách
nhiệm về quân sự và trước đó do Thừa ti nắm giữ cả.
Hiến sát sứ ti (Hiến ti) được lập ra sau cùng vào năm 1471.
Như vậy, từ năm 1471, tam ti được hình thành và bao gồm:
-
Thừa ti phụ trách hành chính, tài chính, dân sự.
Đứng đầu Thừa ti là thừa ti chính sứ với hàm tòng tam phẩm, chức phó thừa ti sứ
hàm tong tứ phẩm.
-
Đô ti trong coi việc quẩn, đứng đầu là đo tổng
binh sứ hàm chánh tứ phẩm, phó tong binh hàm tong tứ phẩm.
-
Hiến ti có chức năng xét xử và giám sát hai ti
trên, giám sát mọi công việc trong đạo để tâu lên triều đình. Đứng đầu Hiến ti
là hiến sát hàm chánh lục phẩm và hiến sát phó sứ hàm chánh thất phẩm.
Sự phân lập quyền hành ở địa phương như vậy nhằm ngăn ngừa
khuynh hướng cát cứ và tang cường quyền lực của trung ương.
Ngoài ra để tang cường hơn nữa sự giám sát của trung ương đối
với cấp đạo, ngự sử đài ở triều đình đã đặt 6 ti ngự sử tại các đạo. Mỗi ti ngự
sử đài giám sát hai hoặc ba đạo. Ti ngự sử không phải là cơ quan địa phương mà
là cơ quan của ngự sử đài trung ương. Đứng đầu ti ngự sử là chức quan giám sát
ngự sử mang hàm chánh thất phẩm.
Riêng Trung Đô phủ (phủ Phụng Thiên) quan đứng đầu phủ là phủ
doãn mang hàm chánh ngũ phẩm, chức phó là thiều doãn với hàm chánh lục phẩm.
Như vậy, tuy phủ Trung Đô là đơn vị hành chính trung ương tương đương cấp đạo
nhưng có hình thức tổ chức chính quyền khác hẳn cấp đạo.
Quan lại thời Lê Thánh Tông chỉ được tại chức đến năm 65 tuổi,
bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các công thần, điều này cũng góp phần hạn chế
quyền hành của các đại thần, tránh tình trạng cát cứ.
III. Đánh giá cải cách cấp đạo của Lê Thánh Tông.
Do hoản cách lên ngôi sau một cuộc nổi loạn của các vị đại
thần trong triều cũng như rút ra từ các triều đại được trước thì cuộc cải cách
của Lê Thánh Tông đã thay đổi mọi mặt trong xã hội. Quyền lực được tập trung
vào tay vua và trung ương nhiều hơn không như triều Lý – Trần vua không nắm
toàn quyền. Cải cách của Lê Thánh Tông cũng tằng cường việc giám sát quan lại
tránh việc lộng quyền của các thế lực phong kiến. Chính những cải cách này đã
đưa nước ta phát triển về kinh tế xã hội, văn hóa, củng cố quân đội đảm bảo quốc
phòng tránh sự nhòm ngó của phong kiến phương Bắc.
Có thể khẳng định rằng cuộc cải cách của Lê Thánh Tông là
thành công và triệt để nhất trong các cuộc cải cách phong kiến.
C. KẾT LUẬN
Qua những cải cách cấp đạo của Lê Thánh Tông ta thấy rõ được
tài trí cũng như đúc rút kinh nghiệm của các triều đại trước từ đó đưa nước ta
phát triển rực rỡ, giúp nhân dân ấm lo, hạnh phúc.