Phân tích và đánh giá các điều kiện nuôi con nuôi giữa cha dượng hoặc mẹ kế với con riêng của một bên vợ, chồng


Nuôi con nuôi – một hiện tượng xã hội, một chế định pháp lý đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử Việt Nam. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha,mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi …; dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi. Xuất phát từ thực tiễn này  Nhà nước ta cũng ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các vấn đề về nuôi con nuôi. Luật nuôi con nuôi năm 2010  cùng với những văn bản hướng dẫm thi hành cũng đã có những quy định về việc nuôi con nuôi và các điều kiện nuôi con nuôi.. Để tìm hiểu rõ hơn về trường hợp này, em xin “Phân tích và đánh giá các điều kiện nuôi con nuôi giữa cha dượng hoặc mẹ kế với con riêng của một bên vợ, chồng”.

I.    Khái niệm và đặc điểm của quan hệ  nuôi con nuôi.
1.     Khái niệm nuôi con nuôi
Theo khoản 1 và khoản 2  Điều 3 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định. Trong đó: “Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký”; còn “Cha mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký”.
Như vậy là khi xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi, các bên đối xử với nhau như cha mẹ đẻ và con đẻ mặc dù các bên không có quan hệ với nhau về mặt huyết thông và sinh học. Ở một góc độ khác, việc nuôi con nuôi có thể tồn tại các hình thức như nuôi con trên danh nghĩa, nuôi con nuôi trên thực tế, nuôi con nuôi theo phong tục tập quán …..Quan hệ nuôi con nuôi không đòi hỏi các điêu kiện chặt chẽ mà chủ yếu đáp ứng những lợi ích về vật chất và tinh thần, tình cảm, trách nhiệm nuôi dưỡng.
2. Đặc điểm của quan hệ nuôi con nuôi
Quan hệ nuôi con nuôi có các đặc điểm sau:
Về chủ thể: Quan hệ nuôi con nuôi là là quan hệ ràng buộc một người vào một hoặc hai người khác là công dân  Việt Nam với nhau. Người nhận nuôi không sinh ra người được nuôi, họ có thể biết hoặc không biết cha, mẹ đẻ của đứa trẻ là ai. Người nhận nuôi không phân biệt nam hay nữ, đã có gia đình hay chưa có gia đình miễn là có nguyện vọng nuôi con nuôi và phải đáp ứng đầy đủ điều kiện theo luật định, cụ thể là đáp ứng đầy đủ điều kiện quy định  tại Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010. Người được nhận nuôi cần có người chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt nhất để phát triển toàn diện.
Về ý chí: Giữa người nhận nuôi  và người  con nuôi có mong muốn thiết lập cha, mẹ và con, nhất là từ người nhận nuôi. Nhà nước không thể bắt một người có đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi phải nhận một đứa trẻ có hoàn cảnh khó khăn cần có người nuôi dưỡng về làm con của mình. Mà tất cả đều do sự tự nguyện, tự do ý chí của cả hai bên.
Về khánh quan: Người nhận nuôi con và người được nuôi đã cùng chung sống với nhau trong một mái nhà, gắn bó, cư xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, thực hiện các quyền và nghĩa vụ đầy đủ đối với cha, mẹ và con với nhau. Quan hệ giữa cha mẹ và con giữa hai bên phải được pháp luật thừa nhận, họ hàng, những người xung quanh thừa nhận. Việc nuôi con nuôi là đúng mục đích không trái, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Về hình thức: Trên thực tế, việc nhận nuôi con nuôi được thực hiện bằng lời nói hoặc văn bản thoả thuận giữa hai bên gia đình xác lập  có đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo Luật nuôi con nuôi, quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi của học sẽ được công nhận và có giá trị pháp lí kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.
3.Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Khoản 5 Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định: “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”.
II.   Điều kiện nuôi con nuôi giữa cha dượng hoặc mẹ kế với con riêng của một bên vợ, chồng.
1.  Điều kiện đối với người được nhận nuôi là con riêng của một bên vợ, chồng.
Theo Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định chung về Người được nhận làm con nuôi trong các trường hợp như sau:
1. Trẻ em dưới 16 tuổi
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.
Như vậy, điều kiện mà người con riêng cần phải đáp ứng được đó là:
-  Độ tuổi: Trong trường hợp này, Luật cho phép người dưới 18 tuổi thì được nhận làm con nuôi. Chỉ được làm con của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
 1.1.   Về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi.
 Việc quy định độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là rất quan trọng, bởi trẻ em đưới 16 tuổi là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ, họ chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, việc thiết lập quan hệ nuôi con nuôi sẽ được đảm bảo cho người con nuôi có được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Mục đích việc nuôi con nuôi là để gắn kết giữa những người nhận nuôi và người con nuôi, trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gia đình, Luật quy định người nhận làm con nuôi là dưới 16 tuổi nhằm phù hợp với độ tuổi của trẻ em. Theo Điều 18 BLDS năm 2005 thì “người từ đủ 18 tuổi trở lên là người đã thành niên”. Do đó họ có thể tự mình xác lập  mọi giao dịch dân sự, đã trưởng thành, chín chắn và tự lập được kinh tế cho riêng mình. Bởi vậy những người 18 tuổi trở lên sẽ không phải là đối tượng của nhận con nuôi.
Tuy nhiên, việc cha dượng hoặc mẹ kế nhận con nuôi là con riêng của một bên vợ, chồng lại là một trường hợp ngoại lệ về độ tuổi được quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật nuôi con nuôi. Quy định này nhằm đảm bảo cho họ được chăm sóc, giáo dục trong một môi trường gia đình, đảm bảo tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Nó tạo điều kiện cho trẻ được sống trong gia đình có mối quan hệ huyết thống, đây là môi trường sống mà trẻ đã quen thuộc nên việc hòa nhập với gia đình mới sẽ dễ dàng hơn.
Mặt khác, trong mối quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng thì quyền và nghĩa vụ giữa họ là rất hạn chế. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014quy định bố dượng, mẹ kế và con riêng chỉ có một số quyền nhất định . Theo Điều79  Luật hôn nhân và gia đình 2014, quy định :
“ Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với mình theo quy định tại các điều 69, 71 và 72 của Luật này”
Như  vậy ta thấy,  những ưu tiên trong việc để cho bố dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng mình làm con nuôi thì giữa họ sẽ thiết lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa họ sẽ phát sinh và tồn tại tất cả các quyền và nghĩa vụ như cha mẹ đẻ và con đẻ. Điều này đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của cả hai bên chủ thể mà đặc biệt là quyền của người được nhận nuôi.
1.2.   Chỉ được làm con của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng. 
Ở trường hợp này, Luật cho phép người nuôi là bố dượng hoặc mẹ kế không đang trong tình trạng độc thân nhưng vẫn được nhận con nuôi (là con riêng của vợ hoặc chồng mình). Điều đó cũng có nghĩa là người được nhận nuôi (là con riêng của một bên vợ, chồng) vẫn có thể làm con nuôi của một người không đang trong tình trạng độc thân (đang là vợ hoặc chồng của bố hoặc mẹ mình). Đây là ngoại lệ đặc biệt vì về nguyên tắc, một người không thể làm con nuôi của người đang trong tình trạng có vợ hoặc có chồng.
Theo Khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi quy định: “Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Quy định này được hiểu là luật chỉ cho phép một người độc thân hoặc cả hai người là vợ chồng nhận con nuôi. Như vậy người đang có vợ hoặc có chồng tự đứng ra nhận con nuôi mà không có sự đồng ý và thoả thuận của cả hai người thì sẽ không được chấp nhận, việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất của cả hai vợ chồng. Đây cũng là điều luật nhằm đảm bảo cho trẻ được cho làm con nuôi có một môi trường gia đình trọn vẹn. Mặt khác nếu được nhận nuôi, trẻ sẽ có sự chăm sóc, dạy dỗ đồng thời của cả bố và mẹ, qua đó nhân cách của trẻ cũng được hoàn thiện hơn. Quy định này cũng được hiểu một cặp vợ chồng chứ không phải là hai người chung sống với nhau như vợ chồng hoặc của một bên vợ, chồng.
2.   Điều kiện đối với cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của một bên vợ, chồng làm con nuôi.
Điều kiện chung đối với Người nhận con nuôi trong các trường hợp được pháp luật quy định tại Điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010:
1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
d) Có tư cách đạo đức tốt.
2. Những người sau đây không được nhận con nuôi:
a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
c) Đang chấp hành hình phạt tù;
d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này.
Vậy cha dượng, mẹ kế muốn nhận con riêng của một bên vợ chồng cũng phải tuân thủ các điều kiện trên nhưng theo khoản 3 Điều 14 thì trong trường hợp này, họ không thuộc  đối tượng quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều này.
Sự điều chỉnh của pháp luật là hợp lý bởi nếu cha dượng, mẹ kế muốn nhận con riêng của vợ hoặc chồng mà phải đáp ứng đủ các điều kiện về tuổi như điểm b khoản 1 trên thì sẽ ngăn cản việc trẻ em có một mái ấm trọn vẹn hoặc các thành viên khác trong gia đình độ tuổi chưa phù hợp với người con nuôi sẽ gây khó khăn cho họ trong việc đưa đứa trẻ được nhận nuôi về đoàn tụ dưới một mái nhà. Như vậy quy định này nhằm đảm bảo cho con nuôi được sống trong môi trường gia đình với những người thân thuộc dù người nhận nuôi là cha dượng, mẹ kế không có đủ điều kiện về khoảng cách tuổi.
Về quy định không phải đáp ứng điều kiện sức khỏe, kinh tế,  chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi là để tạo điều kiện cho trẻ được sống cùng cha đẻ hoặc mẹ đẻ, đảm bảo được quyền lợi cho trẻ cũng như sự thích nghi môi trường mới thuận lợi hơn. Điều đó phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của dân tộc, vừa phù hợp với các văn bản pháp lý quốc tế về nuôi con nuôi.
2.1.   Phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Theo Điều 17 Bộ luật dân sự 2005 thì “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”. Đây là  một quy định rất cần thiết cho việc bao đảm cho người con nuôi được chăm sóc, được dạy dỗ, nuôi dưỡng, được hưởng cuộc sống trọn vẹn. Do đó người nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng đủ hai điều kiện: từ đủ 18 tuổi trở lên; không phải là người bị mất năng lực hành vi dân sự (bị mắc các bệnh không thể nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình, bị tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự) và không phải là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (người nghiện các chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, bị tòa án quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự)…Nếu người nhận nuôi con nuôi bị mất năng lực hành vi dân sự, họ sẽ không nhận thực được hành vi của mình là đúng hay sai, thế nào là nên hay không nên. Họ sẽ không nhận thức được trách nhiệm làm cha, làm mẹ của mình, không thể bày tỏ ý chí của mình trong việc nhận nuôi con nuôi và cũng không thể đảm bảo cho người con nuôi có được cuộc sống bình thường và vì thế mục đích của việc nhận nuôi con nuôi cũng không đạt được. 
2.2 Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên
Việc quy định sự chênh lệch độ tuổi giữa người nuôi con và con nuôi sẽ đảm bảo cách ứng xử trong gia đình hợp với lẽ sống, truyền thống văn hoá và đặc biệt là để cho việc chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục  con nuôi đạt hiệu quả. Đồng thời quy định này cũng nhằm tránh những trường hợp người nhận nuôi con nuôi lạm dụng tình dục đối với con nuôi.
2.3 Có điều kiện về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi
Người con nuôi chỉ được chăm sóc, giáo dục tốt khi người nuôi có sức khoẻ tốt, có đủ thời gian, điều kiện để quan tâm chăm sóc người con nuôi về mọi mặt và có khả năng về kinh tế. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để đảm bảo cho người con nuôi nhất là người con chưa thành niên, chúng phải được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt, được sống trong một môi trường lành mạnh, thuận lợi cho việc phát triển về thể chất và trí tuệ  và đạo đức.
2.4  Có tư cách đạo đức tốt
Để đảm bảo mục đích nuôi con nuôi không chỉ là điều kiện về vật chất mà còn điều kiện về tinh thần cũng rất quan trọng. Trong gia đình cha, mẹ luôn là tấm gương sáng cho con học tập và noi theo. Sự dạy dỗ, giáo dục con cái của cha mẹ là rất quan trọng, chính cha mẹ là người hình thành nên cho con một nhân cách tốt, một nối sống tốt để góp phần xây dựng phần nào đó cho xã hội. Theo  khoản 1 Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đẻ cũng như quyền và nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng tại Điều 79 của Luật này.
“Thương yêu con, tôn trọng ý của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.”
Để đảm bảo cho người con được nuôi dậy tốt, cha mẹ phải sống mẫu mực, tôn trọng giá trị đạo đức. Đây là yếu tố cần thiết để đảm bảo cho người con nuôi được sống trong môi trường lành mạnh để việc nuôi con nuôi đạt được mục đích và ý nghĩa của nó.
Những người thuộc  tại Khoản 2 Điều 14  Luật nuôi con nuôi năm 2010 sẽ không được nhận con nuôi. Quy định này trước là nhằm đảm bảo cho người con nuôi được sống trong   môi trường gia đình lành mạnh, đồng thời cũng tránh những ảnh hưởng không tốt của cha, mẹ đối với con nuôi, ngăn chặn những khả năng sấu có thể xảy ra đối với người con nuôi do sự lệ thuộc của người con nuôi vào cha, mẹ nuôi.
 3.  Điều kiện về sự tự nguyện trong việc nuôi con nuôi.
Trong trường hợp này trẻ còn bố, mẹ đẻ thì việc cho nhận con nuôi chỉ hợp pháp khi cha mẹ đẻ của trẻ thể hiện sự đồng ý của họ (khoản 1 Điều 21). Rõ ràng việc nhận con nuôi được quy định rất rõ ràng, chặt chẽ trong Luật nuôi con nuôi 2010. Ngoài những điều kiện quy định cụ thể áp dụng cho cả bố dượng, mẹ kế cũng như con riêng của 1 bên vợ, chồng, việc nuôi con nuôi buộc phải bao gồm cả sự biết đến của bên thứ ba là bố đẻ hay mẹ đẻ còn lại, điều này tăng tính công khai cho việc nhận nuôi con nuôi.
Khoản 3 Điều 21 Luật nuôi con nuôi quy định: “Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác”. Sự tự nguyện ở đây là rất cần thiết, đáp ứng được mục đích cho nhận con nuôi, là yếu tố quyết định việc xác lập quan hệ cha mẹ và con được tốt đẹp. Luật nuôi con nuôi còn quy định: “Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày” (khoản 4 Điều 21).
4.    Thủ tục nhận nuôi con nuôi.
4.1.   Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi.
Theo quy định tại Điều 9 Luật nuôi con và Điều 2 Nghị định 19/2011/NĐ-CP cũng đã có hướng dẫn chi tiết về thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi đối với từng trường hợp cụ thể. Trường hơp “cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi … thì Ủy ban nhân dân cấp xã thường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.” (khoản 1 Điều 2 Nghị định 19/2011/NĐ-CP).
4.2.   Trình tự đăng ký nuôi con nuôi.
Về hồ sơ đăng ký:
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 19/2011/NĐ-CP có quy định: “Hồ sơ của người nhận con nuôi trong nước được lập thành 01 bộ, gồm các giấy tờ quy định tại Điều 17 của Luật Nuôi con nuôi”.
Điều 17. Hồ sơ của người nhận con nuôi
Hồ sơ của người nhận con nuôi gồm có:
1. Đơn xin nhận con nuôi;
2. Bản sao Hộ chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế;
3. Phiếu lý lịch tư pháp;
4. Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân;
5. Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này.
.
Về trình tự, thời hạn đăng ký, theo quy định tại Điều 22 Luật nuôi con nuôi, thời hạn của việc giải quyết việc nuôi con nuôi trong nước tổng cộng là 30 ngày, kể từ ngày UBND xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lấy được đầy đủ ý kiến của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ, ý kiến của trẻ em (trong trường hợp đủ 9 tuổi trở lên). UBND xã sau khi kiểm tra hồ sơ nếu thấy hợp lệ thì sẽ trao giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên.
III.   Điều kiện nuôi con nuôi giữa cha dượng hoặc mẹ kế với con riêng của một bên vợ, chồng có yếu tố nước ngoài.
Do việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phức tạp, chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật: Luật Việt Nam, Luật nước ngoài, các văn bản hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi mà hai bên tham gia ký kết. Điều 28 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định về các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong đó, khoản 2 Điều này có quy định về trường hợp của cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi như sau:
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
 Quy định này nhằm tạo điều kiện cho những người muốn trở thành cha mẹ nuôi nhưng không định cư tại một trong các quốc gia đã kí điều ước quốc tế với Việt Nam. Trong đó, đặc biệt ưu tiên với những người đã có quan hệ với người được nhận nuôi từ trước đó hoặc vì mục đích nhân đạo với những yêu cầu đơn giản hơn. Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người được nhận nuôi cũng như người nhận con nuôi, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người được nhận làm con nuôi.
1.    Điều kiện về cha mẹ nuôi.
 Theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì họ phải đáp ứng các điều kiện sau :
Điều 29. Điều kiện đối với người nhận con nuôi
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này.
2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật này và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú.
Vậy ở trường hợp nhận con nuôi đích danh sẽ phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này
2.     Điều kiện về trẻ được nhận nuôi
Do trẻ em được nhận  là trẻ em Việt Nam nên điều kiện về trẻ được nhận làm con nuôi cũng được quy định tại Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 như đã phân tích ở trên.
IV.   Hoàn thiện pháp luật hiện hành về điều kiện nuôi con nuôi giữa cha dượng hoặc mẹ kế với con riêng của một bên vợ, chồng.
1.    Những hạn chế còn tồn tại trong thực tế và các quy định của pháp luật.
-         Việc thi hành pháp luật ở nhiều địa phương  chưa tốt và thống nhất, còn có địa phương vận dụng cứng nhắc các văn bản hướng dẫn về thủ tục, từ đó gây khó khăn, phiền hà cho các đương sự, có địa phương lại rất dễ dãi về thủ tục nhận con nuôi.
-       Vẫn còn nhiều trường hợp nuôi con nuôi trên thực tế nhưng không đăng ký theo quy định của pháp luật về cho, nhận nuôi con nuôi mà chỉ có dự thỏa thuận của hai bên; còn tồn tại nhiều hình thức nuôi con nuôi có tính chất “dân gian” trong  nhân dân, làm giảm đi ý nghĩa giá trị của việc nuôi con nuôi đích thực, ảnh hưởng tới quyền lợi của con nuôi, bố mẹ nuôi.
-             Điều kiện của người nhận con nuôi theo Luật nuôi con nuôi chưa mở rộng đến việc cấm những người nhận con nuôi có nguy cơ gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của trẻ, chưa quy định rõ những người mắc các bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao sang người khác như: HIV/AIDS… có được nhận nuôi con nuôi không?
-             Người nhận con nuôi có tư cách đạo đức tốt. Đây là một quy định đúng đắn nhưng không rõ ràng. Không có cơ sở để kiểm tra, xác định như thế nào là có tư cách đạo đức tốt. Do vậy sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật và không có tính khả thi.
-             Về thời gian thử thách trong việc xác lập nuôi con nuôi. Trên thực tế có nhiều người nhận trẻ em làm con nuôi không vì lợi ích của trẻ mà để trục lợi sức lao động, trẻ bị đánh đập dã man hoặc thậm chí là bị xâm phạm tình dục.
2.    Giải pháp hoàn thiện.
-             .Cần mở rộng công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cho những người dân ở các địa phương dân tộc miền núi. Nâng cáo chất lượng công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch để nâng cao ý thức của người dân.
-             Nâng cao biên chế, năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của án bộ tại các địa phương nhằm  bồi dưỡng khả năng, trình độ của các cán bộ để tránh sự vận dụng cứng nhắc và lỏng lẻo những quy định của pháp luật.
-             Cần quy định cụ thể về các điều kiện thực tế của người nhận nuôi con nuôi là gì để có cơ sở thống nhất khi xem xét công nhận việc nuôi con nuôi, cần quy định rõ những người mắc các bệnh hiểm nghèo có nguy cơ lây nhiễm cho người khác… có được nhận nuôi con nuôi hay không? Pháp luật nên quy định những người như vậy không được nhận nuôi con nuôi để đảm bảo sức khỏe của trẻ em, vì trẻ em không có khả năng tự bảo vệ mình.
V. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi:
Về mặt xã hội:Nuôi con nuôi thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, tinh thần tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người. Việc nhận  nuôi con nuôi phản ánh phong tục, tập quán, những giá trị nhân văn truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Đối với Nhà nước: Việc nhận nuôi con nuôi  làm giảm gánh nặng của nhà nước trước tình trạng trẻ em không nơi lương tựa, không nguồn nuôi dưỡng, phải lang thang kiếm sống, hạn chế khả năng trẻ em đi vào con đường xấu dẫn tới những hành vi vi phạm pháp luật hay mắc phải những tệ nạn xã hội do thiếu sự quan tâm, giáo dục.
Về mặt pháp lí: Nhận nuôi con nuôi là một quyền tự do về nhân thân của các cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ.Nuôi con nuôi không chỉ là biện pháp tốt nhất, phù hợp và còn có lợi ích với trẻ em mà còn là  cách thực hiện hợp pháp quyền làm cha mẹ của cá nhân.

KẾT LUẬN
Nuôi con nuôi là một vấn đề đã tồn tại ở nước ta  từ rất lâu và nay đã được pháp luật công nhận, đây là một vấn đề mang tính nhân đạo, thể hiện tình yêu thương, tinh thần trách nhiệm cao và cả mối quan hệ tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau nhất với  trẻ em. Cha dượng, mẹ kế nhận con riêng làm con nuôi giúp trẻ sống với gia đình gốc của mình, dễ dàng hòa nhập vào cuộc sống mới nhanh chóng hơn..
  
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.           Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam Nxb CAND, Hà Nội - 2014
2.           Bộ luật của Quốc hội số 33/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về dân sự.
3.Luật của Quốc hội số 52/2010/QH12 ngày 17/6/2010 về Nuôi con nuôi.
4.Nghị định của Chính phủ số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.
3.           TS. Nguyễn Thị Lan (2011), Về việc nuôi con nuôi giữa bố dượng hoặc mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng theo Luật nuôi con nuôi, Tạp chí Luật học Số 8/2011, Trường ĐH Luật Hà Nội, Tr 44-48.
4.           Nguyễn Thúy Hằng (2014), Điều kiện nuôi con nuôi – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
5.           Đỗ Thị Liên (2012), Điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội.
6.           Nguyễn Thanh Huyền (2012), Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
8.           http://dantri.com.vn/kieu-bao/giai-quyet-nuoi-con-nuoi-nuoc-ngoai-can-tim-duoc-tieng-noi-chung-866251.htm.


Related Post

Previous
Next Post »