MỞ BÀI
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt,
giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và sự ổn định đời
sống của người dân. Trong quá trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng và phát triển kinh tế - xã hội là một quá trình tất yếu, tác động rất
lớn đến người bị thu hồi đất. Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, Nhà nước
ta đã ban hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho người bị
thu hồi đất, từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn
cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất. Để hiểu thêm về vấn
đề này em xin chọn đề tài số 9: “ Phân
tích các nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất?
Nêu ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc này” làm bài tập học kỳ của
mình.
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT.
1.
Khái niệm bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong trường hợp
cần thiết, Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi
ích công cộng và các mục đích phát triển kinh tế thì người bị thu hồi đất được
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
-
Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền
sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của
người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai ( khoản 11 Điều 3 Luật Đất Đai
2013)
-
Bồi thường về đất là
việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi
cho người sử dụng đất ( khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai 2013)
-
Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho
người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển ( khoản 14 Điều
3 Luật Đất đai 2013)
-
Tái định cư là việc bố trí chỗ ở mới, ổn định cho người bị
thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở. Theo quy định của pháp luật thì khu tái định
cư phải được xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, đảm bảo đủ điều kiện hoặc tốt hơn
nơi ở cũ.
2.Cơ sở pháp lý của việc quy định
về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người
bị thu hồi đất, khắc phục bất cập và điều tiết sự hài lòa giữa lợi ích Nhà nước,
người sử dụng đất và nhà đầu tư. Việc quy định các nguyên tắc một cách hợp lý
và tuân theo sẽ giúp cho công tác giải quyết các vấn đề về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư diễn ra một cách nhanh chóng và đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của
người dân. Luật Đất đai năm 2013 tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định phù
hợp đã và đang đi vào thực tiễn của pháp Luật đất đai năm 2003 đồng thời đã sửa
đổi, bổ sung một số quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật Đất
đai 2003. Về nguyên tắc khi bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trong Luật Đất đai 2013 quy định ở Điều 74, Điều 83, Điều 88 và hướng dẫn thực hiện tại Nghị định
47/2014/NĐ-CP.
II. NỘI
DUNG NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1. Nguyên tắc bồi thường
Các chế định bồi thường về đất, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2003 trên
thực tế đã không thể thể chế, truyền tải hết các quy định mang tính nguyên tắc
để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương, các bộ, ngành.
Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về
đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh
khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt ( Điều 74 và Điều 88). Trong
đó, quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường
thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các bộ,
ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện. Nội
dung cụ thể nguyên tắc bồi thường như sau:
·
“ Điều 74.
Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu
có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi
thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc
giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi
thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi
do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
3. Việc
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng,
công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.”
Nguyên tắc trên thể hiện khi nhà
nước lấy đi phần lợi ích của người dân mà có đầy đủ điều kiện được bồi thường
thì Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại.
Thứ nhất, người sử dụng đất ( 6 đối tượng quy định tại Điều 75) nếu có
đủ các điều kiện quy định như Luật định sẽ được Nhà nước bồi thường theo thiệt
hại thực tế họ mắc phải khi gặp phải chính sách thu hồi đất của Nhà nước. Đều
đó thể hiện sự bình đẳng của nhà nước đối với người sử dụng đất, họ được đối xử
như nhau trên pháp luật.
Thứ hai, việc bồi thường sẽ ưu tiên bồi thường băng đất rồi sau đó đến
trả tiền ( trừ một số trường hợp khác muốn lấy tiền hay
buộc lấy đất). Khi Nhà nước lấy đất thì
bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không có đất cùng loại thì được bồi thường bằng
tiền với giá trị tương đương. Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm coi đất
đai là tài sản có thể được trả thay bằng tiền bồi thường để mua được một thửa đất
tương đương. Quy định này cũng nhằm ngăn ngừa tình trạng người bị thu hồi đất
đòi bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ việc chuyển mục đích
sử dụng đất hoặc do sự đầu tư của Nhà nước mang lại.
Thứ ba, việc bồi thường phải dân chủ, khách quan, tức là phảm đảm bảo
khi người dân bị thu hồi đất mà có đủ các điều kiện thì phải được bồi thường một
cách nhanh chóng, hợp lý, công khai, công bằng như những người khác và phải
tuân thủ theo quy định của pháp luật.
·
“ Điều 88. Nguyên tắc
bồi thường thiệt hại về tài sản sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất
1.
Khi Nhà nước thu hồi đất mà
chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi
thường.
2.
Khi Nhà nước thu hồi đất mà
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được
bồi thường thiệt hại.”
Đây là một điểm mới của Luật đất đai 2013 khi đã bắt đầu
xem xét bồi thường về đất không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên
và tư liệu sản xuất. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa tài sản, đất đai còn là tài
nguyên thiên nhiên, là nguồn sống của
con người; do đó khi thu hồi đất ngoài
việc bồi thường giá trị của đất còn phải bồi thường thiệt hại về tài sản sản xuất, kinh doanh cho
người dân là phù hợp.
Nếu chỉ hỗ trợ một khoản trong một thời gian nhất định
thì coi như đã phó mặc việc tìm kiếm kế sinh mới cho người mất đất. Do
đó, thay vì phó mặc gánh nặng hỗ trợ đào tạo nghề đối với người mất đất cho Nhà
nước, nhà đầu tư cần phải được yêu cầu cùng bàn bạc với người mất đất về cơ hội
tìm sinh kế mới cho họ; đồng thời, nhà đầu tư phải chi trả cho người mất đất một
khoản tiền tương ứng với mức thu từ sử dụng đất trước đây cho tới khi người bị
mất đất có nguồn thu nhập mới và theo nguyên tắc, càng để lâu, chi phí bồi thường
càng lớn để bắt buộc nhà đầu tư không thể trì hoãn.
2.
Nguyên tắc hỗ trợ, tái định
cư
Là một điểm mới của Luật Đất Đai 2013, Nhà nước đã quy
định một cách rõ ràng các nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: cụ thể
Khoản 1 Điều 83 Luật Đất đai 2013 quy định;
“ 1. Nguyên tắc
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
a, Người sử dụng
đất khi Nhà nước thu hồi đất ngời việc được bồi thường theo quy định của Luật
này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;
b, Việc hỗ trợ
phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của
pháp luật.”
Thứ nhất, Cũng giống như ở bồi thường, khi
Nhà nước thu hồi đất của người dân ngoài việc phải bồi thường lại phần của họ bị
mất còn phải hỗ trợ cho người dân để họ sớm khắc phục tình hình, nhanh chóng ổn
định đời sống. Nguyên tắc này hoàn toàn
phù hợp và sự quan tâm của Nhà nước với người dân bị mất đất. Tại khoản 2 Điều
83 Luật này cũng quy định các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như: hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp
của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp
kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi
đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di
chuyển chỗ ở; và các hỗ trợ khác
Thứ hai, một trong các hình thức hỗ trợ là
hỗ trợ về chỗ ở, tái định cư. Nhằm khắc phục tình trạng một số khu vực
tái định cư chất lượng còn thấp, không đồng bộ về cơ sở hạ tầng, chưa đảm bảo
tiêu chí có điều kiện phát triển bằng hoặc tố hơn nơi ở cũ. Nhiều địa phương
chưa lập khu tái định cư chung cho các dự án tại địa bàn nên nhiều dự án chưa
có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có những dự án mà người
có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn chưa được bồ trí vào
khu tái định cư, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về lập và thực hiện dự án
tái định cư, bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ
ở .
Thứ ba, Tính dân
chủ, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật. Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường
cũng như hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất đều đề cập tới tính bảo đảm khách
quan, công bằng, kịp thời, công khai minh bạch, dân chủ, đúng pháp luật. Đây là
một đòi hỏi khách quan trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật về bồi
thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, vừa là cơ chế để kiểm soát
hoạt động này. Bởi tất cả nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục…bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đều do pháp luật quy định.
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò
rất quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội và sự ổn định đời ống của người
dân. Trong quá trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
phát triển kinh tế - xã hội là một quá trình tất yếu, tác động rất lớn đến người
bị thu hồi đất. Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, Nhà nước ta đã ban
hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho người bị thu hồi đất,
từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho người có đất
bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất.
Việc quy định các nguyên tắc
bồi thường và hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất mang nhiều ý nghĩa to
lớn có thể kể đến là:
Quy định thêm, sữa đổi và bổ sung
thêm các quy định như trên sẽ giúp việc thực hiện quyền và lợi ích hợp
pháp cho người bị thu hồi đất sẽ được đảm bảo. Từ đó các cơ
quan có thẩm quyền của nhà nước có cơ chế pháp lý chặt chẽ, phù hợp để tổ chức
thực hiện việc thu hồi đất nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội cũng như lợi
ích công cộng, an ninh quốc phòng. Đồng thời hạn chế được tình trạng khiếu kiện,
khiếu nại đối với chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi bị thu hồi đất
như trong thời gian vừa qua.
Công khai, minh bạch và dân chủ
trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ giúp cho người dân được
tham gia trực tiếp bàn bạc, kiểm
soát những vấn đề liên quan đến
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình khi nhà nước thu hồi đất. Bởi mặc
dù ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tuy nhiên nhà nước đã giao quyền
chiếm hữu, sử dụng đất cho người dân. Việc nhà nước thu hồi đất sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến những lợi ích hợp pháp mà người sử dụng đất tạo ra trong quá trình sử dụng
đất, vì vậy họ cần phải được tham gia bàn bạc, đưa ra ý kiến, nguyện vọng thông
qua đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật đất đai khi
nhà nước thu hồi đất phù hợp với lợi ích chung của xã hội
Thông qua việc công khai, minh bạch,
dân chủ người dân không chỉ nắm được các quyền và nghĩa vụ của mình khi nhà nước
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng, phát triển kinh tế mà còn có điều kiện để bày tỏ những mong muốn,
nguyện vọng của mình tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan nhà nước
nắm được nguyện vọng của nhân dân để có thể xem xét, giải quyết kịp thời, không
để nảy sinh những mâu thuẫn trong quá trình giải phóng mặt bằng. Điều này sẽ tạo
tâm lí thoải mái, tạo lòng tin của người dân vào các quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, từ đó có thể hạn chế được những tranh chấp khiếu kiện kéo
dài.
IV. THỰC
TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI
ĐẤT KHI ÁP DỤNG TRONG THỰC TẾ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC CHẾ ĐỊNH NÀY.
1. Thực trạng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được
trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như : Việc tổ chức tái định cư cho các hộ dân
có đất bị thu hồi trong thời gian qua đã được các cấp, ngành quan tâm. Chỗ ở
tái định cư và đời sống của người dân cơ bản được đảm bảo, nâng mức bồi thường đất nông nghiệp, chú trọng
đào tạo nghề để chuyển đổi nghề nghiệp cho người nông dân.. Ngoài ra còn tồn tại
một số hạn chế, bất cập về vấn đề này như:
Việc triển
khai các dự án chủ yếu thu hồi vào đất nông nghiệp, đối tượng bị thu hồi đất
làm sản xuất nông nghiệp cũng chiếm đến 69%, tiếp đó là thu hồi vào đất ở tại
khu dân cư nông thôn. Việc thu hồi đất thực hiện các dự án nêu trên không chỉ ảnh
hưởng đến địa bàn sinh sống mà còn ảnh hưởng đến phương kế sinh nhai của các hộ,
đặc biệt là các hộ sản xuất nông nghiệp.Ở mỗi địa phương đều có những cách làm,
cách vận dụng khác nhau, vì thế mức độ hài lòng của người dân đối với chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng rất khác nhau, thể hiện qua việc đánh
giá về mức độ ổn định đời sống, mức độ đảm bảo đời sống của nguồn thu nhập sau
thu hồi đất. Long An là địa phương có tỷ lệ cao nhất về số hộ hài lòng với cuộc
sống sau thu hồi đất, tuy nhiên tỷ lệ này cũng chỉ đạt 50%.
Điều tra cho thấy, 100% các hộ dân
bị thu hồi đất đều không được tham gia đào tạo trực tiếp mà được Nhà nước trả bằng
tiền. Một số hộ đã đi học nghề, tuy nhiên chỉ có 17% lao động đã học nghề có thể
áp dụng ngành nghề đã đào tạo, còn đến 83% lao động đi học nghề trả lời không
áp dụng vào công việc ngành nghề đã đào tạo. Trong 1.445 hộ phỏng vấn, chỉ có
345 lao động của các hộ này tìm kiếm được công việc tại chính dự án đã thu hồi
đất, 313 lao động của các hộ tìm kiếm được công việc tại các dự án khác. Trong
khi đó khả năng thu hút lao động vào các khu công nghiệp còn thấp, chưa đến 35%
tổng số lao động đang làm việc, chưa kể một lượng lớn lao động không đáp ứng
yêu cầu về tay nghề (chỉ có 27,23% lao động bị thu hồi đất tốt nghiệp trung học
phổ thông và 14% lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp hoặc học
nghề). Tuy nhiên, phần lớn lao động tại khu vực nông thôn hiện nay đều rơi vào
độ tuổi đã khá cao, trên 35 tuổi, khó có thể học những nghề đòi hỏi nhiều chất
xám.
2. Phương hướng hoàn thiện các chế định.
Những nguyên tắc và quy định trên
cho thấy Luật thực định đã đặc biệt quan tâm tới sinh kế của người có đất thu hồi.
Tuy nhiên, một số quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong dự thảo
này cho thấy vẫn chưa giải quyết được triệt để những vướng mắc, bất cập, đáp ứng
được yêu cầu thực tế, do vậy để bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị thu hồi đất, em xin đề xuất một số nội dung làm cơ sở, phương hướng
hoàn thiện các nguyên tắc và nội dung của bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Một là, Luật đất đaicần
xem xét bồi thường về đất không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên
và tư liệu sản xuất nhiều hơn nữa. Như đã nêu trên, thực
tế ngoài ý nghĩa là tài sản, đất đai còn là tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản
xuất và là nguồn sống của con người. Do đó, thay vì chỉ bồi thương đất như một
loại tài sản, Nhà nước, nhà đầu tư cần phải được yêu cầu cùng bàn bạc với người
mất đất một khoản tiền tương ứng với mức thu từ sử dụng đất trước đây cho tới
khi người bị mất đất có nguồn thu nhập mới và theo nguyên tắc này, càng để lâu,
chi phí bồi thường càng lớn bắt buộc các nhà đầu tư không được trì hoãn. Chính
quyền địa phương cũng khó đánh đổi mọi giá cho sự phát triển, như vậy chắc chắn
sẽ giảm được tham nhũng từ đất đai và bảo vệ được nguồn lực đất đai.
Hai
là, cần đa dạng hóa hình thức bồi thường trên cơ sở nâng cao đồng thuận xã hội.
Hình thức bồi thường
theo pháp luật hiện hành thiếu sự đồng thuận của người dân đang dẫn đến khiếu
kiện về đất đai ngày càng nhiều. Theo đó, để tạo nguồn vốn phát triển cho địa
phương, tạo quan hệ đối tác dài hạn giữa nhà đầu tư và cộng đồng dân cư địa
phương, nước ta có thể áp dụng cơ chế “chia sẻ lợi ích”. Hình thức chia sẻ gồm:
giảm giá cung cấp điện, nước cho dân cư địa phương; chuyển một phần nguồn thu
ngân sách nhà nước cho chính quyền địa phương và chia sẻ nguồn thu cho những
người bị ảnh hưởng; chính quyền địa phương được bình đẳng với chủ đầu tư tham
gia vào các quyết định vận hành dự án; tạo điều kiện cho địa phương để phát triển
hạ tầng, đào tạo nghề, tạo việc làm mới trong khu vực phi nông nghiệp; địa
phương được thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp từ dự án; khôi phục và phát
triển đời sống của cư dân địa phương; đóng góp cho phát triển hạ tầng cho cộng
đồng địa phương…
Ba là, nâng cao sự đồng thuận của
người dân đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.Để phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư do cơ quan có thẩm quyền đưa ra phù hợp, nhận được sự đồng thuận của
người dân; bảo đảm việc hỗ trợ được khách quan, công bằng, kịp thời, công khai
và đúng quy định, cần bổ sung nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại
Điều 74 của dự thảo Luật như sau: “Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư được phê duyệt khi đạt được ít nhất 70% ý kiến đồng ý của những người tham
gia ý kiến từ cộng đồng ssdân cư địa phương”.
KẾT THÚC
Tóm lại, quy định các nguyên tắc để
giải quyết các vấn đề liên quan đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là một
trong những vấn đề quan trọng và cấp thiết hiện nay để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất và cá nhân, tổ chức có liên quan. Các nhà làm luật
đã cố gắng hoàn thiện hơn về vấn đề này tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn, hy vọng trong khoảng thời gian sớm nhất Nhà nước sẽ có những
chính sách giải quyết tốt, toàn vẹn và hợp lý hơn về vấn đề này.