DOWNLOAD ÁN LỆ 14 TẠI ĐÂY!
Án lệ số 14/2017/AL về công nhận điều
kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà điều kiện đó không được ghi
trong hợp đồng
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA
ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 02/2011/DS-GĐT ngày 17-01-2011 của
Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất” tại tỉnh Điện Biên giữa nguyên đơn là ông Quàng Văn P1 với
bị đơn là anh
Quàng Văn P2,
chị Phan Thị V.
Vị
trí nội dung án lệ:
Đoạn 10,
11 và 12 phần “Nhận định của Toà án”.
Khái
quát nội dung của án lệ:
-
Tình huống án lệ:
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không
ghi điều kiện tặng cho nhưng tại các văn bản, tài liệu khác có liên quan thể hiện
các bên đã có thỏa thuận, thống nhất về điều kiện tặng cho và điều kiện tặng
cho là hợp pháp.
-
Giải pháp pháp lý:
Trường
hợp này, Tòa án phải công nhận điều kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất và xác định hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất đó là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.
Quy định của pháp luật có liên
quan đến án lệ:
Điều
125, Điều 126 và Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với
Điều 120, Điều 121 và Điều 462 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”; “Giao dịch dân sự có điều kiện”;
“Tặng cho tài sản có điều kiện”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 27-12-2006, ngày 10-01-2007 và
trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Quàng Văn P1 và chị Quàng Thị N trình bày:
Năm 2003, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên
cấp cho ông 72m2 đất mặt đường quốc lộ 279 (theo Quyết định số 1487 ngày 25-9-2003). Ngày 24-12-2003, ông lập thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Quàng Văn P2 (là con trai của
ông) và chị Phan Thị V
(là con dâu của ông) diện tích đất nêu trên. Ngày 06-12-2003, ông lại lập hợp đồng
chuyển quyền sở hữu đất nhà ở cho anh Quàng
Văn P2,
chị Phan Thị V
diện tích đất nêu trên, có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên.
Năm 2005, giữa ông và chị Quàng Thị N (là con gái của ông) có tranh chấp diện tích đất này nên tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 08/DSPT ngày 24-8-2005, Tòa
án nhân dân tỉnh Điện Biên đã buộc chị Quàng Thị N phải trả cho ông diện tích đất
nêu trên.
Ngày 12-6-2006, Ủy ban nhân dân thành
phố P, tỉnh Điện Biên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông.
Ngày 27-10-2006, ông làm hợp đồng tặng
cho anh Quàng Văn P2 (là con trai của ông) với điều kiện anh Quàng Văn P2 phải
xây nhà cho ông ở.
Khi ông hoàn tất thủ tục sang tên
theo hợp đồng tặng cho, anh Quàng Văn P2 đã không thực hiện việc xây nhà như đã
hứa mà còn yêu cầu ông ra thị trấn M, huyện G ở nên yêu cầu hủy hợp đồng tặng
cho đất vì anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V không thực hiện điều kiện đã cam kết.
Bị đơn là anh
Quàng Văn P2 và chị Phan Thị V trình bày: Ông Quàng Văn P1 (là bố của anh) đã tặng
cho vợ chồng anh diện tích đất nêu trên từ khi ông Quàng Văn P1 còn minh mẫn, tỉnh
táo. Nay ông Quàng Văn P1 không còn minh mẫn thì chị Quàng Thị N (là chị gái của
anh) ép ông Quàng Văn P1 làm đơn hủy hợp đồng tặng cho. Việc
bố cho anh đất không có điều kiện và cam kết gì nên không chấp nhận theo yêu cầu
của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số
03/2007/DSST ngày 30-6-2007, Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện
Biên quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu của ông Quàng
Văn P1 về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 82 ngày
06-10-2006, giữa bên chuyển nhượng là ông Quàng Văn P1, bên nhận chuyển nhượng
anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết
định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
14/2007/DSPT ngày 28-8-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên quyết định: Sửa Bản
án sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 30-6-2007 của Tòa án nhân dân Thành phố Điện
Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Quàng
Văn P1. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 82 ngày 06-10-2006 giữa
người chuyển nhượng ông Quàng Văn P1 với người nhận chuyển nhượng anh Quàng Văn
P2 đối với mảnh đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 762/197 thửa đất
2A, tờ bản đồ 289 IV-D-d tổ dân phố 8, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên.
Kiến nghị với Phòng Tài nguyên và
Môi trường của thành phố P, tỉnh Điện Biên phải đính
chính khôi phục lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với người đứng tên sử
dụng đất ông Quàng Văn P1
số AÐ 762/197 thửa đất 2A, tờ bản đồ 289 IV-D-d tổ dân phố 8, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên.
Kiến nghị với Phòng
Tài nguyên và Môi trường thành
phố P, tỉnh Điện Biên
thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với người đứng tên trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với anh Quàng Văn P2 số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H 06445/QSDĐ. Quyết định cấp sổ:
822/2006/QĐ-UBND ngày 27-10-2006 đối với thửa đất
số 2A tờ bản đồ số 289-IV-D-d tại tổ dân phố 8, phường T, thành
phố P,
tỉnh Điện Biên.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau khi xét xử phúc thẩm, anh
Quàng Văn P2 có đơn khiếu nại đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm
đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 579/2010/KN-DS ngày 26-8-2010, Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản
án dân sự phúc thẩm số 14/2007/DSPT ngày 28-8-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên, đề nghị Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm
huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ Bản
án dân sự sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 30-6-2007 của Tòa án nhân dân Thành
phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì nguồn gốc 72m2 đất thửa 2A, tờ bản đồ 289 IV-D-d
tổ dân phố 8, phường T,
thành phố P,
tỉnh Điện Biên là của ông Quàng Văn P1 được
chính quуền
địa phương cấp để làm nhà ở theo giấy cấp đất số 1487 ngày 25-9-2003.
Ngày 06-12-2003, ông Quàng Văn P1 lập giấy chuyển quyền sở hữu
lô đất cho vợ chồng anh Quàng Văn P2, có chữ ký của ông Quàng Văn P1, vợ chồng
anh Quàng Văn P2, nhân chứng là Bí thư Chi bộ, Khối trưởng và xác nhận của Ủy ban nhân dân phường.
Ngày 24-12-2003, ông Quàng Văn P1 lại có "Đơn xin chuyển
quyền sử dụng đất” vẫn có nội dung chuyển quyền sử dụng diện tích đất cho vợ chồng
anh Quàng Văn P2, có chữ ký của ông Quàng Văn P1 và xác nhận của trưởng phố.
Tuy nhiên, diện tích đất trên giữa ông Quàng Văn P1 với chị
Quàng Thị N đang có tranh chấp. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 08/DSPT ngày 24-8-2005, Tòa án nhân
dân tỉnh Điện Biên mới buộc chị Quàng Thị N trả diện tích đất cho ông Quàng Văn
P1 và tại “Biên bản giải quyết việc thi hành án" ngày 22-3-2006 thì chị Quàng Thị N mới trả
đất cho ông Quàng Văn P1.
Như vậy có cơ sở để xác định tuy từ năm 2003 ông Quàng Văn P1
lập giấy cho vợ chồng anh Quàng Văn P2, nhưng ở tại thời điểm này chị Quàng Thị
N vẫn là người quản lý và sử dụng đất; đến ngày 24-8-2005 ông Quàng Văn P1 mới
được xác định là người có quyền sử dụng hợp pháp diện tích đất trên (theo quyết
định có hiệu lực của Tòa án) và đến ngày 22-3-2006 ông Quàng Văn P1 mới thực tế
nhận đất. Do đó, việc ông Quàng Văn P1 làm giấy tặng cho anh Quàng Văn P2 trước
đó là không có giá trị pháp lý, hơn nữa vợ chồng anh Quàng Văn P2 cũng chưa làm được thủ tục sang
tên, chưa nhận đất.
Sau khi nhận đất, ngày 25-3-2006 ông
Quàng Văn P1 mới ủy quyền cho anh Quàng Văn P2 xin giấy phép xây dựng, giải
phóng mặt bằng, xây nhà cho ông Quàng Văn P1 ở và chăm sóc cụ K (cha của ông Quàng Văn P1). Ngày 12-6-2006 ông Quàng Văn
P1 mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày
03-6-2006, tại thành phố Hà Nội ông Quàng Văn P1 lại ủy quyền cho anh Nguyễn Viết H làm thủ tục để ông
Quàng Văn P1 tặng cho vợ chồng anh Quàng Văn P2 diện tích đất nêu trên.
Tại Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 82/HĐ-UBND (không ghi ngày tháng) tại Ủy ban nhân
dân phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên
thể hiện ông Quàng Văn P1 cho anh Quàng Văn P2 diện tích đất trên. Hợp đồng
trên có chữ ký đề tên ông Quàng Văn P1, anh Quàng Văn P2, người được ủy quyền
là anh Nguyễn Viết H. Nhưng Ủy ban nhân dân phường lại có xác nhận vào hồi 8h
ngày 06-10-2006. Trên cơ
sở hợp đồng trên anh Quàng Văn P2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong
thực tế từ ngày 17-02-2003, ông Quàng Văn P1 bị bệnh phải điều trị tại thành
phố Hà Nội (tai biến mạch máu não, liệt nửa người bên
trái, liệt thần kinh trung ương...).
Như vậy, trong năm 2006 ông Quàng Văn P1
đã ký nhiều văn bản để định đoạt 72m2 đất
mà ngày 12-6-2006 ông được cấp giấy chứng nhận. Tuy nhiên, ông Quàng Văn P1
đang ở thành phố Hà Nội đang bị liệt thần kinh trung ương, liệt nửa người và
ông Quàng Văn P1 cũng chưa hề sử dụng đất.
Lẽ ra, phải làm rõ, xác định ý chí của ông Quàng Văn P1 về việc
định đoạt 72 m2
đất này, xem xét đánh giá ông Quàng Văn P1 có ý chí cho anh Quàng Văn P2 hay
ông Quàng Văn P1 chỉ giao cho anh Quàng Văn P2 xây cất nhà để ở. Đồng thời làm
rõ ông Quàng Văn P1 ký hợp đồng khi nào? ở đâu? giá trị pháp lý của hợp đồng
này, lý do ông Quàng Văn P1 ký hợp đồng nay lại xin hủy hợp đồng. Nếu ông Quàng
Văn P1 chỉ giao
cho anh Quàng Văn P2 xây cất nhà để ông ở và ông Quàng Văn P1 có nhu cầu sử dụng
đất thì phải hủy hợp đồng trên, công nhận ông Quàng Văn P1 có quyền sử dụng đất, nhưng
ông Quàng Văn P1 phải thanh toán các chi phí hợp lý trong việc làm thủ tục sang
tên đất nếu anh Quàng Văn P2 có yêu cầu.
Trong trường hợp ông Quàng Văn P1 không
có nhu cầu sử dụng và thể hiện ý chí đã cho anh Quàng Văn P2 thì phải bác yêu cầu
của ông Quàng Văn P1.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
chưa xác minh làm rõ các vấn đề nêu trên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào
các văn bản do ông Quàng Văn P1 ký và việc anh Quàng Văn P2 được công nhận có
quyền sử dụng đất để bác yêu cầu của ông Quàng Văn P1, còn Tòa án cấp phúc thẩm
cho rằng ông Quàng Văn P1 bị bệnh không nhận thức được hành vi khi ký kết các
văn bản và thủ tục tặng cho không tuân thủ các quy định của pháp luật, từ đó, hủy
hợp đồng chuyển nhượng, công nhận ông Quàng Văn P1 có quyền sử dụng đất đều
chưa đủ căn cứ.
Ngoài ra, Ủy ban nhân dân mới là cơ quan
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm
lại kiến nghị Phòng Tài nguyên và Môi trường thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của anh Quàng Văn P2 là không chính xác.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao là cần thiết vì năm 2003 ông Quàng Văn P1 có lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Quàng Văn P2 và năm 2006 lập giấy ủy
quyền tặng cho đất cho vợ chồng anh Quàng Văn P2, tuy giấy tờ ghi chuyển nhượng
quyền sử dụng, nhưng đều thể hiện nội dung là ông Quàng Văn P1 tặng cho vợ chồng
anh Quàng Văn P2. Vì vậy, cần làm rõ việc tặng cho của ông Quàng Văn P1 có điều
kiện hay không để giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Khi
khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Quàng Văn P1 cho rằng ngày 25-9-2003 Ủy ban nhân
dân tỉnh Điện Biên cấp cho ông 72m2 đất tại thửa 2A, tờ bản đồ 289 IV-D-d tổ dân phố 8, phường T, thành phố P, tỉnh Điện Biên theo
Quyết định số 1487.
[2] Ngày
06-12-2003, ông Quàng Văn P1 lập giấy chuyển quyền sở hữu lô đất cho vợ chồng anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V có Bí thư Chi bộ, Khối
trưởng chứng kiến và có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường T.
[3] Ngày
24-12-2003, ông Quàng Văn P1 lại có “Đơn xin chuyển quyền sử dụng đất” chuyển
quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V, có xác nhận của
trưởng phố.
[4] Tuy
nhiên, diện tích đất nêu trên chị Quàng Thị N (là con gái của ông Quàng Văn P1)
đang quản lý, sử dụng. Năm 2005 ông Quàng Văn P1 đã khởi kiện yêu cầu chị Quàng
Thị N phải trả cho ông diện tích đất nêu trên. Tại Bản án dân sự phúc thẩm
số 08/DSPT ngày 24-8-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã buộc chị Quàng Thị
N trả lại đất cho ông Quàng Văn P1.
[5] Ngày
12-6-2006, Ủy ban nhân dân thành phố P, tỉnh Điện Biên đã cấp giấy chứng nhận cho ông Quàng Văn P1
được quyền sử dụng 72m2 đất nêu trên.
[6] Ngày
15-9-2006, ông Quàng Văn P1 có đơn xin xác nhận việc ông ủy quyền cho anh Quàng
Văn P2, chị Phan Thị V được toàn quyền “Sở hữu và sử dụng đất”.
[7] Ngày 03-10-2006,
ông Quàng Văn P1 lập hợp đồng ủy quyền cho anh Nguyễn Viết H
làm thủ tục tặng cho anh Quàng Văn P2 diện tích đất nêu trên, có chứng thực của
Phòng Công chứng Nhà nước số 3, thành phố Hà Nội.
[8] Ngày
06-10-2006, ông Quàng Văn P1 lại lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V, mục giá trị chuyển nhượng ghi “Bố cho
con”; Ủy ban nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ đã xác nhận số
82/HĐ-UBND cùng ngày nên hợp đồng này thể hiện hợp pháp hóa việc ông Quàng Văn
P1 tặng cho anh Quàng Văn P2, chị Phan Thị V quyền sử dụng đất.
[9] Ngày
27-10-2006, Ủy ban nhân dân thành phố P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Quàng Văn P2,
chị Phan Thị V.
[10] Như
vậy, nếu có căn cứ xác định cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại địa phương cấp đất cho ông Quàng Văn P1 từ năm 2003
(vì Tòa án các cấp chưa thu thập quyết định cấp đất năm 2003), thì ông Quàng
Văn P1 có quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất nêu trên từ năm 2003 nên
ông Quàng Văn P1 có quyền định đoạt tài sản của mình.
[11] Tuy
nhiên, ông Quàng Văn P1 cho rằng việc ông tặng cho vợ chồng anh Quàng Văn P2 là
có điều kiện, đó là vợ chồng anh Quàng Văn P2 phải làm nhà cho ông ở, chăm sóc
ông và bố, mẹ của ông, nhưng vợ chồng anh Quàng Văn P2 không thực hiện cam kết.
Tuy anh Quàng Văn P2 không thừa nhận việc ông Quàng Văn P1 tặng cho có điều kiện,
nhưng tại giấy ủy quyền ngày 25-3-2006, thể hiện ông Quàng Văn P1 ủy quyền cho
anh Quàng Văn P2 xin giấy phép xây dựng... có trách nhiệm xây nhà trên lô đất
379B để ông Quàng Văn P1 ở, có trách nhiệm chăm sóc vợ chồng cụ K (là bố, mẹ của
ông Quàng Văn P1). Tại bản Cam kết ngày 12-10-2006, anh Quàng Văn P2 có ghi
“... Tôi được bố cho mảnh đất...tôi làm cam kết này với chính quyền địa phương
sẽ tiến hành xây dựng nhà ở cho bố tôi và không được chuyển nhượng cho ai”.
[12] Mặc
dù hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không ghi điều kiện nhưng tại các văn bản
nêu trên có thể hiện anh Quàng Văn P2 phải làm nhà cho ông Quàng Văn P1 ở, chăm
sóc ông Quàng Văn P1 và bố mẹ của ông Quàng Văn P1.
[13] Do vậy, cần thu thập
xác minh anh Quàng Văn P2 có thực hiện đầy đủ các điều kiện trên hay không? Thời
gian ông Quàng Văn P1 đi điều trị tại bệnh viện thì ai là người chăm sóc ông
Quàng Văn P1? Hiện vợ chồng anh Quàng Văn P2 đang cư trú tại Hà Nội, thì điều
kiện chăm sóc vợ chồng cụ K (bố, mẹ ông Quàng Văn P1) như thế nào? Trên cơ sở xác định việc thực
hiện các điều kiện của vợ chồng anh Quàng Văn P2 để xác định hợp đồng tặng cho
giữa ông Quàng Văn P1 và vợ chồng anh Quàng Văn P2 đã hoàn thành hay chưa hoàn
thành để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[14] Mặt
khác, theo quy định tại Điều 44 Luật Đất đai, thì Phòng Tài nguyên và Môi trường không có thẩm quyền thu hồi đất nên Tòa án cấp phúc
thẩm kiến nghị Phòng Tài nguyên và Môi trường thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của anh Quàng Văn P2 là không đúng pháp luật.
[15]
Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao thấy cần hủy bản án
dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo quy
định của pháp luật.
[16]
Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ.
[17]
Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy
Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2007/DSPT ngày 28-8-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh
Điện Biên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2007/DSST ngày 30-6-2007 của Tòa
án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên về vụ án “Yêu cầu hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Quàng Văn P1 với
bị đơn là anh Quàng Văn P2 và chị Phan Thị V.
2. Giao
hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử
sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[10] Như vậy, nếu có căn cứ xác định cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền tại địa phương cấp đất cho ông Quàng Văn P1 từ năm 2003
(vì Tòa án các cấp chưa thu thập quyết định cấp đất năm 2003), thì ông Quàng
Văn P1 có quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất nêu trên từ năm 2003 nên
ông Quàng Văn P1 có quyền định đoạt tài sản của mình.
[11] Tuy
nhiên, ông Quàng Văn P1 cho rằng việc ông tặng cho vợ chồng anh Quàng Văn P2 là có điều kiện, đó là vợ chồng anh Quàng
Văn P2 phải làm nhà cho ông ở, chăm sóc ông và bố, mẹ của ông, nhưng vợ chồng
anh Quàng Văn P2 không thực hiện cam kết. Tuy anh Quàng Văn P2 không thừa nhận
việc ông Quàng Văn P1 tặng cho có điều kiện, nhưng tại giấy ủy quyền ngày
25-3-2006, thể hiện ông Quàng Văn P1 ủy quyền cho anh Quàng Văn P2 xin giấy
phép xây dựng... có trách nhiệm xây nhà trên lô đất 379B để ông Quàng Văn P1 ở,
có trách nhiệm chăm sóc vợ chồng cụ K (là bố, mẹ của ông Quàng Văn P1). Tại bản Cam kết ngày
12-10-2006, anh Quàng Văn P2 có ghi “... Tôi được bố cho mảnh đất...tôi làm cam
kết này với chính quyền địa phương sẽ tiến hành xây dựng nhà ở cho bố tôi và
không được chuyển nhượng cho ai.”
[12] Mặc dù hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không ghi
điều kiện nhưng tại các văn bản nêu trên có thể hiện anh Quàng Văn P2 phải làm
nhà cho ông Quàng Văn P1 ở, chăm sóc ông Quàng Văn P1 và bố mẹ của ông Quàng
Văn P1”.