Án lệ số 19/2018/AL về xác định
giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong tội “Tham ô tài sản”
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA
ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm
số 09/2015/HS-GĐT ngày 23-4-2015 của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ
án “Tham ô tài sản” đối với bị cáo: Võ Thị Ánh N, sinh năm 1981; trú tại số 17,
đường A, phường B, thành phố C, tỉnh Bình Định.
Ngoài ra, trong vụ án còn
có Phan Thị Q bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; Võ
Thị Kim T bị kết án về tội “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến
tài sản của Nhà nước”.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 3 phần “Nhận định của
Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
- Tình huống án lệ:
Bị cáo lợi dụng sơ hở
trong quản lý của ngân hàng, nhiều lần trực tiếp làm thủ tục rút và chi tiền tiết
kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do bị cáo quản lý nhưng thực tế không chi
trả cho bất kỳ ai mà bị cáo đã sử dụng số tiền này.
Quá trình điều tra bị cáo
đã khắc phục được một phần số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, bị cáo phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tham ô tài sản”.
Giá trị tài sản mà bị cáo
chiếm đoạt phải xác định là toàn bộ số tiền mà bị cáo đã làm thủ tục rút và chi
tiền tiết kiệm khống từ quỹ của chi nhánh ngân hàng (bao gồm cả số tiền bị cáo
đã khắc phục trong quá trình điều tra).
Quy định của pháp luật liên
quan đến án lệ:
Điểm b, p khoản 1, khoản
2 Điều 46; Điều 47; Điều 60; điểm c khoản 2 Điều 278 Bộ luật Hình sự năm 1999
(tương ứng với điểm b, s Điều 51; Điều 54; Điều 65, điểm c khoản 2 Điều 353 Bộ
luật Hình sự năm 2015);
Từ khóa của án lệ:
“Tội tham ô tài sản”;
“Giá trị tài sản chiếm đoạt”; “Khắc phục một phần hậu quả”, “Các tội xâm phạm sở hữu”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Phòng giao dịch D là đơn
vị trực thuộc Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố
C, được thành lập theo Quyết định số 1667/QĐ/NHNN-TCCB ngày 02-03-2007 của Tổng
Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, có nhiệm vụ
huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Thời gian từ tháng 5-2008
đến tháng 4-2010, Phòng giao dịch D là một quầy giao dịch làm việc chung văn
phòng với phòng kế toán Ngân quỹ của Ngân hàng nông nghiệp C. Phòng giao dịch D
có 02 nhân viên là:
- Phan Thị Q là kế toán
có nhiệm vụ giao dịch với khách hàng, lập các chứng từ thu, chi tiền, mở sổ
theo dõi nhật ký quỹ tiền mặt, hạch toán các khoản thu chi vào chương trình
giao dịch trên máy vi tính, in phát hành sổ tiết kiệm và lập thẻ lưu tiết kiệm.
- Võ Thị Kim T là thủ quỹ
có nhiệm vụ quản lý sổ tiết kiệm trắng chưa phát hành cho khách hàng; quản lý
việc thu, chi tiền mặt.
Còn Võ Thị Ánh N là giao
dịch viên của phòng Kế toán - Ngân quỹ Ngân hàng nông nghiệp C, có nhiệm vụ quản
lý các khoản chi trả chuyển tiền đến cho khách hàng vãng lai, chuyển tiền đi và
đến, các nghiệp vụ huy động vốn, hạch toán các khoản thu nợ, thu lãi bằng tiền
mặt.
Ngày 12-4-2010, Giám đốc
chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố C, phát hiện
sai phạm của giao dịch viên đang làm việc tại chi nhánh nên báo cáo lên Chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bình Định. Ngày 07-6-2010, Giám đốc Chi nhánh
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bình Định có Công văn số
486/NHNNBĐ-HCNS đề nghị Cơ quan điều tra làm rõ việc chi tiền tiết kiệm tại
Phòng giao dịch D cho 02 sổ tiết kiệm NA 222040 tên Đặng Thị Bích D và sổ tiết
kiệm NA 1297720 tên Ngô Thanh V, làm thiệt hại cho Ngân hàng với tổng số tiền
774.403.300 đồng. Quá trình điều tra xác định:
- Đối với Phan Thị Q và
Võ Thị Kim T đã trực tiếp chi tiền từ quỹ của phòng giao dịch cho sổ tiết kiệm
NA 222040 mang tên Đặng Thị Bích D là 200.100.000 đồng và sổ tiết kiệm NA
1297720 mang tên Ngô Thanh V là 102.870.600 đồng; tổng cộng là 302.970.600 đồng
(200.100.000 + 102.870.600 = 302.970.600 đồng) mà không kiểm tra chứng minh thư
nhân dân của khách hàng để đối chiếu, dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng số tiền
trên.
- Đối với Võ Thị Ánh N đã
trực tiếp làm các thủ tục và chi tiền từ quỹ của chi nhánh Ngân hàng do Võ Thị
Ánh N quản lý cho sổ tiết kiệm NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, tổng số tiền
471.432.700 đồng, gồm các lần sau:
Ngày 31-7-2009, Võ Thị
Ánh N chi 23.124.400 đồng bao gồm 20.000.000 đồng tiền gốc và 3.124.400 đồng tiền
lãi.
Ngày 03-11-2009, Võ Thị Ánh
N chi 448.308.300 đồng bao gồm 375.000.000 đồng tiền gốc và 73.308.300 đồng tiền
lãi.
Riêng đối với lần chi
ngày 03-11-2009, Cơ quan điều tra đã xác định Võ Thị Ánh N đã chuyển
251.000.000 đồng vào tài khoản ATM mang tên Võ Thị T (thẻ này do Võ Thị Ánh N
quản lý, sử dụng và giao dịch nhiều lần). Sau đó, Võ Thị Ánh N đã rút
251.000.000 đồng từ tài khoản ATM của bà Võ Thị T nhiều lần để chiếm đoạt.
Số tiền còn lại từ việc
chi trả cho sổ tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V nhưng Võ Thị
Ánh N không chứng minh được người nhận tiền nên đã gây thiệt hại cho Ngân hàng
220.432.700 đồng. Do trong quá trình điều tra, bị cáo Võ Thị Ánh N đã khắc phục
xong số tiền này nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định không truy tố bị cáo
về hành vi này.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm
số 106/2013/HSST ngày 14-8-2013, Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Bình Định đã
áp dụng điểm c khoản 2 Điều 278; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều
47 Bộ luật Hình sự xử phạt Võ Thị Ánh N 03 năm tù về tội “Tham ô tài sản”.
Ngày 27-8-2013, Võ Thị
Ánh N có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại Bản án hình sự phúc
thẩm số 30/2014/HSPT ngày 24-02-2014, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định căn cứ vào
điểm b khoản 2 Điều 248; điểm đ khoản 2 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự chấp
nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Võ Thị Ánh N, áp dụng điểm c khoản
2 Điều 278, các điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 Bộ luật Hình sự
xử phạt Võ Thị Ánh N 03 năm tù về tội “Tham ô tài sản” nhưng cho hưởng án treo,
thời gian thử thách là 05 năm.
Tại Kháng nghị giám đốc
thẩm số 02/2015/KN-HS ngày 09-02-2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị
Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án hình sự
phúc thẩm số 30/2014/HSPT ngày 24-02-2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và
Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2013/HSST ngày 14-8-2013 của Tòa án nhân dân
thành phố C, tỉnh Bình Định đối với Võ Thị Ánh N để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm,
đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận
Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH
CỦA TÒA ÁN:
[1] Võ Thị Ánh N không được lãnh đạo Ngân hàng
nông nghiệp C giao nhiệm vụ chi tiền tiết kiệm nhưng lợi dụng sự sơ hở trong quá trình quản lý của Ngân hàng, Võ Thị Ánh N đã nhiều lần trực
tiếp làm các thủ tục và chi tiền tiết kiệm từ quỹ của chi nhánh ngân hàng do Võ
Thị Ánh N quản lý cho sổ tiết kiệm NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V với tổng số
tiền là 471.432.700 đồng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định
không có khách hàng nào tên Ngô Thanh V và bản thân Võ Thị Ánh N cũng không chứng
minh được ai là người đến nhận số tiền này.
[2] Sau khi làm thủ tục
chi tiền cho khách hàng Ngô Thanh V, Võ Thị Ánh N đã chuyển 251.000.000 đồng là
tiền trong quỹ của ngân hàng do Võ Thị Ánh N quản lý vào tài khoản ATM mang tên
Võ Thị T do Võ Thị Ánh N là người trực tiếp mở thẻ, quản lý và sử dụng; sau đó
nhiều lần rút số tiền này để chiếm đoạt của Ngân hàng nông nghiệp C. Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Võ Thị Ánh N về tội “Tham ô tài sản”
đối với số tiền 251.000.000 đồng là có căn cứ và đúng pháp luật. Tuy nhiên, số
tiền mà Võ Thị Ánh N chiếm đoạt của Ngân hàng là 251.000.000 đồng nên hành vi
phạm tội của Võ Thị Ánh N thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 278
Bộ luật Hình sự “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới
năm trăm triệu đồng” có khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi
năm. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ áp dụng khoản 2 Điều 278 Bộ luật Hình sự xử phạt bị
cáo Võ Thị Ánh N 03 năm tù
là quá nhẹ, không đúng với quy định của pháp luật. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án
cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, vẫn giữ nguyên
mức hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng, không đánh
giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.
[3] Đối với số tiền còn lại
220.432.700 đồng (471.432.700 - 251.000.000 = 220.432.700 đồng) mà Võ Thị Ánh N
đã chi trả cho sổ tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, Võ Thị
Ánh N đã khắc phục xong hậu quả, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
thành phố C đã thu hồi được toàn bộ số tiền bị mất. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Định cho rằng bị cáo đã khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này
là bỏ lọt tội phạm.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản
2 Điều 279; khoản 3 Điều 285, Điều 287 Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy Bản án hình sự
phúc thẩm số 30/2014/HSPT ngày 24-02-2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định và
Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2013/HSST ngày 14-8-2013 của Tòa án nhân dân
thành phố C, tỉnh Bình Định đối với Võ Thị Ánh N để điều tra lại theo đúng quy định
của pháp luật.
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho
Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết theo thẩm quyền.
Các quyết định khác của bản
án hình sự phúc thẩm và sơ thẩm nêu trên không bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

|
“[3] Đối với số tiền còn lại
220.432.700 đồng (471.432.700 - 251.000.000 = 220.432.700 đồng) mà Võ Thị Ánh N
đã chi trả cho sổ tiết kiệm bậc thang NA 1297720 mang tên Ngô Thanh V, Võ Thị
Ánh N đã khắc phục xong hậu quả, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
thành phố C đã thu hồi được toàn bộ số tiền bị mất. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Định cho rằng bị cáo đã khắc phục hậu quả nên không truy tố về hành vi này
là bỏ lọt tội phạm.”