Đánh giá chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Vì  vậy, Nhà nước ta luôn quan tâm củng cố chế độ hôn nhân. Trong đó, chế định kết hôn được coi là chế định quan trọng, thiết yếu của Luật HNGĐ Việt Nam. Để làm rõ hơn về tầm quan trọng của nó, chúng em xin chọn đề tài: “Đánh giá chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”.


I. Lý luận chung
1. Chế định kết hôn
Chế định kết hôn trong Luật HNGĐ Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về việc kết hôn cùng các vấn đề phát sinh.
Chế định kết hôn trong Luật HNGĐ 2014 quy định các vấn đề về điều kiện kết hôn, những trường hợp cấm kết hôn, ĐKKH, thẩm quyền ĐKKH, giải quyết việc ĐKKH, tổ chức ĐKKH, người có quyền yêu cầu huỷ KHTPL, huỷ việc KHTPL, hậu quả pháp lý của việc huỷ KHTPL.
2. Một số khái niệm chung
2.1. Khái niệm kết hôn
Theo khoản 5 điều 3 Luật HNGĐ 2014: kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn.
Pháp luật hiện nay quy định việc kết hôn của nam nữ phải dựa trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với đạo đức XHCN và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động.
2.2. Khái niệm tuổi kết hôn
Tuổi kết hôn là tuổi tối thiểu cho phép nam nữ kết hôn. Ở mỗi quốc gia độ tuổi là khác nhau do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nhìn chung độ tuổi kết hôn là 18 tuổi ở nhiều quốc gia, tuy nhiên nhiều nước cho phép độ tuổi kết hôn sớm hơn, hoặc muộn hơn.
2.3. Khái niệm về hủy kết hôn trái pháp luật
Kết hôn trái pháp luật là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng đã đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Khi kết hôn các bên nam nữ, phải tuân thủ các điều kiện kết hôn, không vi phạm vào các trường hợp cấm kết hôn thì hôn nhân mới được coi là hợp pháp.
Sự tồn tại của quan hệ hôn nhân trái pháp luật không phù hợp với bản chất quan hệ hôn nhân, đi trái với lợi ích mà pháp luật quan tâm bảo vệ. Vì vậy, nhà nước dùng biện pháp cưỡng chế đối với những vi phạm là buộc các bên phải chấm dứt việc chung sống trong quan hệ vợ chồng. Điều đó thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước trước những hành vi vi phạm trong việc kết hôn và cũng khẳng định rằng trong việc kết hôn thì lợi ích của những người kết hôn phải phù hợp với lợi ích gia đình và xã hội.
II.  Đánh giá chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
1. Các quy định về điều kiện kết hôn
1.1.           Về độ tuổi kết hôn
Luật HNGĐ năm 2014 đã thay đổi độ tuổi kết hôn, bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn , so với “nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên” như Luật HNGĐ 2000. Sự thay đổi này thể hiện sự tiến bộ trong việc xây dựng pháp luật nhằm giải quyết những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật.
Từ sự thay đổi tiến bộ này, Luật HNGĐ 2014 đã  khắc phục nhiều điểm không hợp lí về độ tuổi kết hôn của Luật HNGĐ năm 2000, như:
- Về tâm sinh lí: khi người phụ nữ đủ 18 tuổi thì cơ thể hoàn thiện, việc mang thai và sinh con sẽ an toàn hơn, mặt khác khi này tâm lí đã hoàn thiện nên việc tiếp nhận khối lượng kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ tốt hơn, xử lý được các vấn đề trong cuộc sống.
- Về mặt lập pháp: thiếu sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật. Theo quy định của BLDS thì người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hoặc pháp luật có quy định khác. Đồng thời, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn không những tạo ra sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật mà còn hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập giao dịch, hạn chế quyền yêu cầu ly hôn (phải có người đại diện). Luật HNGĐ 2014 quy định tuổi kết hôn từ đủ 18 tuổi giúp đồng bộ hóa hệ thống pháp luật, đảm bảo đầy đủ quyền, nghĩa vụ dân sự của người nữ.
1.2.           Sự tự nguyện của các bên
       Tự nguyện kết hôn được hiểu là việc hai bên nam, nữ tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện ý chí là mong muốn trở thành vợ, chồng của nhau. Mỗi bên nam, nữ không bị tác động bởi bên kia hay của bất kỳ người nào khác khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Sự thể hiện ý chí phải thống nhất với ý chí. Hai bên nam, nữ mong muốn trở thành vợ, chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là cùng xây dựng gia đình sự tự nguyện của bên nam, nữ trong việc kết hôn phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người. Sự tự nguyện của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài bền vững.
        Điều 39 BLDS quy định: “Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cản trở hôn nhân tự nguyện”.
Sự tự nguyện của các bên phải xuất phát từ tình yêu chân chính giữa họ, đồng thời sự tự nguyn nam nữ trong việc kết hôn là nhằm xây dựng gia đình và cùng nhau chung sống lâu dài, vì vậy trong trường hợp các bên có sự tự nguyện, nhưng không vì mục đích hôn nhân mà nhằm mục đích vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội thì sẽ không được Nhà nước công nhận và sẽ bị xử hủy. Việc kết hôn do hai bên nam nữ tự quyết định, không chịu tác động của bên kia hoặc bất kỳ người nào. Việc kết hôn do bị cưỡng ép, lừa dối thì không được pháp luật công nhận.
Sự tự nguyện của các bên phải được biểu hiện thông qua thủ tục ĐKKH, để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, hai bên nam nữ phải cùng có mặt tại cơ quan có thẩm quyền về ĐKKH, nộp tờ khai đăng ký kết hôn, ngày mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành ĐKKH và trao giấy chứng nhận kết hôn thì cả hai bên nam và nữ vẫn phải có mặt.
        Việc kết hôn cũng có thể bị cản trở, cản trở hôn nhân là hành vi của người thứ ba, thông thường hành vi cản trở được thực hiện bởi gia đình, những người mà bản thân bên nam nữ kết hôn có sự lệ thuộc, với hành vi cản trở hôn nhân phải lên án đồng thời và kịp thời ngăn chặn nếu cấu thành tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được quy định tại Điều 146 BLHS 1999 thì cần tiến hành xử lý, việc xử lý góp phần tích cực bảo đảm tự do hôn nhân của công dân. Để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyên, pháp luật không thừa nhận quyền đại diện trong kết hôn.
1.3.           Quy định về các trường hợp cấm kết hôn
1.3.1.     Cấm kết hôn giả tạo
Điểm a khoản 2 điều 5 Luật HNGĐ 2014 quy định cấm kết hôn giả tao. Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình. Có thể thấy, kết hôn giả tạo là việc kết hôn nhằm mục đích khác mà không hề hướng tới mục đích xây dựng gia đình. Bởi lẽ, hôn nhân là việc xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và ĐKKH. Vì vậy, đây là trường hợp pháp luật cấm kết hôn.
1.3.2.     Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn
Điểm b khoản 2 điều 5 Luật HNGĐ quy định cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong Luật HNGĐ là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ: tự nguyện hoàn  toàn trong việc là hai bên tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện ý chí mong muốn của  mình. Sự tự nguyện của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững. Ngoài ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, Nhà nước cấm việc cưỡng ép, lừa dối kết hôn. Bởi lẽ, trong thực tiễn hiện tượng thiếu sự tự nguyện vẫn xảy ra. Hiện tượng này gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống và quyền lợi của  những người kết hôn, gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. Vì vậy, Nhà nước nghiêm cấm các trường hợp vi phạm.
1.3.3.     Cấm kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự
Những người bị mất năng lực hành vi dân sự thuộc những trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 22 BLDS 2005 “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định”. Luật HNGĐ 2014 quy định người bị mất năng lực hành vi dân sự không được kết hôn vì họ sẽ không thể hiện được ý chí tự nguyện của mình khi kết hôn, mặt khác nếu hôn nhân có hiệu lực pháp luật, họ cũng sẽ không làm tròn trách nhiệm của người cha, người mẹ, người vợ, người chồng trong gia đình và trách nhiệm với xã hội. Do đó, quy định như trên là hoàn toàn hợp lý.
1.3.4       Cấm kết hôn giữa những người đang có vợ hoặc có chồng
 Khoản 2, Điều 8 Luật HNGĐ 2014 quy định cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn với người khác.
Xuất phát từ bản chất hôn nhân xã hội chủ nghĩa là hôn nhân một vợ một chồng, tình yêu nam nữ được lấy làm cơ sở để xác lập hôn nhân, chỉ có hôn nhân một vợ một chồng mới đảm bảo được sự hạnh phúc, bền vững trong gia đình, Luật HNGĐ cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn với người khác.
Tuy nhiên ở nước ta vẫn tồn tại trường hợp một chồng có hai vợ, một vợ hai chồng. Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội đã có vợ hoặc chồng ở miền nam, tập kết ra bắc năm 1954 và lại lấy vợ, chồng khác. Năm 1975, khi đất nước đã thống nhất thì họ trở về đoàn tụ với gia đình và tồn tại hai quan hệ hôn nhân. Việc kết hôn trên tuy đã vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng nhưng do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Ngoài ra, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không ĐKKH cũng không được pháp luật công nhận là vợ, chồng (tại Điều 8, Luật HNGĐ 2014). Người đang có vợ hoặc có chồng mà chung sống hoặc kết hôn với người khác hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ là vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng – nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được ghi nhận trong Hiến pháp và Luật HNGĐ). Vì thế, vấn đề này còn được quy định chặt chẽ hơn tại Luật HNGĐ 2014: cấm người đang có vợ hoặc chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.

1.3.5       Cấm kết hôn giữa người cùng dòng máu trực hệ, có quan hệ trong phạm vi ba đời
Khoản 2, Điều 8, Luật HNGĐ 2014 quy định cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người trong phạm ba đời.
Quy định này phù hợp với các nghiên cứu khoa học và truyền thống đạo đức con người. Theo nghiên cứu y học, con cái của những cặp hôn nhân cận huyết có nguy cơ mắc các bệnh tật di truyền. Khi trưởng thành, những đứa trẻ được sinh ra từ những ông bố bà mẹ có quan hệ anh em họ cũng dễ có nguy cơ sẩy thai hoặc vô sinh. Đây đang là nguyên nhân làm suy giảm dân số của các dân tộc thiểu số ở nước ta, và chính vì nhận thức hậu quả của việc kết hôn giữa những người cận huyết. Ngoài ra, Luật HNGĐ 2014 bổ sung thêm quy định: cấm chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời. Luật quy định như vậy để hạn chế sự suy thoái giống nòi, tạo gánh nặng cho xã hội, làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình và phù hợp với truyền thống đạo đức.
1.3.6       Kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, những người từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng
Quy định này nhằm làm ổn định các mối quan hệ trong gia đình, đồng thời ngăn chặn được hiện tượng lợi dụng mối quan hệ phụ thuộc mà có thể xảy ra hành vi cưỡng ép kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi. Do đó, Luật HNGĐ 2014 tiếp tục kế thừa quy định này và có điểm tiến bộ hơn: Cấm kết hôn và chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Điểm mới này góp phần phát huy truyền thống tốt đẹp của gia định Việt Nam và xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình lành mạnh, tiến bộ.

1.3.7.     Kết hôn giữa những người cùng giới tính
Nếu hai người cùng giới tính kết hôn với nhau thì trái với quy luật tự nhiên và quy luật xã hội, đồng thời dẫn tới việc đi ngược lại một chức năng cơ bản của gia đình là duy trì nòi giống. Vì vậy, Luật HNGĐ 2000 đã cấm những người cùng giới tính kết hôn với nhau.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, do áp lực của cuộc sống, mục tiêu được con người kỳ vọng nhất trước ngưỡng cửa hôn nhân là gia đình trở thành một “mái ấm”, là nơi an toàn, yên ổn, là nơi con người được thỏa mãn nhất những nhu cầu tâm lý tình cảm. Mỗi con người, dù với những bản dạng tình dục khác nhau, đều có quyền kiếm tìm hạnh phúc. Trên cơ sở tôn trọng quyền con người, Luật HNGĐ 2014 đã bỏ quy định  cấm người cùng giới kết hôn, thay vào đó, Nhà nước sẽ không công nhận việc kết hôn này.
1.4. Việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền 
Khoản 1 Điều 9 Luật HNGĐ 2014:“1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.”
ĐKKH là việc hai bên nam nữ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận việc họ lấy nhau thành vợ chồng. Đây là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng để từ đó Nhà nước có biện phải bảo hộ quyền lợi cho vợ và chồng. Về mặt quản lý nhà nước thì ĐKKH là biện pháp để Nhà nước kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong việc kết hôn và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm các điều kiện kết hôn. Nếu các bên nam nữ mong muốn thành vợ chồng nhưng không ĐKKH tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà chỉ tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán thì về nguyên tắc hôn nhân đó không được pháp luật thừa nhận. Như vậy, ĐKKH là nghi thức duy nhất làm phát sinh quan hệ hôn nhân.
Khi Nhà nước công nhận quan hệ vợ chồng, Giấy chứng nhận kết hôn sẽ được cấp cho hai bên nam nữ. Đây là căn cứ làm phát sinh quan hệ vợ chồng mà nội dung là quyền và lợi ích hợp pháp của hai bên vợ chồng. Luật HNGĐ 2014 ghi nhận sự tự nguyện kết hôn giữa công dân nam và nữ nhưng Nhà nước bằng pháp luật quy định các điều kiện kết hôn để đảm bảo hôn nhân hợp pháp và chỉ khi tuân thủ theo các điều kiện kết hôn đó thì nam – nữ mới thực sự được ghi nhận là vợ chồng. Trong xã hội trước đây ở nước ta, chỉ cần tuân thủ theo lễ cưới truyền thống mà không cần ĐKKH là pháp luật đã công nhận việc kết hôn đó. Các nghi thức kết hôn là: chạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới mà theo đó, lễ cưới là phần quan trọng nhất, được tiến hành trong sự chứng kiến của bà con, hàng xúm…Nhưng hiện nay, ĐKKH được coi là một thủ tục pháp lý bắt buộc trong việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng, đảm bảo xây dựng một trật tự pháp lý ổn định, xóa bỏ tư tưởng lạc hậu đã tồn tại lâu đời, đảm bảo chế độ hôn nhân tự nguyện và tiến bộ.
   Về thẩm quyền đăng ký kết hôn: hiện nay, thẩm quyền đăng ký kết hôn được quy định tại Luật Hộ tịch năm 2014.
   Đăng ký kết hôn cho công dân Việt Nam với nhau: Theo Khoản 1, Điều 17, Mục 2, Chương 2 thì UBND cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ kết hôn là cơ quan ĐKKH giữa công dân Việt Nam với nhau tại Việt Nam.
   ĐKKH có yếu tố nước ngoài: Theo Điều 37 Mục 2 chương 3: “1. UBND cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện việc ĐKKH giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữ công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa công dân Việt nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài.
2.Trường hợp người nước ngoài cư trú tại Việt nam có yêu cầu đăng ký kết hôn tại Việt Nam thì UBND cấp huyện nơi cư trú của một trong hai bên thực hiện việc ĐKKH”.
   Thông qua các quy định trên cho thấy, tùy từng trường hợp kết hôn mà có cơ quan ĐKKH khác nhau. Trong trường hợp việc ĐKKH không đúng thẩm quyền thì việc ĐKKH đó không có giá trị pháp lý.
2.         Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật HNGĐ 2014
2.1.      Nguyên tắc xử lý đối với việc hủy kết hôn trái pháp luật
Pháp luật Việt Nam ra đời là để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân liên quan tới mọi vấn đề đời sống xã hội, từ những quy định của Hiến pháp đến các văn bản Luật, dưới luật. Trong đó, đặc biệt quy định về chế độ hôn nhân và gia đình tại Điều 64 Hiến pháp 2013: “Nhà nước bảo hộ chế độ hôn nhân và gia đình”. Hôn nhân chỉ được nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ vợ chồng tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và ĐKKH. Khi nhà nước quy định không được làm mà vẫn làm trái sẽ có những biện pháp xử lý, tương tự trường hợp nam nữ không tuân thủ điều kiện kết hôn và ĐKKH mà vẫn kết hôn, chung sống với nhau như vợ chồng thì vấn đề hủy việc KHTPL được đặt ra nhằm xử lý những hành vi vi phạm. Thông qua các quy định cụ thể trong Luật HNGĐ, nhà nước đã thể hiện thái độ phủ định đối với các trường hợp KHTPL. Ví dụ, Điều 11 Luật HNGĐ 2014 quy định: “1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện quy định tại Luật này và pháp luật về tố tụng hình sự… 3. Quyết định của Tòa án về hủy việc KHTPL hoặc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc ĐKKH…”.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc kết hôn vi phạm một trong các điều kiện kết hôn quy định cụ thể tại Điều 8 và Điều 9 Luật HNGĐ 2014 là trái pháp luật, khi có yêu cầu đối với những đối tượng thuộc điều 10 Luật này, TA có quyền hủy việc KHTPL đó. Luật HNGĐ 2014 đã có sự kế thừa Luật năm 2000 về vấn đề hủy việc KHTPL, cụ thể: Người có quyền hủy việc KHTPL (Điều 10), xử lý việc KHTPL (Điều 11); Hậu quả pháp lý của việc hủy KHTPL (Điều 14).
Hủy việc KHTPL được coi là một trong những chế tài của nhà nước đối với vấn đề vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của hai người kết hôn trái pháp luật và con cái của họ. Bởi vậy, khi xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật TA phải điều tra làm rõ hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, mức độ và hoàn cảnh vi phạm, đặc biệt phải có sự xem xét, đánh giá thực chất mối quan hệ tình cảm giữa hai bên từ khi kết hôn đến khi TA tiến hành xem xét cuộc hôn nhân của họ. Có như vậy, TA mới đảm bảo được sự phán xét đúng đắn, đảm bảo tính “thấu tình, đạt lý”.

2.2. Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật
2.2.1. Nam nữ kết hôn khi chưa đến tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật
Luật HNGĐ 2014 quy định về độ tuổi kết hôn: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên thì được phép kết hôn. Như vậy, khi nam, nữ chưa đến tuổi kết hôn, tức là nam chưa qua sinh nhật 20 tuổi và nữ chưa qua sinh nhật 18 tuổi mà đã kết hôn thì đối với trường hợp này, TA có thể hủy việc kết hôn trái pháp luật đó.
2.2.2. Thiếu sự tự nguyện của một trong hai bên hoặc của cả hai bên nam nữ khi kết hôn
Thiếu sự tự nguyện của nam nữ khi kết hôn là có hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối để kết hôn. Khi hai bên kết hôn mà thiếu sự tự nguyện của một bên hoặc cả hai bên thì TA có căn cứ để xử hủy việc kết hôn này.
·      Cưỡng ép kết hôn:
Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ (khoản 9 điều 3 Luật HNGĐ). Như vậy, người bị cưỡng ép do bị đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hay những hành vi khác mà không còn sự lựa chọn nào khác, dẫn đến phải đồng ý kết hôn trái với nguyện vọng của họ thì bị coi là kết hôn thiếu sự tự nguyện.
Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của HĐTP TANDTC, hành vi cưỡng ép kết hôn có thể là:
-  Một bên đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất,… để ép buộc bên kia đồng ý kết hôn.
-  Một bên hoặc cả hai bên nam nữ bị người khác cưỡng ép nên phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ, như: cha mẹ hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con họ phải kết hôn với nhau, hoặc cha mẹ buộc con phải kết hôn để trừ nợ,…
·      Lừa dối để kết hôn:
Lừa dối để kết hôn là trường hợp một trong hai người kết hôn đã nói sai sự thật về người đó, làm cho người kia tưởng lầm mà kết hôn; hoặc một trong hai người kết hôn đã hứa hẹn sẽ làm việc gì đó có ích cho người kia, làm người kia đồng ý kết hôn.
Theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của HĐTP TANDTC thì có thể coi là có hành vi lừa dối để kết hôn khi một bên hứa nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp hoặc nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài; một bên không có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu hay biết mình bị nhiễm HIV nhưng cố tình giấu,…
Cần phân biệt hành vi lừa dối để kết hôn với nhầm lẫn kết hôn. Nhầm lẫn kết hôn là trường hợp một bên có sự nhầm lẫn về một số yếu tố của bên kia như: nhầm lẫn về nghề nghiệp, về địa vị công tác hay về hoàn cảnh gia đình,… mà kết hôn. Trường hợp này không được coi là thiếu sự tự nguyện khi kết hôn.
2.2.3. Người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như chồng, vợ với người khác
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP của HĐTP TANDTC thì người đang có vợ hoặc có chồng là:
-  Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn.
-  Người chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không ĐKKH;
-  Người chung sống với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện để kết hôn nhưng không ĐKKH (chỉ áp dụng từ ngày 10/01/2001 đến trước ngày 01/01/2003).
Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ 2014, cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; đồng thời cấm người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Nếu việc kết hôn mà vi phạm quy định này thì TA có căn cứ để xử hủy việc kết hôn đó.
2.2.4. Người mất năng lực hành vi dân sự mà vẫn kết hôn
Người mất năng lực hành vi dân sự là người mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Luật HNGĐ cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Nếu vào thời điểm đăng ký kết hôn, quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự của TA có hiệu lực pháp luật thì việc kết hôn của người đó là trái pháp luật. Trường hợp này TA có căn cứ để xử hủy việc kết hôn này.
2.2.5. Người có cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời lại kết hôn với nhau
Theo quy định tại khoản 17, 18 Điều 3 Luật HNGĐ 2014: Những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó người này sinh ra người kia kế tiếp nhau. Như vậy, những người có cùng dòng máu về trực hệ là cha mẹ với con, ông bà với cháu nội, cháu ngoại.
Người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.
Điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ 2014 cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Như vậy, luật không những cấm kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi mà còn cấm kết hôn giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; ngoài ra cũng cấm kết hôn giữa những người đã từng là bố chồng với con dâu, giữa người đã từng là mẹ vợ với con rể, đã từng là bố dượng với con riêng của vợ hay đã từng là mẹ kế với con riêng của chồng.
Vì vậy, nam, nữ kết hôn nếu vi phạm quy định này thì được coi là có căn cứ để hủy việc kết hôn của họ.
2.2.6. Kết hôn giả tạo
Theo quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật HNGĐ 2014, kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Điểm a khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ 2014 quy định cấm kết hôn giả tạo. Do đó, khi có căn cứ chứng minh rằng việc kết hôn là giả tạo thì có thể hủy việc kết hôn này.
2.2.7. Hai người cùng giới tính kết hôn với nhau
Khoản 5 Điều 10 Luật HNGĐ năm 2000 cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Theo đó, việc kết hôn giữa những người có cùng giới tính là trái với quy định của pháp luật, vì vậy mà TA có căn cứ để hủy việc kết hôn của họ.
Tuy nhiên, Luật HNGĐ 2014 đã bỏ quy định này, tức là Nhà nước không cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Nhưng tại khoản 2 Điều 8 của luật này thì Nhà nước cũng không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2015, không có căn cứ để hủy việc kết hôn của những người cùng giới tính.
2.3. Đối tượng có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
Trong hủy việc KHTPL, Luật HNGĐ quy định các cá nhân, cơ quan nhà nước, các tổ chức có quyền yêu cầu TA hủy việc KHTPL.
Điều 10 Luật HNGĐ2014: 1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này.
           2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:
           a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người KHTPL;
          b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
          c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
          d) Hội liên hiệp phụ nữ.
           3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc KHTPL thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu TA hủy việc KHTPL”.
Theo đó thì người có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL rất rộng. Việc KHTPL không những vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chính những người kết hôn mà còn ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người khác như vợ, chồng, con… của họ và ảnh hưởng tới lợi ích xã hội. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi các cá nhân, bảo vệ lợi ích gia đình và xã hội, pháp luật cần quy định rộng rãi những người có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL.
Các cá nhân có quyền yêu cầu TA hủy việc KHTPL là: người bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối kết hôn; vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người KHTPL. Đây là những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị trực tiếp bị xâm phạm do việc KHTPL. Do đó, pháp luật quy định họ có quyền yêu cầu hủy việc KHTPL.
Quyền yêu cầu của các cơ quan, tổ chức nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong việc đấu tranh bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của các thành viên của tổ chức. Luật quy định cơ quan, tổ chức có quyền yêu cu TA hủy việc KHTPL còn để bảo đảm xét xử đối với việc KHTPL vẫn được tiến hành khi các cá nhân không yêu cầu. Ví dụ: người đang có vợ, có chồng lại kết hôn với người khác không khởi kiên vì muốn duy trì hôn nhân trái pháp luật; người bị cưỡng ép kết hôn không dám khởi kiện vì sợ bị đánh đập, ngược đãi…
Các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc KHTPL có quyền đề nghị các cơ quan, tổ chức yêu cầu TA hủy việc KHTPL.
TAND sau khi nhận đơn khởi kiện yêu cầu hủy việc KHTPL phải tiến hành điều tra xác minh làm rõ hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn của nam nữ và xem xét mối quan hệ tình cảm giữa họ. Theo quy định tại Điều 181 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, TA không được tiến hành hòa giải. Khi TA xét xử, các cá nhân, cơ quan, tổ chức đã yêu cầu hủy việc KHTPL phải có mặt tại phiên tòa để cung cấp những chứng cứ cần thiết giúp TA làm sáng tỏ vụ việc và có quyết định chính xác. Đồng thời, các cơ quan, đoàn thể này cũng có quyền kháng nghị đối với bản án hay quyết định của TAND. Nếu các cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức này vắng mặt lần thứ 2 thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và TA ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp TA ra quyết định đình chỉ vụ án thì cá nhân, cơ quan, tổ chức đã khởi kiện có quyền khởi kiện nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

2.4. Đường lối xử lý các trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn
2.4.1. Đối với trường hợp kết hôn trái pháp luật vi phạm độ tuổi kết hôn
Vi phạm về độ tuổi kết hôn là trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên nam, nữ chưa đạt đến độ tuổi quy định (Điểm a khoản 1 điều 8 Luật HNGĐ 2014), trường hợp kết hôn vi phạm về độ tuổi còn được gọi là tảo hôn.
v    Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc KHTPL mà một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định hủy việc KHTPL.
v    Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc KHTPL mà cả hai bên tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong thời gian qua không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định hủy việc KHTPL.
v    Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc KHTPL mà cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian qua họ chung sống bình thường, hạnh phúc, đã có con chung, tài sản chung, thì không quyết định hủy việc KHTPL. Nếu mơi phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn thì tòa án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.

2.4.2.     Đối với trường hợp kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện
Vi phạm về sự tự nguyện chính là hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn. Các hành vi này đêu trái với nguyên tắc tự nguyện kết hôn. Vì vậy, TA xử hủy việc kết hôn.Tuy nhiên, tùy từng trường hợp mà quyết định như sau:
v    Nếu sau khi bị cưỡng ép, lừa dối kết hôn mà cuộc sống không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì tòa án quyết định hủy việc KHTPL.
v    Nếu sau khi bị cưỡng ép lừa dối mà bên bị cưỡng ép, bị lừa dối đã biết nhưng thồng cảm, tiếp tục chung sống hòa thuận thì không quyết định hủy việc kết hôn. Nếu sau đó mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn, thì tòa án thụ lý để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.

2.4.3.     Người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ, chồng
Một trong những nguyên tắc của hôn nhân đó là hôn nhân một vợ - một chồng. Do đó, người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn với người đã có chồng hoặc đã có vợ là KHTPL. Trường hợp này, TA cần xử hủy việc KHTPL hoặc ra quyết định chấm dứt cuộc sống chung trái pháp luật đó. Trừ các ngoại lệ sau:
v    Đối với cán bộ, bộ đội miền Nam, đã có vợ (có chồng) ở miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 lấy vợ hoặc chồng khác ở miền Bắc thì theo hướng dẫn tại Thông tư số 60/DS ngày 22/2/1978 của TANDTC, thì không nhất thiết phải xử hủy việc kết hôn sau của họ mà tùy từng trường hợp, TAc cấp giải quyết khi có yêu cầu của các đương sự. TA có thể giải quyết cho ly hôn nếu các đương sự thực sự mong muốn chấm dứt hôn nhân trong trường hợp người vợ hoặc chồng trước ở miền Nam yêu cầu hủy việc kết hôn của chồng hoặc vợ mình với người ở miền Bắc thì tòa án cần giải thích cho họ thấy rõ hoàn cảnh của đất nước dẫn đến tình trạng này và khuyên họ rút đơn. Nếu không rút đơn thì TA đưa ra xét xử và trong trường hợp đó không thỏa mãn yêu cầu của đương sự . Ngoài ra, nếu sau khi điều tra có bằng chứng rõ ràng rằng người tập kết đã có vợ, có chồng ở miền Nam lại nói dối là chưa, nay người vợ hoặc người chồng lấy sau cho rằng bị lừa dối nên xin hủy việc kết hôn của họ thì TA xử hủy việc kết hôn đó.
v    Người đang có vợ hoặc có chồng, nhưng tình trạng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà kết hôn với người khác, nếu khi có yêu cầu hủy việc kết hôn sau họ đã ly hôn với vợ hoặc chồng của lần kết hôn trước thì không quyết định hủy việc KHTPL đối với lần kết hôn sau. Nếu sau đó mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu TA giải quyết việc ly hôn thì TA thụ lý giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.

2.4.4       Đối với trường hợp kết hôn vi phạm điểm c khoản 1 điều 8 và điểm a, điểm d khoản 2 điều 5 Luật HNGĐ năm 2014
Đây là trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn; lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài, hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không phải mục đích xây dựng gia đình (kết hôn giả tạo); kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; đối với các trường hợp này, khi có yêu cầu TA cần xử hủy việc kết hôn mà không có ngoại lệ nào.
2.4.5.     Đăng ký kêt hôn không đúng thẩm quyền
Điều 13 Luật HNGĐ 2014: trong trường hợp việc ĐKKH không đúng thẩm quyền thì khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc ĐKKH tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày ĐKKH hôn trước.
2.5. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn
2.5.1. Quan hệ nhân thân
Về nguyên tắc, Nhà nước không thừa nhân hai người KHTPL là vợ chồng. Do đó, giữa họ chưa từng phát sinh quan hệ vợ chồng. Việc họ chung sống như vợ chồng là trái pháp luật. Vì vậy theo quy định tại khoản 1 điều 12 Luật HNGĐ 2014 thì: “Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng”. Kể từ ngày quyết định hủy việc KHTPL của TA có hiệu lực pháp luật, hai người phải chấm dứt cuộc sống chung trái pháp luật đó.
2.5.2. Về việc chia tài sản
Khoản 3 Điều 12 Luật HNGĐ 2014 quy định: “Quan hệ tài sản và hợp đồng giữa các bên được giả quyết theo quy định tại Điều 16 Luật này”. Theo đó, việc chia tài sản khi TA hủy việc kết hôn được xử lý như giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không ĐKKH.
Theo quy định tài điều 16 Luật HNGĐ 2014 thì: “1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Do hai người KHTPL nên giữa họ không phát sinh quan hệ vợ chồng. Vì vậy, tài sản họ tạo ra trong thời gian chung sống không phải tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Khi TA hủy việc KHTPL, tài sản chung (nếu có) được chia theo thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì TA quyết định chia trên cơ sở công sức đóng góp của mỗi bên trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó. Tuy nhiên, người có tài sản riêng phải có nghĩa vụ chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mình. Nếu họ không chứng minh được thì tài sản đó được xác định là tài sản chung.
Khi chia tài sản chung cần ưu tiên bảo vệ quyền lơi chính đáng của phụ nữ và trẻ em. Công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Đây là quy định nhằm hướng tới bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
2.5.3. Quan hệ giữa cha mẹ và con
            Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con được pháp luật quy định không phụ thuộc và hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay không hợp pháp, còn tồn tại hay chấm dứt. Vì vậy, hai người KHTPL tuy không phải là vợ chồng nhưng vẫn là cha mẹ của con chung. Khi TA hủy việc KHTPL thì “quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, me, con khi ly hôn” (Khoản 2 Điều 12).
            Khi hủy việc KHTPL, vấn đề con chung được giải quyết như khi vợ chồng ly hôn là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. TA phải căn cứ vào điều kiên thực tế của các bên và căn cứ vào các quy định pháp luật để giải quyết cho hợp tình hợp lý.
KẾT LUẬN
Chế định kết hôn theo Luật HNGĐ 2014 đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển chế định kết hôn trong Luật HNGĐ 1959, 1986 và 2000. Những quy định về kết hôn trong Luật HNGĐ đã được sửa đổi, bổ sung một cách hoàn thiện hơn, quy định chặt chẽ hơn và triệt để hơn, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta trong thời kỳ hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.   Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013.
2.   Luật HNGĐ Việt Nam năm 2014;
3.   Luật HNGĐ Việt Nam năm 2000;
4.   Nghị định của Chính phủ số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng kí và quản lí hộ tịch;
5.   Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hư­ớng dẫn toà án nhân dân các cấp áp dụng một số quy định của Luật HNGĐ;
6.   Giáo trình Luật HNGĐ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, tr. 83 - 107.
7.   Giáo trình luật HNGĐ (hệ đào tạo từ xa), Trung tâm đào tạo từ xa - Đại học Huế, Nxb. CAND, Hà Nội, 2003, tr. 74 - 96.

8.   Tài lệu tham khảo: Trường Đại Học Luật Hà Nội , Phạm Thu Thảo, Tự nguyện kết hôn-một số vấ đề lý luận và thực tiễn,2012

Related Post

Previous
Next Post »

3 nhận xét

Write nhận xét
Unknown
AUTHOR
lúc 11:16 8 tháng 11, 2018 delete

LUẬT IURA HỒ CHÍ MINH giải quyết mọi vấn đề liên quan đến pháp ly

Reply
avatar
maryquy
AUTHOR
lúc 13:43 9 tháng 11, 2018 delete

xem thêm hoặc liên hệ hỗ trợ trực tiếp tại IURA nha

Reply
avatar
lúc 05:39 4 tháng 8, 2019 delete

B?t c? ai dang d?c l?i khai hôm nay nên an m?ng v?i tôi và gia dình tôi vì t?t c? b?t d?u nhu m?t trò dùa v?i m?t s? ngu?i và nh?ng ngu?i khác nói r?ng di?u dó là không th?. Tôi tên là Nguy?n Kh?i và tôi d?n t? C?n Tho, nhung tôi chuy?n d?n Singapore cùng v?. Tôi h?nh phúc k?t hôn v?i hai d?a con và m?t ngu?i v? xinh d?p. M?t di?u kh?ng khi?p dã x?y ra v?i gia dình tôi, tôi m?t vi?c và v? tôi r?i kh?i nhà vì tôi không th? cham sóc t?t cho b?n thân và gia dình. Cô ?y và các con tôi vào th?i di?m dó. Tôi qu?n lý du?c chín nam, không có v? h? tr? tôi cham sóc con cái t?t. Tôi c? g?ng g?i tin nh?n ki?m tra cho v? nhung cô ?y ngan tôi nói chuy?n v?i cô ?y. Tôi c? g?ng nói chuy?n v?i b?n c?a cô ?y và gia dình cô ?y nhung tôi v?n bi?t ai dó có th? giúp tôi và tôi dã g?i yêu c?u sau dó cho r?t nhi?u công ty, nhung v?n không g?i cho tôi, cho d?n khi m?t ngày chung th?y d?n mà tôi s? không bao gi? quên trong d?i. . Khi tôi g?p m?t ngu?i b?n cu c?a tôi, ngu?i mà tôi dã gi?i thích t?t c? nh?ng khó khan c?a mình và anh ?y k? cho tôi nghe v? m?t ngu?i dàn ông tuy?t v?i dã giúp anh ?y có m?t công vi?c t?t ? công ty Coca cola và anh ?y nói v?i tôi r?ng dó là m?t ngu?i quy?n ru, nhung tôi là m?t ngu?i không bao gi? tin vào chính t? nhung tôi dã quy?t d?nh dùng th? và tôi dã liên l?c v?i anh ?y thông qua doctorosagiede75@gmail.com Anh ?y hu?ng d?n tôi và ch? cho tôi ph?i làm gì trong ba ngày an trua này. Tôi làm theo t?t c? các hu?ng d?n và làm nh?ng gì anh ?y yêu c?u tôi làm t?t. Drosagiede d?m b?o m?i th? di?n ra t?t d?p và v? tôi s? g?p l?i tôi sau công vi?c tuy?t v?i Drosagiede. V? tôi g?i cho tôi v?i m?t s? di?n tho?i không xác d?nh và xin l?i và cô ?y nói v?i tôi r?ng cô ?y th?c s? nh? tôi và nh?ng d?a tr? c?a chúng tôi và v? tôi v? nhà. Và sau hai ngày, m?t công ty mà tôi dã g?i thu c?m on dã g?i, bây gi? tôi là ngu?i qu?n lý công ty guong m?u ? M?. Tôi khuyên r?ng n?u b?n có b?t k? v?n d? nào, hãy g?i tin nh?n d?n email này: doctorosagiede75@gmail.com ho?c whatsapp +2349014523836 và b?n s? nh?n du?c k?t qu? t?t nh?t. Hãy coi m?i th? là di?u hi?n nhiên và nó s? b? l?y m?t kh?i b?n. Chuc ba?n nhung diêu tôt de?p nhât.

Reply
avatar

XEM NHIỀU TRONG TUẦN