Hội nhập quốc tế đã và đang là một xu thế tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hóa các mối quan hệ dân sự - kinh tế - thương mại, hôn nhân và gia đình, là một vận hội nhưng đồng thời cũng là thách thức gay gắt đối với mọi quốc gia.
Việc quốc tế hóa mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội tất yếu dẫn đến việc phát sinh nhiều ngày càng nhiều
mối quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài thuộc các lĩnh vực dân sự, kinh tế,
thương mại, hôn nhân gia đình ..Để điều chỉnh các mối quan hệ này, ở những mức
độ khác nhau, pháp luật cá nước đều thừa nhận và cho phép áp dụng luật nước
ngoài. Nói cách khác, áp dụng pháp luật nước ngoài là một tất yếu, khách quan
trong TPQT. Tuy nhiên, áp dụng pháp luật nước ngoài luôn là một vấn đề phức tạp và khó khăn.
I. Một số vấn đề chung về “áp dụng pháp luật nước
ngoài” trong tư pháp quốc tế
1. Khái niệm
Về khái niệm Áp dụng pháp luật nước ngoài, giáo
trình TPQT của các trường trường đại học không đưa ra khái niệm cụ thể nhưng có
thể hiểu áp dụng pháp luật nước ngoài “là việc cơ quan có thẩm quyền của 1 nước
vận dụng các qui định cụ thể của pháp luật 1 nước khác để giải quyết các quan hệ
cụ thể “
Pháp luật nước ngoài hay “Pháp luật 1 nước khác”- ở
đây thực chất chính là pháp luật của một quốc gia - đó là hệ thống văn bản pháp
quy ( kể cả luật không thành văn) của một quốc gia bao gồm Hiến pháp, luật và các
ăn bản dưới luật cùng với những tập quán và án lệ, thực tiễn tư pháp.
2. Trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài
Để điêu chỉnh và giải quyết các quan hệ dan sự quốc
tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật nước ngoài khi xảy ra một
trong hai trường hợp sau:
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng luật nước
ngoài khi quy phạm xung đột (QPXĐ) dẫn chiếu tới. QPXĐ có thể là QPXĐ trong pháp luật Việt nam và
quy phạm xung đột cũng có thể là trong các điều ước quốc tế mà Việt nam tham
gia.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng luật nước
ngoài khi các bên thỏa thuận trong hợp đồng dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài.
Trong trường hợp không có sự dẫn chiếu của QPXĐ cũng
như không có việc chọn luật của các bên đương sự, nhưng việc áp dụng pháp luật
nước ngoài là cần thiết, thì có thể áp dụng nguyên tắc “Luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội tương tự.”
3. Thể thức áp dụng pháp luật nước ngoài
Áp dụng luật nước ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định, củng cố và
phát triển hợp tác về mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh
vượng chung của cả thế giới, song việc áp dụng pháp luật nước ngoài một số tiêu
chí cơ bản sau:
Thứ nhất, Các cơ quan tư pháp có thẩm quyền cần áp dụng
luật nước ngoài một cách thiện chí và đầy đủ. Điều này được hiểu là áp dụng cr
một hệ thống luật nước ngoài được viện dẫn, hệ thống nước ngoài được cơ cấu như
thế nào, bằng những loại nguồn pháp luật nào đều phải được áp dụng mà không được
loại bỏ một cách tùy tiện.
Thứ hai, Pháp luật nước ngoài phải được giải thích
và thực thi về nội dung như ở chính nước nơi nó được ban hành. Khi quy phạm
xung đột dẫn chiếu tới pháp luật nước ngoài có nghĩa là dẫn chiếu tới toàn hộ hệ
thống pháp luật của nước đó. Như vậy, khi áp dụng luật nước ngoài là áp dụng
toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài nên nó phải được giải thích, xác định nội
dung và áp dụng để giải quyết vụ việc đúng như ở nước ban hành nó.
Thứ ba, Cơ quan tư pháp có thẩm quyền và coq quan
xét xử có nhiệm vụ tìm hiểu và xác định nội dung qua nghiên cứu văn bản pháp luật,
qua thực tiễn hành pháp, tư pháp, tập quán, tài liệu...của nước hữu quan. Ngoài
ra có thể thoonmg qua cong dường ngoại giao, coq quan đại diện ngoại giao, lãnh
sự ở nước ngoài của nhà nước mình, cung như thông qua các tổ chức tư vẫn, công
ty luật hoặc cơ quan nghiên cứu pháp lý để tìm hiểu luật nước ngoài một cách tốt
nhất phục vụ cho việc xét xử. Các bên đương sự trong vị việc cũng có quyền và
trách nhiệm minh chứng, viện dẫn giải thích, vận dung trước cơ quan xét xử để
xác định nội dung đích thực của luật nước ngoài để bảo vệ lợi ích của mình
Trong trường hợp không thể xác định được nội dung
pháp luật nước ngoài, theo quan điểm của chúng ra các cơ quan xét xử nên áp dụng
pháp luật nước mình để xử lý vụ tranh chấp giữa các đương sự. Sở dĩ như vậy, là
vì không thể không giải quyết tranh chấp đã phát sinh và không thể áp dụng pháp
luật nước ngoài một khi đã làm hết mọi cách mà không nắm được nội dung và cách
giải thích vận dụng pháp luật nước ngoài hữu quan.
4. Điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài
Áp dụng luật nước ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định ,củng cố và
phát triển hợp tác về mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh
vượng chung của cá thế giới. Song việc áp dụng luật nước ngoài phải đáp ứng điều
kiện là luật nước ngoài được áp dụng không trái với nguyên tắc cơ bản của chế
độ xã hội và pháp luật trong nước của nước áp dụng luật nước ngoài. Điều kiện
này được ghi nhận trong pháp luật các nước trên thế giới. ở việt nam, điều kiện
nay được ghi nhận tại khoản 4 điều 759 BLDS 2005.
II. Những vướng mắc, khó khăn trong áp dụng pháp luật nước ngoài
Tại Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp luật nước
ngoài hiện nay được quy định tại các Điều 759 Bộ luật Dân sự năm
2005, Điều 5 Luật Thương mại năm 2005, Điều 4 Bộ
luật hàng hải năm 2005, Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 5
Luật Đầu tư năm 2005 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Theo các quy định trên thì việc áp dụng pháp luật nước ngoài sẽ được cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam áp dụng trong các trường hợp các văn bản của Việt Nam
hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp
luật nước ngoài hoặc trong các trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng,
nếu sự thỏa thuận đó không trái với pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên thực tiễn cho thấy rằng tòa án Việt
Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật quốc gia khác để giải quyết các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài, mà lẽ ra việc áp dụng pháp luật nước ngoài trên cơ sở
dẫn chiếu của quy phạm xung đột có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính
đáng của các bên tranh chấp.
Để áp dụng pháp luật nước ngoài theo đúng cách
thức đòi hỏi các cơ quan xét sử có trách nhiệm tìm hiểu nội dung. Thực tế của
pháp luật Việt Nam chưa có một qui định cụ thể nào về nghĩa vụ tìm hiểu nội
dung pháp luật nước ngoài thuộc về cơ quan xét xử hay của các bên đương sự. Đây
là một vấn đề phức tạp và trên thực tế gây không ít khó khăn cho thẩm phán.
Tại Việt Nam, pháp luật không có quy định cụ thể
về cách thức áp dụng pháp luật nước ngoài mà chỉ dựa trên các nguyên tắc xuất
phát từ mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự và lợi ích quốc
gia.
Khi Tòa án Việt Nam thụ lý giải quyết những vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài, phần nhiều liên quan đến một bên chủ thể là
công dân Việt Nam nên việc ưu tiện chọn luật Việt Nam để giải quyết thường được
áp dụng nhằm thuận tiện cho việc nghiên cứu Luật và theo hướng có lợi hơn cho
công dân Việt Nam.
Tình trạng “luật khung”: là loại văn bản chứa
đựng những quy định mang tính nguyên tắc làm cơ sở cho việc đề ra những quy
định cụ thể trong quá trình điều chỉnh một hoặc một số quan hệ xã hội. Ví dụ, Luật Hôn nhân và gia đình có quy định: “Việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ giữa công dân
Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư
trú ở khu vực biên giới với Việt Nam do Chính phủ quy định”. Việc
chỉ dừng lại ở những quy định có tính chất “khung” cho thấy, các nhà lập pháp
luôn cần đến sự tham gia của các nhà quản lý trong việc đưa ra những quy định
chi tiết, cụ thể nhằm áp dụng pháp luật vào hoạt động quản lý trong từng lĩnh
vực cụ thể.
Tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn
bản pháp luật khiến cho hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp
dụng pháp luật nước ngoài còn hạn chế, nhiều khó khăn. Ví dụ: cùng quy định về
thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài nhưng lại được quy định cả trong Luật Hôn nhân và gia đình và điểm g khoản 2 Điều 410, điểm c khoản 1 Điều
411 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Số lượng, chất lượng đội ngũ thẩm phán chưa thực
sự đáp ứng được yêu cầu mới. Một số lượng không ít Thẩm phán Tòa án nhân dân
các cấp hiện có còn phải đi học văn hóa, nghiệp vụ, chính trị, tin học để đạt
được tiêu chuẩn về trình độ theo yêu cầu mới. Nguyên nhân này xuất phát từ các
quy định về tiêu chuẩn lựa chọn Thẩm phán của chúng ta không còn phù hợp với
thời đại mới.. Nhiều người còn thiếu kỹ năng, kiến thức chuyên sâu về các lĩnh
vực chuyên sâu như sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, hàng không, hàng hải,
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế... Đặc biệt là sự hiểu biết còn hạn
chế về pháp luật các nước trên thế giới, Thẩm phán Việt Nam biết nhiều pháp
luật Việt Nam hơn pháp luật nước ngoài, những hiểu biết nếu có về pháp luật
nước ngoài chỉ mang tính rời rạc, góp nhặt mà thiếu tính hệ thống, bài bản,
chính vì vậy họ có xu hướng áp dụng pháp luật Việt Nam ngay cả khi quy phạm
xung đột dẫn chiếu tới. Phần lớn các Thẩm phán đứng tuổi không tham gia được
những vụ phải sử dụng đến ngoại ngữ.
Trong vấn đề công nhận và thi hành bản án nước
ngoài tại Việt Nam phải trải qua quá nhiều khâu quá trình áp dụng đơn yêu cầu
phải được đến Bộ Tư pháp để xem xét tính thích hợp tính hợp lệ của đơn sau đó
chuyển đến Tòa án Tỉnh để thi hành.
III. Áp dụng pháp luật nước ngoài luôn là một yêu cầu khách quan trong việc giải quyết các vấn đề của Tư pháp Quốc tế
1. Việc áp dụng pháp
luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế một hệ quả tất yếu nhằm giải quyết xung đột
pháp luật (theo sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột).
Xung đột pháp luật là
hiện tượng hai hat nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh
một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Để giải quyết XDPL nói
chung trong TPQT có hai phương pháp chính là phương pháp dung đột và phương
pháp thực chất thông qua việc xây dựng và áp dụng các QPXĐ cũng như quy phạm thực
chất.
Để điều chỉnh và giải
quyết các quan hệ dân sự quốc tế, một trong những cách phổ biến là quốc gia xây
dựng một hệ thống các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật nước mình và
trong các điều ước quốc tế mà quốc tế mà quốc gia đó là thành viên,.
Trong đó, QPXD là loại
qui phạm được sử dụng rất phổ biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng có yếu tố nước ngoài của Tư pháp quốc tế..Khi không có QPTC thống nhất,
các quốc gia giai quyết XDPL bằng cách xây dựng và áp dụng các QPXĐ. QPXD là
quy phạm ấn đính luật pháp nước nào cần ohari áp dụng để giai quyết quan hệ
pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.
QPXD được xây dựng bằng
cách các quốc gia tự ban hành trong hệ thống pháp luậ của nước mình, ngoài ra
nó còn được xây dựng bằng cách các quốc gia thỏa thuận ký kết các điều ước quốc
tế ( gọi là QPXD thống nhất)
Chính Việc áp dụng các
QPXD có ý nghĩa thừa nhận pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng để điều chỉnh
mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong những trường hợp
nhất định. Trong thực tiễn TPQT việc áp dụng pháp luật nước ngoài là không thể
tránh khỏi là đặc thù của TPQT. Tất cả các nước đều thừa nhận và cho phép áp dụng
pháp luật nước ngoài.
Xem xét ví dụ về việc
cơ quan xét xử áp dụng pháp luật nước ngoài theo sự chỉ dẫn của QPXD của nhà nước
mình.
Ví dụ: khoản 1 điều 773
BLDS 2005 quy định: Việc BTTHNHĐ được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy
ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt
hại”
Như vậy nếu hành vi gây
thiệt hại hoặc hậu quả của hành vi gây thiệt hại xảy ra ở nước ngoài xảy ra ở
nước ngoài những vụ kiện thuộc thẩm quyền của tòa án việt nam thì tòa án VN áp
dụng pháp luật nước ngoài hữu quan. Một ví dụ khác, theo luật HNGĐ ““Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải
tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn” do đó để xác định điều
kiện kết hôn của bên đương sự là công dân của nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam phải áp dụng pháp luậ nước ngoài hữu quan.
Việc áp dụng pháp luật
nước ngoài cũng có thể do QPXĐ thống nhất mà nhà nước mình tham gia xây dựng.
Ví dụ: khoản điều 20 hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam- bugari năm 1985 quy
định rằng: “ hình thức kết hôn được xác định theo pháp luật của nước nơi tiến
hành kết hôn”. Như vậy, bất kể quốc tịch của các bên đương sự, nếu kết hôn trên
lãnh thổ bugari thì pháp luật bungari được áp đụng để xe xét giá trị pháp luật
của cuộc kết hôn về mặt hình thức. Trong trường hợp để điều chỉnh cùng một quan
hệ xã hội cụ thể có yếu tố nước ngoài, có cả QPXĐ của riêng nước mình và quy phạm
thống nhất của nhà nức tham gia xây dựng với những nội dung khác nhau thì cơ
quan xét xử áp dụng quy phạm xung đột thống nhất đây là nguyên tắc chung giải
quyết trường hợp có sự khác nhau về nội dung giữa pháp luật quốc gia và điều ước
quốc tế được quốc gia kí kết hoặc tham gia. Nguyên tắc này được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật của Việt nam như luật hôn nhân gia đình, luật
thi hành án dân sự năm 2008.
Khi áp dụng
QPXĐ cần lưu ý rằng, có loại quy phạm xung đột quy định áp dụng các pháp luật của
nước do các bên đương sự lựa chọn, nếu các bên đương sự chọn
pháp luật nước ngoài thì cơ quan xét xử phải áp dụng pháp luật nước ngoài. Tuy
nhiên thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng giữa các đương dự phải được tiến hành
trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc gia hoặc các điều ước quốc tế, nói
cách khác việc thỏa thuận pháp luật chi được tiến hành trong khuôn khổ cho
phép. Trong lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như quan hệ kinh tế,
buôn bán quốc tế, hợp tác khoe học, kỹ thuật, văn hóa. Pháp luật các nước ở các
nước mức độ khác nhau đều cho phép các bên đương sự thỏa thuận chọn luật để áp
dụng. Ví dụ, Bộ luật Hàng hải năm 2005 (khoản 2 Điều 4); Luật Thương mại (khoản 2, khoản 3 Điều 4); Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 (khoản 2, khoản
3 Điều 4). Đặc biệt, đoạn 1 khoản 1 Điều 769 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy
định rõ: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp
luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”.
Cũng cần chú ý rằng, Nếu
quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài thì việc áp dụng pháp luật
nước ngoài đó là nghĩa vụ của cơ quan xét xử và các đương sự, co quan xét xử
không được tự tiện gạt bot việc áp dụng pháp luật nước ngoài, trừ trường hợp cần
đảm bảo trật tự công cộng theo quy định của pháp luật nước mình hoặc các điều ước
quốc tế mà nước mình ý kết hoặc tham gia.
Tóm lại, chính việc áp
dụng các quy phạm xung đột dẫn tới việc pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng
để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
2. Việc áp dụng
pháp luật nước ngoài là nhu cầu tất yếu, khách quan,để giải quyết các quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng từ đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự
và thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.
Việc điều chỉnh các
quan hệ dân sự- kinh tế- thương mại, lao động, hôn nhân gia đình,,,có yếu tố nước
ngoài ( thường liên quan đến nheieu hệ thống pháp luật) đòi hỏi sự chính xác
khách quan. Vì vậy, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật Việt nam cũng
như pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho phép áp dụng luật nước
ngoài. Tuy nhiên, việc cho phép áp dụng luật nước ngoài không phải là nghĩa vụ
pháp lí của mỗi quốc gia mà là thuộc chủ quyền quốc gia, nhằm bảo vệ lợi ích quốc
gia cũng như bảo hộ những quyền lợi hợp pháp của công dân, pháp nhân nước mình,
góp phần thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự quốc tế.
Thực tiễn giải quyết
xung đột pháp luật đã chứng tỏ rằng, nếu cơ quan tư pháp chỉ áp dụng pháp luật
nước mình để điều chỉnh bất kì quan hệ ,mang tính chất dân sự có yếu tố nước
ngoài nào, bằng mọi cách cố tình mở rộng hiệu lực của pháp luật nước mình mà khồng
tính đến trường hợp cụ thể cần phải áp dụng pháp luật nước ngoài đều dẫn tới sự
thủ tiêu tính khach quan, công bằng- những nguyên tắc cơ bản của bất kì quá
trình tố tung nào. Hậu quả là sẽ gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của công dân, pháp nhân nước ngoài.
Như vậy việ cho phép áp
dụng luật nước ngoài nhằm điểu chỉnh các giao dịch dân sự có yếu tố nước ngoài
là điều iện hết sức cần thiết cho sự phát triển bình thường các quan hệ mang
tính chất dân sự quốc tế.
Xét một Ví dụ: công dân
quốc tịch nước anh đềulàm ăn sinh sống ở nước B, một khối tài sản ở nước B, một
khối tài sản ở nước C, vì lý do nào đó bị chết ở nước D và để lại di sản. Như vậy
4 hệ thống pháp luật của 4 nước tham gia điều chỉnh vè quyền thừa kế. Đối với
tài sản là bất động sản thì khả năng chọn luât sẽ là nơi có vật từ là pháp luật
nước C. đối với tài sản là động sản thì khả năng áp dụng luật quốc tịch là luật
nước A. Nếu tài sản có cả hai loại thì phân ra động sản và bất động sản để chọn
luật. Trong ví dụ này rõ ranegf là có sự áp dụng luật nước ngoài và cần thiết
phải áp dụng luật nước ngoài. Việc áp dụng đó, tạo điều kiện cho công dân thực
hiện các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đang của mình, góp phần đảm bảo
tính ổn định và thúc đẩu các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngoài phát triển. Nói cách khác việc áp dụng luật nước gnoaif trong trường hợp
cụ thể nàu là hợp lý, hợp tình, là yêu cầu khách quan của việc điều chỉnh pháp
lý các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh đó, có thể thấy
việc áp dụng pháp luật nước ngoài còn là nhu cầu tất yếu khách quan để giải quyết
các quan hệ dân sự quốc tế trong sự phối kết hợp của hai hoặc nhiều hệ thống
pháp luật mà tất cả đều thừa nhận là giữa các hệ thống pháp luật đều bình đẳng
đối với nhau. Về thực chất, việc áp dụng pháp luật nước ngoài là yêu cầu của
chính quốc gia trong quá trình bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân cũng như pháp nhan nước mình, của chính bản thân mình trong giao lưu dân sự
quốc tế. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài không hề gây cho nước ngoài hữu quan
bất kỳ thiệt hại gì và cũng không làm hại gì cho quan hệ giữa các quốc gia. Ngược
lại nó làm cho giao lưu dân sự quốc tế ổ định và phát triển thuận lợi vì lợi
ích chung của các cộng đồng quốc tế và của từng quốc gia. Nói cách khác, Việt
cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài bao giờ cũng tăng cường và củng cố sự
hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia, phát triển sự hiểu biết và tin tưởng lẫn
nhau nhằm thiết lập 1 trật tự pháp lí ổn định trên thế giới. Từ đó thúc đẩy
giao lưu dân sự phát triển.
Tóm lại, từ những
phân tích trên, có thể khẳng định việc vần thiết phải áp dụng lật nước ngoài để
giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, là một nhu cầu khách quan dể bảo đả, lợi
ích, công bằng trong xã hội. Song việc áp dụng luật nước ngoài phải luôn gắn
liền với việc bảo đảm độc lập, chủ quyền, bình đẳng và toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia, bảo đảm sự an ninh ổn định, chế độ xã hội chủ nghĩa và nền tảng pháp luật
của nhà nước ta.