Ở
Việt Nam, quyền con người, quyền công dân luôn được “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Trong các quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận, thì quyền về
dân sự có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nước ta bằng nhiều cách thức, biện pháp
luôn bảo hộ các quyền dân sự của các chủ thể. Trong nhiều biện pháp đó, khởi kiện
vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng là một biện pháp hữu hiệu quan trọng, có tính
khả thi cao.
Khởi kiện vụ án dân sự (VADS) là việc cá nhân, cơ quan, tổ
chức hoặc các chủ thể khác có quyền dân sự bị xâm phạm có quyền khởi kiện VADS
để yêu cầu tòa án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền dân sự phải
chấm dứt hành vi trái pháp luật hoặc phải bổi thường thiệt hại hoặc phải chịu
chế tài phạt vi phạm…Tòa án chỉ thụ lý giải quyết VADS khi có đơn khởi kiện của
các chủ thể. Điều 161 BLTTDS không chỉ ghi nhận quyền khởi kiện dân sự mà còn
quy định các điều kiện về thủ tục khởi kiện, yêu cầu khởi kiện.
I. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
1. Về chủ thể khởi kiện
Chủ
thể khởi kiện VSDS là các chủ thể theo quy định của pháp luật được tham giam
vào quan hệ pháp luật TTDS.
Điều
161 BLTTDS quy định:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông
qua người đại diện hợp phá kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại
Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (QLIHP) của mình.”[1]
Từ quy định trên và các quy định có liên quan, có
thể thấy, chủ thể khởi kiện VADS là các chủ thể theo quy định của pháp luật được
tham giam vào quan hệ pháp luật TTDS (Tố tụng dân sự). Các chủ thể này bao gồm cá nhân, cơ quan
hoặc tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định. Cá nhân khi khởi
kiện VADS phải có NLHVTTDS (Năng lực hành vi tố tụng dân sự), đồng thời phải có quyền lợi bị xâm phạm.
Thứ nhất, người khởi kiện phải
có năng lực pháp luật TTDS và NLHV TTDS. Điều 57 BLTTDS quy định, năng lực pháp luật TTDS là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong TTDS do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức
có năng lực pháp luật TTDS như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ QLIHP của mình (Khoản
1). NLHVTTDS là khả năng tự
mình thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham gia TTDS (Khoản 2).
- Đối
với trường hợp đương sự là cá nhân: người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng không bị mất hoặc
bị hạn chế NLHVDS có đầy đủ NLHVTTDS. Người chưa đủ 06 tuổi hoặc người mất NLHVDS thì không cóTTDS. Việc bảo vệ QLIHP cho những người này tại Toà án
do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Người từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ 15
tuổi thì việc bảo vệ QLIHP cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp
pháp của họ thực hiện. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao
động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình
được tự mình tham gia TTDS về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó.
Trong trường hợp này, Toà án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ
tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc bảo vệ QLIHP cho họ tại Toà án
do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Đối với việc ly hôn thì không được
phép đại diện (Khoản 3 Điều 73 BLTTDS).
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 69 BLTTDS 2015 sắp
có hiệu lực, thì người bị hạn chế NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi, trong trường hợp này, Tòa án sẽ xác định NLHVTTDS của họ. Bởi
lẽ, trong trường hợp này, họ chưa mất hoàn toàn năng lực, họ vẫn còn khả năng tự
mình tham gia tố tụng, do đó, quy định này là rất hợp lý.
- Đương sự là cơ quan, tổ
chức do người đại diện hợp
pháp tham gia tố tụng. Cơ quan, tổ chức phải là những cơ quan được thành lập hợp
pháp, thường là pháp nhân (Điều 84 BLDS 2005)[2],
người đại diện hợp pháp của cơ quan đó là người do luật quy định hoặc được chỉ
định trong giấy tờ quỷ quyền hợp pháp.
Thứ
hai, người khởi kiện phải có
mối quan hệ mật thiết với tranh chấp, đồng thời có QLIHP trực tiếp bị xâm hại (Khoản
2 Điều 56 BLTTDS)[3]. Tuy nhiên, theo quy định
tại Điều 162 BLTTDS, sẽ có trường hợp ngoại lệ, đó là:
- Khởi kiện để bảo vệ lợi ích của người khác,
lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước: Cơ quan về dân số, gia đình và
trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền
khởi kiện vụ án về HNGĐ; Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi
kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ QLIHP của tập thể người lao động;
Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện để
bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Đến BLTTDS năm 2015, tại Điều 187, cơ bản vẫn giữ
các trường hợp ngoại lệ như trên. Tuy nhiên, có bổ sung thêm trường hợp: tổ chức
xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người
tiêu dùng tham gia khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc lợi ích công
cộng (Khoản 3) và trường hợp cá nhân có quyền khởi kiện vụ án HNGĐ để bảo vệ
quyền, lợi ích của người khác (Khoản 5).
- Khởi kiện theo nguyên tắc thế quyền:
Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người
thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu và có thể đứng đơn kiện với tư cách là
nguyên đơn dân sự để yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ. Nguyên tắc thế
quyền được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật bảo hiểm, pháp luật kinh doanh bảo
hiểm và pháp luật về mua bán, chuyển nhượng nợ dân sự.
- Khởi kiện theo nguyên tắc thừa kế quyền và
nghĩa vụ: Việc kế thừa các quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ tài sản
được đặt ra đối với các trường hợp hợp nhất pháp nhân, sáp nhập pháp nhân, chia
tách pháp nhân (các Điều 94, 95, 96 BLDS 2005)[4];
Thứ
ba, người khởi kiện không
rơi vào trường hợp bị hạn chế quyền khởi kiện. Trường hợp hạn chế quyền khởi kiện
là trường hợp đương sự có quyền khởi kiện nhưng lại bị hạn chế về mặt thời
gian. Chẳng hạn, trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai
tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn (Khoản 3 Điều 51 Luật HNGĐ
2014);
2.
Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án
Tòa
án chỉ thụ lý VADS đối với những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình. Việc xác định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt động
bình thường và hợp lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời việc phân định thẩm quyền
giữa các Tòa án cũng góp phần cho các Tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ của mình
và người dân dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền của Tòa án được xác
định một cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm
vụ của Tòa án với các cơ quan nhà nước khác, giữa các Tòa án và các bộ phận
trong một Tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện cho các đương sự
tham gia tố tụng bảo vệ QLIHP của mình. Để vụ án được thụ lý, đơn khởi kiện phải
gửi đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết, xét xử. Cụ thể là:
- Vụ
án mà chủ thể khởi kiện thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định
tại các Điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS[5].
- Vụ án được khởi kiện phải đúng với cấp tòa án
có thẩm quyền quy định tại Điều 33, 34 BLTTDS[6].
- Vụ
việc được khởi kiện đúng thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ quy định tại Điều
35 BLTTDS.[7]
- Trong
trường hợp người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa án theo Điều 36 BLTTDS thì yêu
cầu đương sự cam kết không khởi kiện tại các tòa án khác. Nếu do thỏa thuận lựa
chọn Tòa án giải quyết thì phải kiểm tra tính hợp pháp của thỏa thuận.
- Đối
với những việc pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết trước
thì chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện vụ án khi các cơ quan hữu quan đã giải
quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan đó.
Khi
xác định thẩm quyền, Tòa án cũng phải xác định đó là loại tranh chấp dân sự, HNGĐ,
kinh doanh, thương mại hay lao động để vào sổ thụ lý loại án đúng với quy định.
Việc xác định này có ý nghĩa rất lớn khi xác định các quy phạm pháp luật nội
dung để áp dụng. Chẳng hạn nếu đó là tranh chấp về HNGĐ sẽ áp dụng các quy định
trong Luật HNGĐ, BLDS... Nếu là tranh chấp lao động sẽ áp dụng BLLĐ...
Về
cơ bản, BLTTDS năm 2015 có quy định khá tương đồng so với BLTTDS năm 2005. Tuy
nhiên tại các Điều 26, 28, 30 và 32, thì BLTTDS 2015 có mở rộng thêm những
tranh chấp theo các lĩnh vực sẽ thuộc thẩm quyền xét xử, giải quyết của Tòa án.
Việc mở rộng này, thực chất là để phù hợp với các quy định trong pháp luật nội
dung.
Tương
tự như vậy, tại các Điều 36 và 38, BLTTDS 2015 có quy định về thẩm quyền của
Tòa chuyên trách Tòa án cấp huyện và Tòa chuyên trách Tòa án cấp tỉnh. Việc quy
định này cũng để phù hợp với quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án theo
Luật Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân 2014.
3. Điều kiện về thời hiệu
Thời
hiệu khởi kiện là thời hạn mà các chủ thể có quyền khởi kiện được quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động
để bảo vệ quyền lợi ích bị xâm phạm. Hết thời hạn đó thì chủ thể khởi kiện mất
quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định tại
Điều 160 BLDS 2005, riêng đối với yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc sở hữu nhà nước;
yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Quy định
thời hiệu khởi kiện góp phần quan trọng vào việc ổn định các quan hệ kinh tế –
xã hội, hạn chế việc lạm dụng quyền khởi kiện. Tùy thuộc vào tính chất của mỗi
loại tranh chấp pháp luật quy định thời hiệu.
Thời
hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp về dân sự, HNGĐ, kinh doanh,
thương mại, lao động được quy định cụ thể trong BLDS năm 2005, Luật Thương mại
năm 2005, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLLĐ năm 2006. Theo Điều 159
BLTTDS đối với những tranh chấp mà trong văn bản quy phạm pháp luật không quy định
thời hiệu khởi kiện thì áp dụng quy định tại khoản 3 Điều này “thời hiệu khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ án dân sự là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước bị xâm phạm”.
Thực
tế có nhiều nguyên nhân khách quan mà việc khởi kiện không được thực hiện trong
thời hạn quy định. Để đảm bảo QLIHP của họ pháp luật quy định không tính vào thời
hiệu khởi kiện khoảng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng; trở ngại khách
quan; người có quyền khởi kiện chưa thành niên, bị mất NLHV, bị hạn chế NLHVDS
mà chưa có người đại diện; người đại diện của họ bị chết mà chưa có người thay
thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện.
BLTTDS
2015, vẫn áp dụng các quy định của BLDS để xác định thời hiệu (Điều 184, 185).
BLTTDS 2015 đã thống nhất
4.
Vụ án chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật
của tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp có quy định khác
của pháp luật
Nếu
một vụ án đã được tòa án của Việt Nam giải quyết bằng một bản án hay quyết định
đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không được khởi kiện lại đối với vụ án đó
nữa, trừ các trường hợp sau đây:
-
Bản án, quyết định của tòa án bác đơn xin ly hôn;
-
Yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại;
-
Vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà
tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện.
-
Các trường hợp khác pháp luật quy định.
Ngoài
ra, trường hợp Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm c, e và g
khoản 1 Điều 192 BLTTDS bao gồm: người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa
án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; nguyên đơn được triệu
tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; đã có quyết định của Tòa án mở thủ
tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà
việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã (khoản 1 Điều 193 BLTTDS) thì đương sự có quyền khởi kiện lại.
Do
vậy, Tòa án chỉ được thụ lý giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án hoặc
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Điều kiện
này nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định, sự ổn định của các quan hệ xã
hội, một việc đã được giải quyết thì không giải quyết lại nữa để tránh tình trạng
chồng chéo cũng một sự việc mà nhiều cơ quan giải quyết và tránh việc cố tình
kéo dài việc khiếu kiện của đương sự.
II. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện
khởi kiện vụ án dân sự
Thứ
nhất, về nguyên tắc, nguyên đơn phải là chủ thể được giả
thiết có quyền lợi bị tranh chấp hay vi phạm, tuy nhiên, luật thực định thừa nhận
quyền khởi kiện VADS của các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh mình phụ
trách và tư cách nguyên đơn của các chủ thể. Tuy nhiên, trong trường hợp Cơ
quan dân số - gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu hủy hôn nhân
trái pháp luật (kể cả trường hợp người được bảo vệ khước từ quyền được bảo vệ),
thực chất việc thực hiện quyền yêu cầu của các cơ quan này là vì lợi ích của
pháp luật. Theo quy định pháp luật, những chủ thể này là người đại diện hợp
pháp của đương sự chứ không phải là nguyên đơn. Do vậy, cần phải sửa đổi pháp
luật theo hướng quy định các cơ quan tổ chức khởi kiện để duy trì trật tự của
pháp luật cũng được coi là nguyên đơn dân sự.
Thứ
hai, tại Điều 73 BLTTDS, đối với các vụ án ly hôn không
áp dụng chế độ người đại diện. Đích thân chồng hay vợ phải đứng đơn khởi kiện
và tham gia tố tụng chứ không thể nhờ ai thay mặt mình được. Thực tiễn cho thấy
những vụ xin ly hôn liên quan đến vợ, chồng bị mất NLHVDS không phải là hiếm mà
pháp luật hiện nay lại chưa có quy định điều chỉnh tình huống này. Vậy cha, mẹ
có thể là người đại diện để bảo vệ QLIHP cho con họ - người bị mất NLHVDS trong
vụ án ly hôn hay không? Hiện nay thì Tòa án vẫn không tiếp nhận giải quyết những
trường hợp cha mẹ là người đại diện khởi kiện này. Do đó, nhằm hướng tới việc bảo
vệ tối đa QLIHP của công dân, cần ban hành văn bản hướng dẫn theo đó cho phép
cha, mẹ là người giám hộ theo hàng thứ hai (vợ, chồng là người giám hộ theo
hàng thứ nhất) có quyền đại diện cho con bị mất NLHVDS trong khởi kiện và tham
gia tố tụng ở vụ việc ly hôn[8].
Thực
tiễn cho thấy tình trạng người đi khởi kiện do không hiểu biết nhiều về pháp luật
nên không thực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ TTDS và cũng không ít trường
hợp đương sự khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự không đúng thẩm
quyền của Tòa án nên đã bị trả lại đơn khởi kiện. Việc này làm mất nhiều thời
gian, công sức của cả bên đi kiện và Tòa án. Do đó, để góp phần cải thiện tình
trạng này, có thể đưa ra một số kiến nghị sau:
Thứ
nhất, hoàn thiện chế định về thẩm quyền giải quyết của
Tòa án. Bởi thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án cho thấy những
quy định về vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án chưa được đầy đủ, vẫn
còn những vụ việc chưa được quy định vào điều luật mặc dù thẩm quyền giải quyết
vụ việc đó nên thuộc về Tòa án. Để hoàn thiện vấn đề này, cần quy định thêm vào
các điều luật những trường hợp thiếu. Một số quy định về các vụ việc thuộc thẩm
quyền Tòa án còn thiếu tính hợp lý. Đồng thời, một số vấn đề được hướng dẫn tại
Nghị quyết lại không đảm bảo đúng so với BLTTDS dẫn đến việc áp dụng không thống
nhất. Đối với những vấn đề này, cần sửa đổi các quy định tại BLTTDS sao cho hợp
lý, đồng thời cũng thay đổi sao cho có sự thống nhất giữa Luật và văn bản hướng
dẫn để các Tòa án thống nhất áp dụng các quy định về vấn đề này.
Thứ
hai, phát huy hơn nữa vai trò của Tòa án với tư cách là
cơ quan bảo vệ công lý trong việc đôn đốc và hướng dẫn thủ tục tố tụng của Tòa
án. Nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ ngành Tòa án và Viện kiểm sát.
Thứ
ba, nguyên nhân chính dẫn đến việc không đáp ứng đầy đủ
điều kiện khởi kiện là do nhận thức về pháp luật của nhân dân còn nhiều hạn chế.
Do đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý
thức pháp luật trong nhân dân. Sự hiểu biết pháp luật của nhân dân có phần quan
trọng đặc biệt, nó vừa tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện tốt hơn việc khởi
kiện của mình, mặt khác, hạn chế được các vi phạm pháp luật dân sụ và tạo thói
quen xử sự hợp pháp, tích cực để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật[9].
Các quy định về thời hiệu khởi kiện
trong pháp luật nước ta hiện nay khá rắc rối, không tập trung tại một văn bản cụ
thể, thống nhất mà dàn trải ở nhiều văn bản khác nhau, gây khó khăn cho việc
tìm hiểu vụ việc của người dân. Việc xác định mốc thời điểm bắt đầu tính thời
hiệu, giữa các luật cũng quy định khác nhau, trong pháp luật dân sự, thời hiệu
khởi kiện để yêu cầu tòa giải quyết là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm; thời hiệu giải quyết việc chia thừa kế là 10 năm kể từ thời
điểm mở thừa kế; về tranh chấp lao động, thời hiệu khởi kiện là một năm kể từ
ngày mỗi bên tranh chấp thấy rằng quyền, lợi ích của mình bị vi phạm...
Do đó, mốc bắt đầu tính thời hiệu
nên có quy định lại là từ ngày đương sự nhận biết hoặc buộc phải nhận biết QLIHP
của mình bị xâm phạm như quy định của pháp luật về lao động là hay hơn, bởi
trên thực tế không phải lúc nào người dân cũng nhận biết được quyền lợi của
mình bị xâm phạm. Đến khi họ biết để nhờ pháp luật xử lý thì đã hết thời hiệu
khởi kiện.
Khởi kiện là phương thức để các
chủ thể có thể hành động ngay tức khắc để tự bảo vệ các quyền dân sự của mình.
Với việc cơ quan tố tụng sẽ có hành động can thiệp kịp thời để bảo vệ các QLIHP
của đương sự, ngăn chặn, chấm dứt hành vi trái pháp luật. Quy định pháp luật về
khởi kiện VADS vẫn còn nhiều vướng mắc, hi vọng trong thời gian tới, sẽ có những
sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn.
[1] BLTTDS năm 2015 cũng có quy định
tương tự BLTTDS năm 2004.
[2] Xem thêm: Điều 74 BLDS năm 2015.
[3] Xem thêm: Khoản 2 Điều 68 BLTTDS
năm 2015.
[4] Xem thêm: Các Điều 88, 89, 90,
91 BLDS 2015.
[5] Xem: Điều 26, 28, 30 và 32
BLTTDS 2015.
[6] Xem: Điều 35, 36, 37 và 38
BLTTDS 2015.
[7] Xem: Điều 39 BLTTDS 2015.
[8]
https://luatduonggia.vn/kien-nghi-hoan-thien-phap-luat-ve-dieu-kien-khoi-kien-vu-an-dan-su
[9]
https://luatduonggia.vn/kien-nghi-hoan-thien-phap-luat-ve-dieu-kien-khoi-kien-vu-an-dan-su
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
2. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011);
3. Nghị quyết 02/2006/NQ – HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ
hai “ Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án
cấp sơ thẩm của BLTTDS”;
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội, 2015;
5. Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2007;
6. Ths. Liêu Thị Hạnh, Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thụ
lý vụ án dân sự, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”;
7. Đặng Anh Tuấn, Khoá luận tốt nghiệp “Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách đương sự
trong tố tụng dân sự”, Hà Nội, 2010;
8. Luật gia Nguyễn Thị Hằng Nga, Một số quy định về thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.