C có hành vi dùng vũ lực chiếm
đoạt tài sản của
K, tài sản chiếm
đoạt có giá trị 30
triệu đồng. Hành vi phạm tội
của C được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS. C bị đưa ra xét xử và bị tuyên phạt 7 năm tù. Anh (chị) hãy xác định:
1. Trường hợp phạm tội
của C thuộc loại tội gì
theo sự phân loại tội
phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS? (1 điểm)
2. Tội cướp tài sản (Điều 133
BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP
hình thức? Tại
sao? (1 điểm)
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị truy cứu TNHS
về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội
phạm? (2 điểm)
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về
hành vi của mình không? Tại sao? (1,5
điểm)
5. Nếu C mới chuẩn
bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu TNHS về
hành vi của mình không? Tại sao? (1,5
điểm)
Bài làm:
1. Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS?
Theo đề
bài thì C có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của K, tài sản chiếm đoạt có giá trị 30 triệu đồng.
Hành vi phạm tội
của C được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS. C bị đưa ra xét xử và bị tuyên phạt 7 năm tù.
Khoản 1
Điều 133 BLHS quy định khung hình phạt đối với tội mà C đã phạm như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
hoặc có hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười năm.”
Khoản 3
Điều 8 BLHS quy định về việc phân loại tội phạm: “
3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến ba
năm tù; tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối
với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối
với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối
với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Hành vi phạm tội của C
được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS có khung hình phạt cao nhất là mười năm tù. Như vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 và khoản 1 Điều 133
BLHS, trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội rất nghiêm trọng.
2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP
hình thức? Tại
sao?
Theo giáo trình Luật hình sự của
trường đại học Luật Hà Nội, tập 1 năm 2007 thì:
* CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt
khách quan là hành vi, hậu quả,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
* CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của
mặt khách quan là hành
vi nguy hiểm cho xã hội.
Như vậy, tội cướp tài sản (Điều 133
BLHS) là tội có cấu thành tội phạm hình thức, bởi hành vi “dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay
tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được”
đã thể hiện
được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
mà chưa cần xét tới hậu quả của hành vi (trong trường hợp
này thì hậu quả
nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác định).
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị truy cứu TNHS
về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm?
Theo giáo trình Luật hình sự của
trường đại học Luật Hà Nội tập 1, năm 2007 thì: các giai đoạn thực
hiện tội phạm là các mức độ
phạm tội cố ý, bao gồm chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành. Tội phạm có thể phải dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị
hoặc giai đoạn chưa đạt hoặc có thể đã
hoàn thành. Cụ thể:
* Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều
kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội
phạm đó. Theo Điều 17
BLHS: “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm”.
* Phạm tội chưa đạt:
Theo Điều 18 BLHS: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội”.
* Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong CTTP.
Mà theo đề bài thì tội mà C đã thực hiện là tội cướp tài sản được quy định
tại Điều 133 BLHS. Đây
là tội có CTTP hình thức. Hành vi dùng vũ lực của C đe dọa
đến các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ mà chưa cần xét tới hậu quả. Vì vậy, giả sử C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì hành vi phạm tội này dừng lại ở giai
đoạn phạm tội chưa đạt. C đã bắt đầu thực hiện tội phạm là dùng vũ lực (đây là hành vi cố ý) nhưng có thể có những nguyên nhân khách quan khiến C không thực hiện được mục
đích của mình là chiếm được tài sản nên tội phạm này chưa được hoàn thành (phạm tội chưa
đạt).
Các dấu hiệu cho thấy
hành động phạm
tội của C trong trường hợp này là phạm tội chưa đạt:
* Thứ nhất, C đã bắt đầu thực hiện
tội phạm đó là dùng vũ lực đe dọa đối với K.
* Thứ hai, C không thực hiện được tội
phạm đến cùng (về mặt pháp lý), hành vi của C
chưa thảo mãn hết các dấu hiệu (thuộc
mặt khách quan) của CTTP:
C mới dùng vũ lực thì bị bắt giữ.
* Thứ ba, C không thực hiện được tội
phạm đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của
của C, nhưng bản thân C
vẫn muốn tội phạm hoàn
thành là đạt được mục đích chiếm đoạt được số tài sản trị giá 30 triệu đồng của K.
Căn cứ để xác định TNHS cụ thể
cho những trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được quy định tại Điều 52 BLHS như
sau: “Đối với hành
vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt,
hình phạt được
quyết định theo các
điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm
không thực hiện
được đến cùng”. Theo Luật hình sự Việt Nam, vấn
đề TNHS được đặt ra ngay từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Như vậy, nếu C mới dùng vũ lực mà không chiếm đoạt được tài sản thì C vẫn bị truy cứu
TNHS về tội cướp tài sản.
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về
hành vi của mình không? Tại sao?
Về vấn đề độ tuổi
phải chịu TNHS được quy định tại Điều 12 BLHS:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi
trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.”
Trong trường hợp này, tội mà C đã thực hiện là tội rất nghiêm trọng (theo phân tích ở câu 1). Lỗi của C ở đây là lỗi cố ý bởi C đã trực tiếp thực
hiện hành vi dùng vũ lực để
chiếm đoạt tài sản của K
(tài sản trị
giá 30 triệu
đồng). Như vậy, nếu C mới tròn 14 tuổi (tính đến thời điểm phạm tội C đủ 14 tuổi) thì C có phải chịu TNHS về
hành vi của mình.
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?
Điều 17 BLHS quy định:
Chuẩn bị phạm tội
“ Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị phạm
một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định
thực hiện.”
Như vậy, chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn
trong quá trình thực hiện tội phạm, nhưng ở giai đoạn này, người
phạm tội chưa thực hiện được hành vi thuộc mặt khách quan của cấu
thành tội phạm, tức là chưa có hành vi
xâm phạm
tới đối tượng tác động.
Thứ nhất: Hành vi cướp tài
sản của C được quy định tại khoản 1 điều 133 BLHS, theo đó mức cao
nhất của khung hình phạt cho loại tội phạm này là tội rất nghiêm trọng (mức
cao nhất của khung hình phạt là 15 năm).
Thứ hai: Hành vi cướp
tài sản mà C thực hiện là tội có
CTTP hình thức ( theo
phân tích ở câu 2). Theo Luật hình sự Việt Nam vấn đề TNHS được đặt ra ngay từ giai đoạn
chuẩn bị phạm tội.
Chuẩn bị phạm tội là trường hợp có mức độ nguy hiểm
cho xã hội thấp
nhất so với phạm tội chưa đạt và tội phạm đã hoàn thành vì chưa trực tiếp xâm hại đến khách thể của loại tội định thực hiện và riêng hành vi chuẩn bị
chưa thể gây ra được những
hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Luật hình sự Việt
Nam chỉ đặt vấn đề TNHS cho những trường hợp chuẩn bị phạm tội khi tội định
phạm là tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc
là tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng
(Điều 17 BLHS).
Theo khoản 1 Điều 52
BLHS quy định: “Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội
chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm
tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm
không thực hiện
được đến cùng”
Như vậy, căn cứ khoản
1 Điều 52 BLHS và áp dụng Điều
17 BLHS, trong trường hợp nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu TNHS về
hành vi của mình.