Tóm tắt vụ việc liên quan đến vấn đề bảo lãnh
Tháng 8-2004, vì muốn con
mình có vốn làm ăn, bà H đã nhờ công ty TNHH Miền Tây đứng ra vay giùm chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tỉnh Vĩnh Long. Đổi lại, bà phải
dùng quyền sử dụng đất để bảo lãnh hợp đồng vay 300 triệu, thời hạn 6 tháng giữa
công ty Miền Tây và phía ngân hàng. Bà H đã giao bản chính sổ đỏ cho chi nhánh
ngân hàng. Hết thời hạn bảo lãnh chính, bà gia hạn bảo lãnh thêm 3 tháng. Sau
chín tháng, ngân hàng đã thanh lý hợp đồng cho vay với công ty miền tây nhưng vẫn
ko chịu trả sổ đỏ cho bà H. Bà H đã khởi kiện ra TAND tỉnh Vĩnh Long, yêu cầu
phía ngân hàng phải trả lại sổ
Tại phiên tòa sơ thẩm,
phía ngân hàng đưa ra lý lẽ rằng công ty Miền Tây vẫn trả lãi đủ nhưng chưa
thanh toán vốn nên trong trường hợp này hợp đồng vay có thời hạn đã trở thành
ko thời hạn, tức là hợp đồng thế chấp bảo lãnh của bà H vẫn còn hiệu lực.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
bà H kháng cáo, cho rằng công ty miền tây đã thanh toán hết vốn vay cho phía
ngân hàng. Tại đây, chồng bà H (người có quyền lợi liên quan) cũng kháng cáo,
cho rằng hợp đồng thế chấp bảo lãnh trên vô hiệu vì quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng nhưng bà H lại đem đi bảo lãnh mà ko được ông đồng ý. Phía
ngân hàng xác nhận công ty Miền Tây đã trả xong tiền vay. Dù vậy, phía ngân
hàng vẫn từ chối trả giấy đó cho bà H...lập luận: Việc vay, cho vay giữa ngân
hàng với công ty Miền Tây là luân chuyển, hết hợp đồng này thì tiếp hợp đồng
khác( từ năm 2004, phía ngân hàng đã cho công ty vay thêm 10 hợp đồng ngắn hạn).
Vì thế, giấy tờ thế chấp bảo lãnh của bà H phải được tiếp tục giữ lại.
Phán quyết của tòa án:
Tòa sơ thẩm: TAND tỉnh
Vĩnh Long đồng tình với quan điểm của chi nhánh Ngân Hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam tỉnh Vĩnh Long và bác yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp bảo lãnh của bà H.
Tòa phúc thẩm: Tòa đã chấp
nhận kháng cáo của vợ chồng bà H, sửa bản án sơ thẩm, hủy hợp đồng thế chấp bảo
lãnh, yêu cầu chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam tỉnh Vĩnh Long
trả lại sổ đỏ cho vợ chồng bà H.
A. MỞ
BÀI:
Trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế quốc tế
thì các giao dịch dân sự, thương mại được xem như một công cụ hữu hiệu giúp cho
các chủ thể tìm kiếm được lợi ích của mình. Một nền kinh tế năng động luôn chứa
đựng những yếu tố rủi ro và việc nhận biết chúng, khắc phục và ngăn chặn những
rủi ro ngay từ chính những giao dịch được kí kết là một cách làm khôn ngoan và
chủ động mà các nhà làm luật đã dự phòng thông qua việc thiết kế quy định pháp
luật về các giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bảo lãnh là một trong
những biện pháp bảo đảm quan trọng và được sử dụng rộng rãi. Do đó em xin được
trình bày vấn đề “ Hãy sưu tầm một vụ
tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: phân tích quy định của pháp luật có
liên quan đến vẫn đề pháp lý trong vụ việc và đưa ra hướng giải quyết”.
Bảo lãnh là một trong bảy
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật dân sự
hiện hành. Tuy nhiên, khi nghiên cứu lịch sử pháp luật dân sự Việt Nam, bảo
lãnh không phải là khái niệm mới xuất hiện ở BLDS 1995, 2005 mà nó đã được hình
thành từ rất sớm. Thời Hậu Lê, trong bộ Quốc triều hình luật có quy định về bảo
lãnh tại Điều 590: “Người vay nợ trốn mất thì người đứng bảo lãnh phải trả thay
tiền gốc thôi, nếu trong văn tự có nói người nào sẽ trả thay thì người ấy phải
trả như người mắc nợ, trái luật thì xử tám mươi trượng, nếu kẻ mắc nợ có con
thì được đòi ở con”. Thời kỳ Pháp thuộc, Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ Hoàng Việt
trung kỳ hộ luật nêu ra khái niệm bảo lãnh tương đối giống nhau như sau: Bảo
lãnh là một khoản nợ tức là cam đoan với chủ nợ hễ người mắc nợ không trả được
thì mình phải trả thay; “món nợ nào có giá trị thời mới bảo lãnh được”. Có thể
thấy, ở mỗi thời kỳ khác nhau, do sự chi phối của điều kiện kinh tế, xã hội,
chính trị, quy định về bảo lãnh có sự khác nhau, nhưng tựu chung lại, quan hệ
bảo lãnh luôn có sự xuất hiện của người thứ ba, với nội dung là sự “trả nợ
thay” của người đó cho chủ nợ khi người mắc nợ không trả nợ; mục đích cuối cùng
là bảo đảm lợi ích cho chủ
Theo pháp luật hiện hành,
“bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có
thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình” (Điều 361 BLDS 2005). Có
thể thấy bảo lãnh trong BLDS 2005 đã kế thừa nội dung cốt lõi của bảo lãnh trong
các bộ luật thời kỳ trước, đồng thời có sự mở rộng về nghĩa vụ được bảo lãnh
cũng như quy định chi tiết hơn về thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh.
Quan hệ giữa các chủ thể
trong tình huống trên thỏa mãn là sự phát sinh cho một biện pháp bảo đảm, cụ
thể là biện pháp bảo lãnh, theo đó quan hệ trên cũng mang đặc điểm của một biện
pháp bảo đảm như sau:
Thứ nhất, cũng giống như những biện pháp bảo đảm khác, biện pháp bảo
lãnh phát sinh từ sự thỏa thuận giữa các bên. Với mục đích bảo đảm cho sự thực
hiện nghĩa vụ, các bên có thể thỏa thuận để quyết định sử dụng biện pháp bảo
lãnh. Mặc dù có những hợp đồng dân sự pháp luật quy định phải có biện pháp bảo
đảm nhưng không vì thế mà mất đi tính thỏa thuận giữa các bên. Các bên có thể
thỏa thuận về đối tượng, phạm vi, cách xử lý tài sản bảo đảm....
Cụ thể, giữa bà H và công
ty TNHH Miền Tây đã có sự thoản thuận trước, đó là vì muốn con mình có vốn làm ăn, bà H đã
nhờ công ty TNHH Miền Tây đứng ra vay giùm chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam tỉnh Vĩnh Long. Đổi lại, bà phải dùng quyền sử dụng đất để bảo
lãnh hợp đồng vay 300 triệu, thời hạn 6 tháng giữa công ty Miền Tây và phía
ngân hàng. Bà H đã giao bản chính sổ đỏ cho chi nhánh ngân hàng. Như vậy, các
bên đã thỏa thuận về việc thực hiện một biện pháp bảo lãnh cho khoản nợ của
công ty Miền Tây, cụ thể sẽ có sự thỏa thuận về đối
tượng, phạm vi, cách xử lý tài sản bảo đảm...
Thứ hai, biện pháp bảo lãnh làm phát sinh nghĩa vụ bổ sung cho nghĩa
vụ chính. Nghĩa vụ bảo lãnh phụ thuộc và chỉ có giá trị với nghĩa vụ chính
(nghĩa vụ được bảo lãnh). Sự phụ thuộc này thể hiện ở chỗ: khi quan hệ nghĩa vụ
chính được xác lập mà cần có sự bảo đảm thì các bên mới cùng nhau thỏa thuận sử
dụng biện pháp bảo lãnh. Đồng thời, nghĩa vụ chính là cơ sở để quy định thời
hạn, phạm vi, hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh.
Ban đầu chỉ có sự thỏa
thuận về việc bà H nhờ công ty Miền Tây vay vốn ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tỉnh
Vĩnh Long cho con bà có tiền làm ăn, tuy nhiên xuất hiện điều kiện là bà H phải
bảo lãnh cho khoản vay 300 triệu của công ty đối với ngân hàng, do đó phát sinh
thêm hợp đồng bảo lãnh của bà H với ngân hàng, theo đó bà H giao sổ đỏ cho ngân
hàng để bảo đảm cho nghĩa vụ của công ty Miền Tây, như vậy, nghĩa vụ bảo lãnh
được xác định là nghĩa vụ bổ sung đối với nghĩa vụ chính giữa công ty Miền Tây
và ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tỉnh Vĩnh Long.
Thứ ba, đối tượng của biện pháp bảo lãnh là những lợi ích vật chất.
Với bản chất của bảo lãnh là “sự thực
hiện thay nghĩa vụ” nên đối tượng của biện pháp bảo lãnh phụ thuộc vào đối
tượng của nghĩa vụ được bảo lãnh. Nếu đối tượng của nghĩa vụ được bảo lãnh là
việc thực hiện một công việc thì đối tượng của bảo lãnh phải là việc thực hiện
một công việc, với điều kiện người bảo lãnh phải có khả năng thực hiện công
việc đó. Nếu đối tượng của nghĩa vụ được bảo lãnh là tài sản thì đối tượng của
bảo lãnh phải là một tài sản thuộc sở hữu của người bảo lãnh.
Như vậy, đối tượng của
nghĩa vụ chính là khoản vay 300 triệu thò đối tượng của nghĩa vụ bảo lãnh được
xác định là quyền sử dụng đất của bà H.
Thứ tư, phạm vi bảo đảm của biện pháp bảo lãnh không vượt quá phạm
vi nghĩa vụ đã được xác định trong quan hệ nghĩa vụ chính. Điều 363 BLDS 2005
quy định: “Bên bảo lãnh có thể cam kết
bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh”. Trong
trường hợp không có thỏa thuận, khi có sự vi phạm nghĩa vụ, bên bảo lãnh phải
thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Nếu các bên có thỏa
thuận về phạm vi bảo lãnh thì bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
trong phạm vi đó, bên nhận bảo lãnh không có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực
hiện vượt quá phạm vi bảo lãnh mà các bên đã thỏa thuận.
Trong vụ việc trên, các
bên đã có sự cam kết về việc bà H dùng quyền sử dụng đất của mình để đảm bảo
cho khoản vay 300 triệu của công ty Miền Tây, do đó phạm vi bảo đảm trong
trường hợp này là toàn bộ nghĩa vụ chính đó.
Thứ năm, bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi đã
đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ của bên
được bảo lãnh nhưng bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ trước bên có quyền. Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận về việc bên
bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ (Điều 41 Nghị định 163/2006/NĐ-CP).
Ngân
hàng chỉ được xử lý tài sản thi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà công ty Miền Tây
không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ, tuy nhiên trong phiên tòa
sơ thẩm và phúc thẩm lại có ý kiến trái chiều về việc hoàn thành nghĩa vụ của công
ty Miền Tây từ phía ngân hàng. Do vậy, nếu xác định được chắc chắn công ty Miền
Tây đã thực hiện xong nghĩa vụ thì ngân hàng phải trả lại sổ đỏ cho bà H.
Bên cạnh những đặc điểm
chung nêu trên, biện pháp bảo lãnh theo pháp luật hiện hành còn có những đặc
điểm riêng như sau:
Một là, biện pháp bảo lãnh luôn có sự xuất hiện của người thứ ba,
tức là chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh luôn có ba bên, tạo thành “mối quan hệ
tay ba khép kín giữa người bảo lãnh, người nhận bảo lãnh và người được bảo lãnh
bảo lãnh”. Thông qua sự cam kết của người bảo lãnh đối với người có quyền (với
điều kiện bên có quyền đồng ý), quan hệ bảo lãnh được hình thành, làm phát sinh
thêm hai quan hệ bên cạnh quan hệ nghĩa vụ chính như sau: quan hệ giữa người
thứ ba (bên bảo lãnh) với người có quyền (bên nhận bảo lãnh), quan hệ giữa
người thứ ba (bên bảo lãnh) với người có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh). Hai quan
hệ này cùng với quan hệ nghĩa vụ chính tạo thành một vòng tròn khép kín, có sự
tác động lẫn nhau. Đây là đặc điểm giúp phân biệt bảo lãnh với các biện pháp
bảo đảm khác như cầm cố, thế chấp.
Ta xác định trong vụ việc
này thì bên bảo lãnh là bà H, bên nhận bảo lãnh là ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tỉnh
Vĩnh Long và bên được bảo lãnh là công ty TNHH Miền Tây. Hai chủ thể trực tiếp
trong quan hệ bảo lãnh chính là bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, còn bên được
bảo lãnh là công ty TNHH Miền Tây chỉ là chủ thể có nghĩa vụ trong nghĩa vụ
chính với ngân hàng và trong nghĩa vụ hoàn trả đối với bà H.
Hai là, bảo lãnh là biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân. Để
xác định một biện pháp bảo đảm có tính chất đối nhân hay đối vật cần phải căn
cứ vào việc bên bảo đảm có hay không có tài sản bảo đảm và bên có quyền được
thực hiện quyền như thế nào trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ. Trong bảo đảm đối vật, cái mà người có
quyền quan tâm là tài sản cụ thể đưa ra bảo đảm và khi có sự vi phạm nghĩa vụ,
bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm đó. Đối với biện pháp bảo đảm
đối nhân, khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ thì bên có quyền chỉ có thể bảo đảm quyền của mình thông qua sự thực hiện
nghĩa vụ bảo đảm của bên bảo đảm, mà không có quyền gì đối với tài sản của bên
bảo đảm. Trong bảo lãnh, bên bảo lãnh không bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của
chính mình mà cam kết bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác. Bên có quyền
chỉ được trao quyền yêu cầu đối với bên bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh và không được trao quyền đối với một tài sản cụ thể nào của bên bảo lãnh,
do đó bảo lãnh trong BLDS 2005 là biện pháp bảo đảm đối nhân.
Điều 44 Nghị định số 163/2006/NĐ – CP
quy định về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nghĩa vụ của bên được bảo lãnh
đối với bên bảo lãnh “Các bên có thể thoả
thuận về việc xác lập giao dịch bảo đảm để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh,
nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh theo quy định của Bộ luật
Dân sự, Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan”.
Bà H là bên bảo lãnh đã xác lập một hợp
đồng là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh của mình đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Vĩnh
Long là bên nhận bảo lãnh về hợp đồng vay tay sản của công ty TNHH Miền Tây là
bên được bảo lãnh. Như vậy đây là trường hơp ngoại lệ của bảo lãnh, theo đó chủ
thể thế chấp tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nên ta xác định ở đây là
quan hệ bảo lãnh đối vật.
Mâu thuẫn bạn đầu của sự việc xuất
phát từ việc ngân hàng giữ sổ đỏ của bà H, mặc dù đã thanh lý hợp đồng vay với
công ty TNHH Miền Tây, điều này dẫn đến bà H khởi kiện đồi ngân hàng phải trả
lại sổ đỏ cho mình.
Trong phiên tòa sơ thẩm, căn cứ vào
những chứng cứ của 2 bên đưa ra, tòa án đã đồng tình với quan điểm của ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Vĩnh Long đó là công ty TNHH Miền
Tây chưa hoàn thành nghĩa vụ trả nợ và ngân hàng vẫn được giữ sổ đỏ của bà H và
bác đơn kiện của bà H.
Tuy nhiên, bà H đã tiếp tục kiện ngân
hàng, và trong phiên tòa phúc thẩm, có thêm những tình tiết mới. Sự xuất hiện
bên có quyền là chồng bà H cho rằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng, do đó bà H
chưa được sự đồng ý của ông là không được. Vậy hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh
có còn tồn tại?
Cũng tại phiên tòa phúc
thẩm, Ngân hàng lại trả lời rằng công ty Miền Tây đã hoàn thành khoản nợ 300
triệu, tuy nhiên lại đưa ra lý do là việc vay, cho vay giữa ngân hàng với công
ty Miền Tây là luân chuyển, hết hợp đồng này thì tiếp hợp đồng khác( từ năm
2004, phía ngân hàng đã cho công ty vay thêm 10 hợp đồng ngắn hạn). Vì thế, giấy
tờ thế chấp bảo lãnh của bà H phải được tiếp tục giữ lại. Như vậy, từ việc mâu
thuẩn lời khai của ngân hàng và lý lẽ của họ có được cho là hợp lý để tiếp tục
giữ sổ đỏ của bà H? Và phải chăng, mọi giao dịch giữa ngân hàng và công ty Miền
Tây đều được bảo lãnh bởi chính quyền sử dụng đất đó?
Thực tế, tòa phúc thẩm chấp
nhận kháng cáo của vợ chồng bà H, sửa bản án sơ thẩm, hủy hợp đồng thế chấp bảo
lãnh, yêu cầu chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam tỉnh Vĩnh Long
trả lại sổ đỏ cho vợ chồng bà H.
1. Bình luận các quy định của pháp luật về bảo lãnh
Một là, trong một số vụ tranh chấp liên quan đến quan hệ bảo lãnh, người được bảo
lãnh không thực hiện hết trách nhiệm của mình và đẩy hết rủi ro cho bên bảo
lãnh. Quy định tại Ðiều 41 Nghị định 163/2006, tại khoản 2 và 3, căn cứ thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh ngay cả khi nghĩa vụ chưa đến hạn (điều này sẽ khiến cho bên
bảo lãnh rơi vào thế bị động) hoặc bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ. Việc xác định “thời điểm trước
khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ” và “không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ” theo khoản 2, 3, Ðiều 41 Nghị định 163/2006
được thể hiện dựa trên những tiêu chí nào là điều không đơn giản. Nếu bên bảo
lãnh không nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật, vì “nể” mà đứng ra bảo lãnh sẽ rất có thể sẽ phải chịu rủi ro. Việc quy
trách nhiệm cho bên bảo lãnh vô hình chung làm giảm trách nhiệm của bên được bảo
lãnh. Vậy nên quy định bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi
đưa ra được bằng chứng chứng minh bên được bảo lãnh hoàn toàn không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ. Có như vậy mới bảo vệ được quyền lợi tối đa đối với các bên
tham gia quan hệ nghĩa vụ.
Hai là, quan hệ bảo lãnh có liên quan đến việc cầm cố, thế chấp tài sản, nếu
pháp luật có quy định phải đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng hay chứng thực,
thì vấn đề đặt ra ở đây là có phải làm các thủ tục với cả thỏa thuận bảo lãnh
hay chỉ phải làm các thủ tục với thỏa thuận cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ
ba? Bởi trên thực tế, có một số trường hợp thỏa thuận bảo lãnh có kèm theo các
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng cũng có trường hợp hai văn bản này
được lập riêng. Căn cứ theo Ðiều 3 Nghị định 83/2010, thì bảo lãnh không thuộc
trường hợp phải đăng ký giao dịch bảo đảm. Ðiều này cũng không quy định trường
hợp bảo lãnh có kèm theo biện pháp cầm cố thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh
thì phải đăng ký. Nhưng trên thực tế, nhiều giao dịch bảo lãnh có kèm theo tài
sản thế chấp nghĩa vụ bảo lãnh đã bị tòa án tuyên vô hiệu do không đăng ký giao
dịch bảo đảm. Ðể đảm bảo sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng luật, tôi kiến
nghị nên có hướng dẫn cụ thể hơn về trường hợp thế chấp, cầm cố tài sản của bên
bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh theo hướng yêu cầu các bên phải đăng ký giao dịch
bảo đảm (hoặc công chứng, chứng thực) cả thỏa thuận bảo lãnh và biện pháp cầm cố,
thế chấp đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh nếu pháp luật yêu cầu tài sản đó phải tuân
thủ các thủ tục này.
Ba là, Bộ luật Dân sự Việt Nam cần thể hiện rõ nét các quan điểm pháp lý về biện
pháp bảo đảm đối nhân trong các quy định về bảo lãnh. (Ví dụ: Đối với biện pháp
bảo lãnh thì thứ tự ưu tiên thanh toán (tính đối kháng với người thứ ba) không
đặt ra hoặc bắt buộc phải có quy định về giá trị tối đa của nghĩa vụ bảo lãnh với
nghĩa vụ được bảo lãnh). Quy định hiện hành của Bộ luật Dân sự Việt Nam dễ dẫn
đến những nhầm lẫn trong cách tiếp cận, giải quyết hợp đồng bảo lãnh, do vậy
trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tòa án vẫn có quan điểm là việc một người
dùng tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ của người khác là xác lập quan hệ bảo
lãnh.
2. So sánh quy định của pháp luật về bảo lãnh trong các bộ luật
dân sự
Chế định bảo lãnh theo luật
2015, nhìn chung quy định có phần cụ thể
hơn những quy định về bảo lãnh trong luật dân sự 2005. Tuy nhiên, từ đó
cũng dẫn đến hạn chế đó là quy định dài dòng,ko mạch lạc, dễ gây nhầm lẫn.
Điểm mới:
- Khoản 2 điều 336 Bộ luật
dân sự 2015, mở rộng phạm vi bảo lãnh, cụ thể là: “Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả
tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm
trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. đã bổ sung thêm so với “ Điều 363. Phạm vi bảo lãnh” của Bộ luật dân
sự 2005 là “lãi trên số tiền chậm trả”.
Quy định này nhằm làm rõ hơn điều luật, tránh gây tranh cãi cho các bên khi
tham gia quan hệ bảo lãnh. Đồng thời, bảo vệ người nhận bảo lãnh tốt hơn.
- Điều 336 về phạm vi bảo
lãnh trong blds 2015:, nhà làm luật đã đưa quy định của điều 44 nghị định
163/2006 vào khoản 3 Điều 336 luật dân sự 2015.
- Khoản 4 điều 336 luật
dân sự 2015 là hoàn toàn mới, có nội dung rằng: nếu nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa
vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát
sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại. Trước
đây, Điều 48 nghị định 163/2006. Quy định về : “Thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh trong trường hợp bên bảo lãnh là doanh nghiệp bị phá sản, bên bảo lãnh là
cá nhân chết hoặc bị Toà án tuyên bố đã chết”, theo đó, trừ trường hợp cá nhân
phải đích thân thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà cá nhân này chết thì nghĩa vụ bảo
lãnh mới chấm dứt, còn lại các trường hợp khác theo khoản 1 và điểm b khoản 2
thì vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Còn hiện nay theo luật dân sự
2015, đã quy định rõ ,sau khi cá nhân chết hoặc tổ chức đứng ra bảo lãnh chám dứt
hoạt động thì nghĩa vụ bảo lãnh cũng chấm dứt theo. Có thể nhà làm luật đã áp dụng
nguyên tắc suy luận có lợi cho bên yếu thế - ở đây bên bảo lãnh.
- Pháp luật về bảo lãnh mở
rộng thêm quyền cho các chủ thể để các bên tự do thỏa thuận nhiều hơn, biểu hiện
là điều luật về “Hình thức bảo lãnh” ko quy định nữa. Điều 370 Bộ luật dân sự
2005 về “Hủy bỏ việc bảo lãnh”, cũng đã được loại bỏ.
- Điều 341 Bộ luật ân sự
2015, miễn thực hiện nghĩa vụ: khi bên có quyền miễn cho bên bảo lãnh ko phải
thực hiện nghĩa vụ nữa thì đồng thời bên có nghĩa vụ cũng được miễn luôn, trừ
có thỏa thuận khác. trước kia theo luật dân sự 2005, khi bên có quyền miễn việc
thực hiện nghãi vụ cho bên bảo lãnh thì bên có nghĩa vụ vẫn phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ. Theo chúng em, đây là nguyên tắc suy đoán có lợi cho bên yếu thế
- bên có nghĩa vụ.
C. KẾT
LUẬN:
Bảo lãnh là một biện pháp
bảo đảm được áp dụng rộng rãi và thể hiện nhiều trong các giao dịch dân sự hiện
nay. Tuy nhiên, xung quanh chế định này vẫn còn một số vướng mắc và tiềm ẩn
tranh chấp. Do vậy, việc nghiên cứu, dự liệu và hoàn thiện các quy định pháp luật
liên quan đến bảo lãnh là một trong những yêu cầu cần thiết để hoàn thiện hơn nữa
hành lang pháp lý về các biện pháp bảo đảm nói chung, bảo lãnh nói riêng đối với
các giao dịch dân sự.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà
Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân năm 2006
2. TS. Lê Đình Nghị, Giáo
trình Luật dân sự Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2009.
3. PGS. TS. Đỗ Văn Đại,
Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận
bản án, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2012
4. TS. Nguyễn Ngọc Điện,
Bình luận khoa học về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong Luật dân sự Việt Nam,
Nxb Trẻ, năm 2001.
5. TS. Phạm Văn Tuyết, LS
Lê Kim Giang, Hướng dẫn môn học luật dân sự 2, Nxb Tư pháp, 2015.
6. ThS. Bùi Đức Giang, Chế
định bảo lãnh của Việt Nam nhìn từ góc độ của Luật so sánh, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 16/2012, trang 29 – 36
7. ThS. Phạm Văn Tuyết,
Bàn về biện pháp bảo lãnh, Tạp chí Luật học, số 1/1999, tr. 30 - 33
8. TS. Tuấn Đạo Thanh, Thế
chấp, bảo lãnh để bảo đảm nghĩa vụ của bên thứ ba qua thực tiễn hoạt động công
chứng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề 5/2012, trang 7 – 15.
*Văn bản pháp luật:
1. Bộ luật dân sự năm
2005
2. Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29/12/2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm
3. Nghị định số
11/2012/NĐ-CP ban hành ngày 22/02/2012 của Chính phủ Về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm