Công ty hợp danh là một loại hình doanh
nghiệp có từ lâu trong lịch sử loài người. Tuy nhiên, loại hình này mới chỉ được
ghi nhận trong pháp luật của Việt Nam chưa lâu. Lần đầu tiên loại hình doanh
nghiệp này được ghi nhận là ở Luật Doanh nghiệp năm 1999[1]. Những quy định hiện
hành về công ty hợp danh tập trung trong Luật Doanh nghiệp năm 2005. Theo đó,
công ty hợp danh có dấu hiệu pháp lý mang tính đặc thù: có tư cách pháp
nhân[2]. Đây là điểm khác biệt so với những quy định trước đây[3] cũng như là
điểm khác biệt lớn nếu so sánh với pháp luật các nước trên thế giới, bởi công
ty hợp danh ở các nước nói chung không có tư cách pháp nhân. Tại sao pháp luật
Việt Nam lại quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân? Xác định tư cách
pháp nhân đó có lợi ích gì? Dưới đây, bước đầu chúng tôi sẽ góp phần làm rõ vấn
đề này.
1. Vài nét sơ lược về lịch sử hình thành quy định
về hợp danh trên thế giới
Hợp danh theo nghĩa rộng xuất hiện từ rất sớm
trong lịch sử. Những chỉ dẫn đầu tiên tới hình thức này là trong Bộ luật
Hammurabi của Babylon, khoảng năm 2300 trước Công nguyên. Người Do Thái, vào
khoảng những năm 2000 trước Công nguyên đã hình thành thuật ngữ shutolin (một dạng
hợp danh phi thương mại). Sau này, những hợp danh mang tính chất thương mại của
người Do Thái hình thành từ những đoàn hội buôn[4].
ở châu Âu, luật về hợp danh hình thành từ tập quán
của các thương nhân. Người Pháp dùng các thuật ngữ như societas, societe en
common dite để chỉ các hình thức hợp danh. Societas là hình thức hợp danh chỉ
bao gồm các thành viên hợp danh, còn societe en common dite bao gồm cả thành
viên hợp danh và thành viên góp vốn[5].
Hợp danh được quy định trong Luật La mã (ví dụ như
Bộ luật Justinian) với những điều khoản rất tương đồng với luật hiện đại. Người
La mã cũng hình thành nên những quy định về đại diện, nền tảng của rất nhiều
quy định của luật về hợp danh ngày nay. Ví dụ, Luật La mã có quy định qui facit
per alium facit per se - người thực hiện hành vi thông qua hành vi của người
khác cho bản thân người đó. Luật La mã cũng xác định sự lựa chọn tự nguyện của
những người cộng tác với nhau bản chất của hợp danh, và nguyên tắc được gọi tên
delectus personas - sự lựa chọn của cá nhân, cho đến nay vẫn là thành tố mang
tính trung tâm của luật về hợp danh[6].
Người phương Đông cũng không xa lạ với phường, hội,
cuộc và đủ loại liên kết bạn buôn. Tuy nhiên mô hình hội người (societas) theo
dân luật – thương luật hay mô hình hợp danh (partnership) theo pháp luật Anh –
Mỹ mới chỉ được du nhập trong một, hai thế kỷ trở lại đây[7].
2. Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh – quy
định mang tính đặc thù
Tư cách pháp lý của công ty hợp danh theo pháp luật
Việt Nam là một đặc điểm mang tính đặc thù. Theo quy định hiện hành, công ty hợp
danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh[8]. Tại sao pháp luật Việt Nam lại quy định công ty hợp danh có tư cách
pháp nhân trong khi các quốc gia trên thế giới hầu hết quy định công ty hợp
danh không có tư cách pháp nhân? Khi xây dựng Luật Doanh nghiệp năm 2005, quy định
công ty hợp danh có tư cách pháp nhân đã dẫn đến nhiều tranh cãi. Một số quan
điểm cho rằng, không nên công nhận tư cách pháp nhân của công ty bởi hai lý do
chính như sau:
Thứ nhất, việc thừa nhận tư cách pháp nhân mâu thuẫn
với Bộ luật Dân sự. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi hội đủ bốn điều
kiện: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập;
có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập[9].
Thứ hai, hầu hết các nước trên thế giới đều quy định
công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân[10].
Quan điểm ngược lại cho rằng, khó có thể chứng
minh việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh là mâu thuẫn với Bộ
luật Dân sự và nếu chứng minh được thì cũng không có ảnh hưởng gì về lý luận
pháp lý, bởi Bộ luật Dân sự là luật chung còn Luật Doanh nghiệp là luật chuyên
ngành[11]; việc thừa nhận này có thể coi là một ngoại lệ của Bộ luật Dân sự[12].
Đồng thời, khi trích dẫn pháp luật nước ngoài cho rằng công ty hợp danh không
có tư cách pháp nhân, những người viện dẫn đã không xem xét cụ thể những quy định
để công ty hợp danh có thể tham gia giao dịch với người thứ ba và tham gia hoạt
động tố tụng[13]. Để chứng minh cho tính hợp lý của việc thừa nhận tư cách pháp
nhân của công ty hợp danh, ngoài việc phản biện hai ý nêu trên, một số nhà khoa
học đưa ra thêm hai lý do sau[14]: trước hết, pháp luật Việt Nam quy định rằng
tổ chức tham gia một ngành nghề nào đó phải có tư cách pháp nhân. Vì vậy, việc
thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh cho phép loại hình doanh nghiệp
này được quyền tham gia những ngành nghề đó; thứ hai, việc thừa nhận tư cách
pháp nhân của công ty hợp danh là điều đơn giản và dễ dàng hơn việc xây dựng một
loạt khái niệm pháp luật và kỹ thuật pháp lý khác để công ty hợp danh có thể
tham gia giao dịch với bên thứ ba và tham gia vào hoạt động tố tụng.
Đó là những tranh luận từ trước khi Luật Doanh
nghiệp năm 2005 được ban hành. Đến thời điểm này, các quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005 đã đi vào cuộc sống. Việc xem xét tính đúng đắn của các quan điểm
trên có thể thông qua mấy điểm sau đây:
Một là, những quy định về tính độc lập về tài sản
của công ty hợp danh là chưa triệt để. Luật Doanh nghiệp năm 2005 tại 132.1 có
quy định về việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn của thành viên thành tài sản
của công ty để khẳng định tính độc lập về tài sản của công ty hợp danh với các
thành viên tạo ra nó. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp lại đồng thời quy định chế độ
chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của của
công ty. Chế độ này được hiểu là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình của mình về các nghĩa vụ của công ty[15]. Cụ thể hơn, đối với
những khoản nợ của công ty, thành viên hợp danh có nghĩa vụ chịu trách nhiệm
thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để
trang trải số nợ của công ty[16]. Như vậy, thành viên hợp danh sẽ phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, không kể là tài sản đã chuyển quyền
sở hữu cho công ty hay tài sản của cá nhân không đưa vào tài sản công ty.
Thêm vào đó, 94.3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Thành viên pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với
nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện”. Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn
của thành viên hợp danh, như đã nói ở trên, xác lập việc các thành viên hợp
danh chịu trách nhiệm trả nợ bằng tài sản cá nhân của mình đối với các khoản nợ
công ty không có khả năng thanh toán. Nếu chiểu đặc điểm này vào 94.3 thì trái
hoàn toàn.
Hai là, nguyên tắc lex generalis – lex specialis
thông thường chỉ áp dụng khi chính luật được coi là luật riêng (lex specialis)
tự xác định ưu tiên trong nội dung của luật đó. Ví dụ, trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, Luật Cạnh tranh năm 2004 tự xác định tính ưu tiên áp dụng so với luật
khác. Cụ thể, Luật Cạnh tranh có quy định: “Trường hợp có sự khác nhau giữa quy
định của luật này với quy định của luật khác về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh
tranh không lành mạnh thì áp dụng quy định của luật này”[17]. Trong khi Luật
Doanh nghiệp năm 2005 không có những quy định tương tự. Vì vậy, khẳng định việc
quy định tư cách pháp nhân cho công ty hợp danh là một ngoại lệ so với những
quy định của luật chung là Bộ luật Dân sự chỉ đơn thuần là suy luận mang tính học
thuật, không có giá trị pháp lý xác định.
3. Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh – quy
định không phù hợp với lợi ích
Khi nào thì luật pháp cần phải quy định cho một tổ
chức có tư cách pháp nhân? Quy định tư cách pháp nhân cho một tổ chức có lợi
ích cơ bản gì?
Việc quy định tư cách pháp nhân cho một tổ chức
hay đúng hơn là việc hình thành khái niệm pháp nhân đem lại nhiều lợi ích. Giáo
sư Jean Claude Ricci dẫn ra đây hai lợi ích cơ bản sau đây[18]:
Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống
pháp luật được đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng
ta hãy đặt giả thiết là không có pháp nhân mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi
thể nhân thành viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý.
Hậu quả sẽ rất phức tạp.
Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống
pháp luật được ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta
thường hay nói rằng, pháp nhân không gặp phải những thay đổi bất ngờ như thể
nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn cuộc sống của một con
người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp nhân
không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó.
Nếu đối chiếu bản chất của loại hình công ty hợp
danh vào hai lợi ích được dẫn ra trên, thì có thể thấy sự không phù hợp cơ bản
khi quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân.
Đối chiếu với lợi ích thứ nhất, công ty hợp danh
không cần đến tư cách pháp nhân để làm đơn giản hóa pháp luật. Bản chất của các
quy định của công ty hợp danh là tôn trọng tính thỏa thuận giữa các thành viên
hợp danh và các nguyên tắc về đại diện. Số lượng thành viên hợp danh trong công
ty hợp danh rất ít. Đặc biệt, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, mô
hình công ty hợp danh ở Việt Nam là mô hình đóng kín giữa những thân hữu có thể
tin tưởng lẫn nhau[19]. Một thành viên có quyền đại diện cho các thành viên còn
lại trong việc ký kết giao dịch với bên thứ ba mà không gặp trở ngại nào.
Đối chiếu với lợi ích thứ hai, khác với các loại
hình công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh trong
trường hợp gặp sự cố đối với thành viên hợp danh thì có thể chấm dứt sự tồn tại
của nó. Chẳng hạn, nếu công ty hợp danh chỉ có hai thành viên hợp danh mà một
người đột ngột qua đời thì công ty hợp danh đứng trước nguy cơ giải thế rất
cao[20] nếu thành viên còn lại không tìm được người để tiếp tục hợp danh.
4. Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh nhìn
từ lợi ích của thành viên hợp danh
Xét từ góc độ lợi ích của thành viên hợp danh, thì
sự tồn tại của tư cách pháp nhân của công ty hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm
vô hạn không mang lại lợi ích lớn. ở một chừng mực nào đó, nó còn là sự cản trở.
ở hầu hết các nước, do việc xác định hợp danh là sự
liên kết của hai hay nhiều người cùng hùn vốn, tạo tài sản chung, chia sẻ quyền
điều hành, cùng chịu lỗ hưởng lãi nên pháp luật đề cao sự thỏa thuận, không bắt
buộc phải đăng ký kinh doanh[21]. Với điều kiện như vậy, pháp luật nhiều nước
không đánh thuế thu nhập đối với công ty hợp danh, từng thành viên chịu thuế với
phần thu nhập cá nhân của riêng mình. Lợi ích của những cá nhân tham gia vào hợp
danh thông thường là những cá nhân này sẽ không phải chịu thuế hai lần (double
taxation)[22]. Khác với loại hình hợp danh ở các nước khác, công ty hợp danh ở
Việt Nam do có tư cách pháp nhân nên đương nhiên phải chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp[23]. Khoản lợi nhuận sau thuế chia cho thành viên hợp danh có thể sẽ bị
đánh thuế một lần nữa[24]. Lợi ích của các thành viên rõ ràng là bị ảnh hưởng lớn,
trong khi họ đồng thời phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của
công ty.
Cũng vì các lý do đó, mà công ty hợp danh theo luật
Việt Nam là mô hình kém hấp dẫn nhà đầu tư[25]. Điều đó thể hiện qua các con số
thống kế trên thực tế về số lượng của các doanh nghiệp theo loại hình này. Theo
thống kê doanh nghiệp của Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội, cho đến ngày
20/11/2007, Hà Nội chỉ có 17 công ty hợp danh so với 33.327 công ty trách nhiệm
hữu hạn, 21.061 công ty cổ phần, 2.921 doanh nghiệp tư nhân, 2.137 công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên[26]. Như vậy, có thể thấy số lượng công ty hợp
danh là quá ít ỏi so với số lượng các doanh nghiệp thuộc các loại hình khác.
Trong một nỗ lực giải quyết tính kém hấp dẫn của
mô hình công ty hợp danh, Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định thành
viên hợp danh không phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với phần lợi nhuận sau
thuế thu nhập doanh nghiệp của công ty hợp danh[27]. Tuy nhiên, cách xử lý này
bị phản đối gay gắt[28], và ngày 20/11/2007, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
Thuế thu nhập cá nhân, vói quy định thành viên hợp danh vẫn phải chịu thuế thu
nhập cá nhân.
5. Kết luận
Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh là một điểm
đặc thù của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Lợi ích của quy định này nhìn chung là
không cao, thậm chí còn hạn chế sự phát triển của loại hình công ty này. Không
chỉ riêng các quy định về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh mà nhiều quy định
khác của Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng phản ánh một hiện trạng chung về sự
phát triển của chế định công ty trong pháp luật Việt Nam, đó là hướng phát triển
tương đối khác với hầu hết các nước trên thế giới. ở nhiều nước, công ty có trước,
sau đó mới có luật pháp điều chỉnh nó. Còn ở Việt Nam, nhiều loại hình doanh
nghiệp chỉ được hình thành sau khi Luật Công ty năm 1990 và các văn bản tiếp
sau nó ra đời[29]. Đối với công ty hợp danh, quy định tư cách pháp nhân của
công ty hợp danh đã bộc lộ tính bất hợp lý qua các phân tích trên. Theo chúng
tôi, cần tham khảo thêm pháp luật một số nước có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh
vực này, để có quy định hợp lý hơn về công ty hợp danh, tạo điều kiện cho giới
doanh nhân có thêm một mô hình doanh nghiệp để lựa chọn cho phù hợp với ý tưởng
kinh doanh của mình; đồng thời, cũng là để phù hợp với xu thế chung của thế giới
khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế gi?i (WTO).
1 nhận xét:
Write nhận xétCho mình xin footnote ạ
Reply