Đình
chỉ THADS được hiểu là việc cơ quan THADS mà cụ thể là Thủ trưởng cơ quan bằng
một quyết định cụ thể làm chấm dứt một quan hệ thi hành án cụ thể hay nói cách
khác là chấm dứt vai trò của Chấp hành viên đối với việc thi hành án đó khi có
một trong các căn cứ do pháp luật quy định.
Trong
một số trường hợp, việc đình chỉ thi hành án chỉ làm chấm dứt một quan hệ pháp
luật thi hành án mà không làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ đã được
ấn định trong Bản án, quyết định.
Quy
định về đình chỉ thi hành án dân sự được quy định cụ thể tại Điều 50 Luật Thi
hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Đặc điểm của đình chỉ thi hành án là việc
chấm dứt thi hành đối với các bản án, quyết định dân sự. Do đó, sau khi có quyết
định đình chỉ thi hành án, các hoạt động thi hành án được ngừng lại hẳn, các
bên đương sự cũng chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ của họ đã tuyên trong bản án,
kể cả nghĩa vụ đối với Nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, do
vậy cơ quan THADS không thụ lý ra quyết định thi hành án mà hướng dẫn đương sự
yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án (Khoản 1 Điều 35 của Nghị định
số 61/2009/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 135/2013/NĐ-CP của
Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại quy định: “Cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm,
người yêu cầu chỉ có quyền làm đơn yêu cầu một Văn phòng Thừa phát lại hoặc cơ
quan THADS tổ chức thi hành án”. Chưa có văn bản nào quy định về việc Văn
phòng Thừa phát lại không được thụ lý các vụ việc thi hành án mà cơ quan THADS đã
ra quyết định đình chỉ thi hành án.
Hoặc cơ quan THADS có thể hướng dẫn đương
sự khởi kiện tại Tòa án để đảm bảo quyền lợi chính đáng với lý do ở giai đoạn
thi hành án hai bên đã thực hiện một giao dịch mới có điều kiện khác (ví dụ
giao tài sản như nhà, đất… trừ nợ, nếu không giao phải trả thêm tiền lãi…),
giao dịch mới này không trái pháp luật, đạo đức và đã phát sinh tranh chấp. Tuy
nhiên, vấn đề này có ý kiến cho rằng không thể kiện lại được vì một tranh chấp
không thể giải quyết hai lần.[1]
Thứ nhất,
người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật
nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người
thừa kế (Điểm a Khoản 1 Điều 50).Theo đó, cần phải làm rõ 02 trường hợp:
- Trường hợp 1: Người phải thi hành
án chết không để lại di sản.Đối với cả các nghĩa vụ
có thể chuyển giao hay không thể chuyển giao cho người khác, chỉ cần xác định
được người phải thi hành án đã chết (về mặt pháp lý nhất thiết phải có giấy chứng
tử của UBND cấp xã nơi người phải thi hành án chết cấp) mà không có di sản để lại
thì hồ sơ thi hành án chỉ cần thu thập được giấy chứng tử và biên bản xác minh
tài sản của Chấp hành viên là hoàn toàn có đủ căn cứ ra quyết định đình chỉ thi
hành án.
- Trường hợp 2: Nghĩa vụ của người phải
thi hành án theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế
theo quy định của pháp luật.Trong trường hợp này, đặc
thù của loại nghĩa vụ của người phải thi hành án là được pháp luật quy định
nghĩa vụ đó chỉ gắn với người phải thi hành án mà không ai được thực hiện thay
vì vậy dù người phải thi hành án chết có để lại di sản đi nữa thì cũng không có
giá trị gì, cơ quan THADS hoàn toàn có đủ căn cứ để ra quyết định đình chỉ thi
hành án. Ví dụ: Khoản 1 Điều 107 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: “... nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng
nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.”
Thứ hai,
người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của
người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc
không có người thừa kế (Điểm b Khoản 1 Điều 50).Theo quy định này, cần làm rõ
02 trường hợp:
- Trường hợp 1: Pháp luật đã có quy định
quyền và lợi ích của người được thi hành án theo bản án, quyết định không được
chuyển giao cho người khác.Tương tự như quy định ở trên, ở đây
là trường hợp quyền và lợi ích chỉ được trao cho một người nhất định, người
khác không thể thụ hưởng thay khi người đó chết đi. Trong quy định tại Khoản 1
Điều 107 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì khi người được cấp dưỡng chết thì
quyền được cấp dưỡng cũng mất và quan hệ cấp dưỡng cũng sẽ chấm dứt.
- Trường hợp 2: Quyền và lợi ích của
người được thi hành án có thể chuyển giao cho người khác nhưng lại không có người
thừa kế thụ hưởng quyền này. Để đình chỉ thi hành án
thuộc trường hợp này, cần phải xác định rõ có hay không có những người thừa kế
theo quy định tại Bộ luật Dân sự.
Thứ ba,
đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu
cầu cơ quan THADS không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ
thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba (Điểm c Khoản
1 Điều 50).Theo căn cứ này, cần làm rõ 02 trường hợp:
- Trường hợp 1: Đương sự có thoả thuận
bằng văn bản yêu cầu cơ quan THADS không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường
hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
thứ ba.Bản chất đây là một trường hợp thoả thuận trong THADS
nên nội dung và hình thức thoả thuận cũng phải tuân thủ các quy định chung về
thoả thuận thi hành án.
- Trường hợp 2: Người được thi hành
án có văn bản yêu cầu cơ quan THADSkhông tiếp tục tổ chức thi hành nữa, trừ trường
hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
thứ ba.Cũng tương tự như trong trường hợp trên, nhưng ở đây
chỉ cần ý kiến đơn phương bằng văn bản của người được thi hành án mà không cần
phải là ý kiến thống nhất của cả hai bên đương sự.
Quy
định này của Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã khắc phục được tình trạng người
phải thi hành án lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người được thi hành án đã đạt
được thỏa thuận không tiếp tục việc thi hành án, dẫn đến việc cơ quan THADS phải
đình chỉ thi hành án theo quy định, nhưng sau đó, người phải thi hành án đã
không giữ đúng cam kết khi thỏa thuận với người được thi hành án, người được
thi hành án yêu cầu cơ quan THADS tiếp tục thi hành án nhưng việc thi hành án
đã bị đình chỉ[2].
Thứ tư,
bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ.
Đối với bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu
lực pháp luật (hoặc bản án, quyết định sơ thẩm được đưa ra thi hành ngay theo
quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật THADS)
và bản án, quyết định phúc thẩm, cơ quan THADS đang tổ chức thi hành mà có
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì nếu bản án chưa được thi
hành xong một phần hoặc toàn bộ, thông thường kèm theo Quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ có nội dung tạm đình chỉ thi hành án và khi đó Thủ
trưởng cơ quan THADS phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 49 Luật THADS. Sau khi có Quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm quyết định huỷ một phần hay toàn bộ bản án mà cơ
quan THADS đang tổ chức thi hành thì Thủ trưởng cơ quan THADS sẽ áp dụng căn cứ
nêu trên để ra quyết định đình chỉ thi hành án.
Tuy
nhiên, trong căn cứ này có loại trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 103 Luật
THADS, nhằm mục đích bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá. Theo đó,
luật đã bổ sung quy định không đình chỉ thi hành án trong trường hợp người mua
được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án,
quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan THADS tiếp tục giao
tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người
mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo
quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận. Quy định mới của Luật sửa đổi,
bổ sung là căn cứ vào Bộ luật Dân sự về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người thứ ba ngay tình mua được tài sản bán đấu giá[3].
Thứ năm,
người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy
định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác.
Trường
hợp này gần tương tự trường hợp người phải thi hành án là cá nhân chết không để
lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án,
quyết định không được chuyển giao cho người khác. Điểm khác biệt ở đây có thể
thấy trong căn cứ thứ năm này bao gồm 3 điều kiện khác nhau mà phải thoả mãn đủ
cả ba điều kiện đó thì cơ quan THADS mới có thể đình chỉ thi hành án, bao gồm:
-
Người
phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể.
Việc
giải thể đối với tổ chức và xác định khi nào thì tổ chức được coi là giải thể
được thực hiện theo các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động hoặc
tại Điều lệ hoạt động của chính tổ chức đó. Khi tổ chức thi hành án đối với trường
hợp này, Chấp hành viên cần nghiên cứu các quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật
Các tổ chức tín dụng... và điều lệ của tổ chức đó để xác định và thu thập căn cứ
chứng minh tổ chức đó đã bị giải thể.
-
Tổ
chức sau khi đã giải thể không còn tài sản
Thông
thường, trong quyết định hoặc thông báo giải thể, tổ chức bị giải thể bao giờ
cũng có kế hoạch để xử lý các khoản nợ. Chấp hành viên cần nhanh nhạy trong việc
nắm bắt kịp thời các thông tin này và liên hệ trực tiếp với bộ phận phụ trách
giải quyết nợ của tổ chức đó để có thể giải quyết nghĩa vụ mà tổ chức đó phải
thực hiện theo bản án, quyết định hoặc xác minh về các tài sản của tổ chức đó
sau khi giải thể để làm căn cứ xử lý tiếp theo.
- Nghĩa vụ của tổ chức đã bị giải thể
theo quy định của pháp luật không được chuyển giao cho tổ chức khác
Tuỳ
thuộc vào từng loại nghĩa vụ cụ thể theo Bản án, quyết định để Chấp hành viên
xác định nghĩa vụ đó có thể được chuyển giao cho tổ chức khác thực hiện hay
không hoặc cũng cần phải xác định có tổ chức nào có thể tiếp nhận nghĩa vụ của
tổ chức đã bị giải thể hay không. Nếu nghĩa vụ có thể chuyển giao và cũng có tổ
chức được chuyển giao nghĩa vụ thì Chấp hành viên cần căn cứ quy định tại điểm
d khoản 1 Điều 54 LuậtTHADS thực hiện chứ
không thể đình chỉ thi hành án được.
Thứ sáu,
có quyết định miễn hoặc giảm một phần nghĩa vụ thi hành án.
Việc
miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án hiện nay khi thực hiện căn cứ vào các quy định
tại Nghị quyết số 24 của Quốc hội, Điều 61, 62, 63 và 64 LuậtTHADS và các văn bản hướng dẫn.
Thứ bảy,
Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án.Căn cứ
này áp dụng đối với người phải thi hành án là Doanh nghiệp và Hợp tác xã, trình
tự, thủ tục phá sản đối với các đối tượng này chịu sự điều chỉnh của Luật Phá sản
năm 2014.
Thứ tám,
người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã thành
niên.
Về
việc thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên nuôi dưỡng có những đặc thù
và khó khăn nhất định. Do đó, LuậtTHADS đã
dự liệu đến tình huống việc kéo dài thời gian tổ chức thi hành nghĩa vụ giao
người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng là điều tất yếu và cơ chế để cơ
quan THADS có thể kết thúc việc thi hành án này là đình chỉ thi hành án khi người
được giao nuôi dưỡng đã thành niên.Đây là vấn đề phát sinh trong thực tiễn,
nhưng do Luật THADS 2008 và văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định nên cơ
quan THADS khôngg có căn cứ pháp lý để giải quyết. Quy định này là phù hợp vì đối
tượng thi hành án không còn tồn tại và nghĩa vụ này không thay thế được nên cần
đình chỉ thi hành án.[4]
Thủ
trưởng cơ quan THADS sự đã ra quyết định thi hành án có thẩm quyền ra quyết định
đình chỉ THADS. Khi có căn cứ đình chỉ THADS, chấp hành viên đề nghị thủ trưởng
cơ quan THADS quyết định. Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ THADS
bằng văn bản.
Trong
trường hợp đình chỉ thi hành án do người được thi hành án có văn bản từ bỏ quyền
và lợi ích thì việc từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải được thể hiện bằng
văn bản theo quy định của pháp luật. Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định
đình chỉ thi hành án đối với khoản mà người được thi hành án từ bỏ quyền, lợi
ích của mình. Trong trường hợp này, người được thi hành án sau đó không còn quyền
yêu cầu thi hành án trở lại.
Trong
trường hợp quyết định giám đốc thẩm sửa đổi hay hủy bỏ bản án, quyết định đang
được thi hành để xét xử lại theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm thì cơ quan THADS ra
quyết định đình chỉ thi hành án đối với việc thi hành bản án, quyết định trước
đây và ra quyết định thi hành án theo bản án, quyết định đang có hiệu lực pháp
luật.
Cơ
quan THADS phải gửi thông báo về việc đình chỉ thi hành án cho các bên đương sự
và Viện kiểm sát cùng cấp.[5]
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 50 Luật THADS
2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì thời hạn ra quyết định đình chỉ thi
hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ đình chỉ thi hành án theo quy
định tại Khoản 1.
Cơ
quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều
50 của Luật THADS sẽ không thụ lý đơn yêu cầu thi hành án trở lại. Quy định này
là chưa phù hợp, bởi:
- Theo
quy định tại Khoản 2 Điều 6 Luật THADS: Trường hợp đương sự không thực hiện
đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa
được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
- Khoản
5 Điều 31 có quy định về các trường hợp cơ quan THADS từ chối yêu cầu thi hành
án, nhưng không hề có trường hợp
quy định từ chối nhận đơn yêu cầu đối với trường hợp thỏa thuận đình chỉ theo
điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật THADS, nhưng sau đó yêu cầu thi hành án trở lại.
- Theo quy định tại Điều 217 và Điều 218 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015: Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,
đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân sự
đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên
đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại…
Điểm c Khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này...Như vậy, người khởi kiện rút đơn khởi
kiện và được Toà án chấp nhận ra quyết định đình chỉ thì sau đó vẫn được khởi
kiện lại.
Mặt
khác, về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ THADS.Theo quy định tại Điều 50 Luật
THADS thì chỉ có Thủ trưởng cơ quan THADS mới có thẩm quyền ra quyết định.Đây
là quy định không hợp lý, bởi: tại Điều 219 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì lại
có quy định rất rõ về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
sẽ thuộc về thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự hoặc thuộc về Hội
đồng xét xử phụ thuộc vào thời điểm trước phiên tòa hay tại phiên tòa.
Thứ
nhất, cần có quy định cơ quan thi hành án vẫn được nhận
đơn yêu cầu thi hành án trở lại để ra quyết định thi hành án, vì theo Khoản 5 Điều
31 của Luật THADS không quy định từ chối nhận đơn yêu cầu đối với trường hợp thỏa
thuận đình chỉ theo điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật THADS, nhưng sau đó yêu cầu
thi hành án trở lại.
Thứ hai,
cần quy định thẩm quyền đình chỉ thi hành án cho chấp hành viên – là người đang
trực tiếp tổ chức thi hành án, cho phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động thi hành
án và phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1]
http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?ItemID=100
[2], 3Tổng cục Thi hành án dân sự, Tài
liệu tập huấn – Triển khai các nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật THADS, các văn bản hướng dẫn thi hành và kỹ năng rà soát, chỉ đạo, giải
quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo về THADS, Hà Nội, 12/2015.
[4] Tổng cục Thi hành án dân sự, Tài
liệu tập huấn – Triển khai các nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật THADS, các văn bản hướng dẫn thi hành và kỹ năng rà soát, chỉ đạo, giải
quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo về THADS, Hà Nội, 12/2015.
[5] TS. Nguyễn Công Bình (Chủ biên),
Luật Thi hành án dân sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2007, tr. 160.