co-so-hinh-thanh-tthcm-ve-dai-doan-ket-dan-toc

MỞ ĐẦU
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
 Trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước Dân tộc ta đã đi qua rất nhiều khó khăn và thử thách, chiến thắng nhiều kẻ thù hung bạo để xây dựng được đất nước hưng thịnh như ngày hôm nay. Để có được những thắng lợi này một trong những yếu tố không thể thiếu là sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta mà Bác Hồ đã là người dẫn đường, soi sáng cho lý tưởng này Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên”. Có thể nói trong những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Người là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng;  đại đoàn kết dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng cũng như trong hoạt động của Hồ Chí Minh . Chính vì thế để tìm hiểu sâu về vấn đề này em xin chọn đề tài số 11: “ Phân tích những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân của Người”

NỘI DUNG

I.         NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên những cơ sở tư tưởng – lý luận rất phong phú. Có thể khái quát những cơ sở quan trọng sau đây:
1.     Những giá trị truyền thống dân tộc
     Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải đối mặt với bao nhiêu thử thách đầy khắc nghiệt của thiên tai, dịch bệnh; những cuộc đấu tranh trường kỳ chống lại kẻ thù xâm lược, có biết bao xương máu của con Người Việt Nam đã đổ xuống...Chính những thử thách và khó khăn đó đã hun đúc nên những giá trị truyền thống dân tộc đầy thiêng liêng và lớn lao.
Những giá trị truyền thống dân tộc bao gồm chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân nghĩa và tinh thần đoàn kết; ý chí đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực, tự cường; tinh thần tương thân, tương ái, vị tha, lạc quan, yêu đời của con người và dân tộc được hình thành, hun đúc trong những điều kiện chính trị, môi trường tự nhiên, nền kinh tế, cấu trúc xã hội (làng – xã – nước) đặc trưng của người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử tạo thành sức mạnh to lớn để dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, dịch bệnh. Do vây, những giá trị truyền thống dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Những giá trị truyền thống dân tộc đó đã trở thành một tình cảm tự nhiên, một triết lý nhân sinh, một phép ứng xử và tư duy lý luận, tư duy chính trị của người Việt Nam xuyên suốt chiều dài lich sử dân tộc cho đến ngày nay như: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng; Tình làng, nghĩa nước; Nước mất nhà tan... Triết lý nhân sinh trong đạo làm người của con người luôn lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy khoan dung, hòa mục để ứng xử trong quan hệ với mọi người và luôn trọng trí thức, hiền tài trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh đó, những giá trị truyền thống dân tộc đã được các anh hùng ở mọi thời kỳ đúc kết kinh nghiệm và nâng lên thành các  phương pháp đánh giặc giữ nước và phép trị nước như: “rên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”; “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc giữ nước”; “chở thuyền cũng là dân, lật thuyến cũng là dân”...
Sớm tiếp thu được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Bác đã nhận thức được sức mạnh dân tộc, những quan điểm nhân sinh và phương pháp đánh giặc của ông cha ta và kết hợp với những giá trị thời đại để chuyển thành hệ thống quan điểm sức mạnh của mình để áp dụng vào cách mạng nước ta “ Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
2.     Quá trình tổng kết thực tiễn các phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
Hồ Chí Minh thấy rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào cứu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đó là sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối, về gia cấp lãnh đạo; chưa quy tụ, tập hợp được lực lượng của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh của đất nước...chính những điều đó đã dẫn tới sự non kém, rời rạc về tổ chức, thiếu đoàn kết lực lượng. Bài học rút ra là cần phải có Đảng chân chính lãnh đạo vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, quy tụ được cả nước, xây dựng được khối đoàn kết dân tộc. Chính vì đi tìm giải pháp cho kết quả đặt ra Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước với lý tưởng “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.
Không chỉ có vậy Hồ Chí Minh còn nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế giới. Nghiên cứu cách mạng Pháp và cánh mạng Mỹ, Người cho rằng đây là những cuộc cách mạng “chưa đến nơi”  do tính chất không triệt để của nó: cách mạng sau khi thành công, nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn; cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn, nhưng chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết và chưa có tổ chức. Đến khi tiếp cận và nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh thấy được đây là một Cách mạng triệt để, là cuộc cách mạng “ đến nơi” “cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Và từ cuộc cách mạng này Người đã tổng hợp, rút kinh nghiệm  và để lại nhiều bài học sâu sắc như về việc huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo trong việc dành và giữ chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ xã hội và  xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Ngoài tìm hiểu các nước phương Tây Bác Hồ cũng nghiên cứu các cuộc cách mạng phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ,..để học hỏi và thực hiện cách mạng ở nước ta.
3.     Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin:
      Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân;
      Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử;
      Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc;
      Liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng;
      Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế theo tinh thần “Vô      sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”...
Chủ nghĩa Mác – Lênin là ánh sáng soi đường cho Hồ Chí Minh trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Và cũng nhờ những quan điểm trên mà Bác Hồ đã có sơ sở khoa học để thu hái những hiểu biết của các tư tưởng đi trước để lại và chuyển hóa chúng thành hệ thống tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc.
II.    TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân thể hiện ở một số điểm như sau:
Quan điểm về “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng. Dân là đồng bào, là anh em một nhà; “Dân” là toàn dân, toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm dân tộc đa số, thiểu số; “Dân” vừa được hiểu là mỗi cá nhân, vừa là toàn thể đồng bào. Như vậy, “Dân” là người chủ của đất nước, là chủ thể đại đoàn kết, là lực lượng quyết định mọi thắng lợi của cánh mạng. Trong “Dân”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra giai cấp công nhân, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị áp bức nặng nề nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất...Như vậy, “Dân” được hiểu là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ nhận thức về dân, Hồ Chí Minh quan niệm đại đoàn kết dân tộc có nghĩa là phải huy động và tập hợp được mọi người dân vào khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Muốn làm được điều đó phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung độ lượng với con người và xóa bỏ mọi định kiến, cách biệt... Người nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo...
Những điểm chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập, thống nhất của tổ quốc, là cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng đồng thời là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là liên minh công, nông và lao động trí óc...
 Muốn thực hiện đoàn kết toàn dân phải chú trọng một số nguyên tắc nhất định:
·        Phải hiểu dân, tin dân, dựa vào dân.
·        Phải khai thác được những yếu tố tương đồng, hạn chế những điểm khác biệt trong các mối quan hệ phức tạp: cá nhân - tập thể; gia đình - xã hội; bộ phận – toàn cục; giai cấp – dân tộc.
·        Phải  xác định rõ vai trò, vị trí của các giai tầng xã hội, bởi dân không phải là một khối đồng nhất. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là đại đa số nhân dân: là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó có nòng cốt là liên minh công - nông.
III.      VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
1.     Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi hội nhập thế giới trong giai đoạn hiện nay
Thế giới của chúng ta đang từng ngày, từng giờ thay đổi một cách nhanh chóng và khó lường. Trong giai đoạn phát triễn như hiện nay, những  thời cơ và thách thức đan xen và tồn tại song hành cùng nhau buộc các quốc gia trên thế giới cần có cái nhìn toàn diện, thông minh và sáng tạo nhằm phát huy được thời cơ và trách được những khó khăn để đưa đất nước đi lên. Các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang từng ngày phải đối mặt với những thách thức đó. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn như:
          Về mặt thuận lợi: Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh giữ nước đến nay ta đã xây dựng được đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh; người dân được sống trong no đủ, trẻ em được cắp sách đến trường ngày một nhiều hơn; đã bước đầu xây dựng được cơ sở vật chất cho xã hội chủ nghĩa; xây dựng được nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; nước ta từ một nước nghèo vươn lên nước thoát nghèo và trở thành nước có thu nhập khá; tham gia vào nhiều tổ chức trên thế giới và nhận được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới; có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vị trí và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao...
          Về mặt khó khăn: Đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa từ một nước lạc hậu, xuất phát thấp nên cơ sở vật chất còn yếu kém; trình độ của người dân còn chưa cao nhất là những dân tộc thiểu số ít người; bất đồng ngôn ngữ so với các nước trên thế giới; hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang diễn ra ngày một nhiều....
2.     Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh vào xây dựng đất nước hiện nay
Đứng trước những khó khăn và thách thức như hiện nay đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Hồ Chí Minh  để đứng vững và xây dựng đất nước giàu mạnh, trong đó vận dụng tư tưởng dại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và chiến lược lâu dài mà Đảng và Nhà nước ta nên quan tâm thực hiện để phát huy những thuận lợi và khắc phục được những khó khăn trên.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân rộc và sức mạnh thời đại. Cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức rõ những khó khăn, thử thách, những nhân tố khách quan, chủ quan đang thách thức tính bền chặt của khối đại đoàn kết để có biện pháp cũng cố, tăng cường và giữ vững sự ổn định xã hội là vấn đề có ý nghĩa quyết định thành bại của công cuộc đổi mới, tạo môi trường thúc đẩy sự phát triễn đất nước.
Thực tiễn cách mạng cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua thể hiện sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của Tư Tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. Việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc biến nó thành chiến lược cách mạng như tập hợp mọi người dân yêu nước không phân biệt giới tính, tôn giáo, dân tộc, độ tuổi... vào Mặt trận dân tộc thống nhất tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc. Sức mạnh đó là nguồn gốc của thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945, kháng chiến chống Pháp (1945-1954), chống Mỹ cứu nước (1954-1975)... Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng  và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trước đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, với việc phát triễn nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì thực hiện tư tưởng đại đoàn kết của Người lại càng có ý nghĩa quan trọng. Những tư tưởng chủ đạo được thể hiện nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng ta trong những năm đổi mới là:
Về chính trị, tư tưởng: Đảng nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, chủ trương xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ, tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, mọi người Việt Nam trong nước và nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng và phát triễn đất nước, lấy liên minh công nông làm nòng cốt vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ...
Về kinh tế - xã hội- văn hóa: Nhà nước bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo thiết thực, chính đáng, lợi ích hợp pháp của nhân dân, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợ ích tập thể và lợi ích toàn xã hội, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triễn, thực hiện các chính sách “đền ơn đáp nghĩa”, “xóa đói giảm nghèo”, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước trong quần chúng nhân dân, xây dựng và phát triễn nền giáo dục của nước ta, đề cao cảnh giác trước những âm mưu xuyên tạc, tung tin kích động chia rẽ dân tộc, tôn giáo của các phần tử trong và ngoài nước....
Về đối ngoại: Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa quan hệ quốc tế theo phương châm “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập,hợp tác và phát triễn”. Đảng ta cũng luôn chú trọng đại đoàn kết  quốc tế, kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế, cùng nhau thực hiện mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, ổn định, dân chủ và tiến bộ. Đại đoàn kết trong thời đại hội nhập đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời nắm vững bài học của Bác Hồ “ cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược”...

 KẾT LUẬN
Qua phân tích và tìm hiểu nói trên ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa rất lớn cho dân tộc ta. Nó là kim chỉ nang dẫn đường, soi sáng cho toàn Đảng và nhân dân ta. Nhờ có tư tưởng đoàn kết dân tộc của người và xem đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân đã giúp dân tộc chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù, đi lên và xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh. Ở thời điểm nước ta đang bước sang thế kỷ XXI nơi mà những thách thức và thời cơ đan xen, tác động với nhau hàng ngày thì việc xây dựng khối đại đoàn kết cho dân tộc ta lại càng nên chú trọng để nước ta có thể giữa vững được bản sắc dân tộc nhưng vẫn hội nhập được với các nước khác trách sự bão hòa, đánh mất bản sắc dân tộc. Do vậy, muốn đi lên và thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa thì việc kiên trì,vững vàng, quán triệt, phát triễn, hoàn thiện tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh phải được mở rộng và thực hiện đồng bộ trên cả nước.

Related Post

Previous
Next Post »