MỞ BÀI
Trong quan hệ
pháp luật dân sự hay bất cứ một quan hệ pháp luật nào đều tồn tại hai bên quan
hệ pháp lý, ràng buộc giữa quyền và nghĩa vụ của nhau, không tách rời nhau. Từ
xa xưa, các luật gia đã quy định rõ ràng
quyền cũng như nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ pháp luật nhằm đảm
bảo lợi ích chính đáng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự;
góp phần nâng cao hiệu quả pháp lý khi các chủ thể tiến hành các hoạt động liên
quan đến giao dịch dân sự. Nhằm tìm hiểu sâu xa hơn nguồn gốc cũng như chế định
nghĩa vụ từ thời La Mã cố đại và so sánh nó với pháp luật dân sự Việt Nam hiện
nay như thế nào em xin chọn đề tài số 09 : “
Phân loại nghĩa vụ trong tư pháp La Mã và so sánh với các loại nghĩa vụ trong
pháp luật dân sự Việt Nam “ để làm
bài tập học kỳ lần này của mình.
NỘI DUNG
I. KHÁI
QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG TƯ PHÁP LA MÃ
1.
Khái
niệm nghĩa vụ
Nếu như quyền sở
hữu biểu hiện một tài sản thuộc về một chủ thể nhất định thì nghĩa vụ là mối
quan hệ giữa các chủ thể trong việc chuyển dịch tài sản. Nghĩa vụ được phát
sinh sau khi các chủ thể đã có những thỏa thuận về việc chuyển giao tài sản đó.
Theo các tài liệu
cổ của La Mã thì nghĩa vụ được định nghĩa như sau : “ Nghĩa vụ là sự ràng buộc của các chủ thể, trong đó người ta phải thực
hiện một số hành vi theo pháp luật quy định .”
Bản chất của
nghĩa vụ không phải là làm một việc nào đó, làm ra một tài sản hay thực hiện một
địa dịch mà là mối quan hệ giữa chúng ta và theo đó họ phải cho ta một vật, phải
thực hiện hoặc kiềm chế không được làm một việc.
2.
Đặc
điểm của nghĩa vụ
Từ quy định
trên có thể thấy nghĩa vụ là một loại quan hệ, trong đó phải có it nhất là hai
bên là bên có quyền và bên có nghĩa vụ mỗi bên có thể có một hoặc nhiều chủ thể
tham gia. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện yêu cầu của bên có quyền, nếu không thực
hiện, thực hiện không đúng yêu cầu
thì phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định. NVDS là một loại quan hệ pháp luật
dân sự, do vậy cũng mang những đặc điểm chung của loại quan hệ này. Bên cạnh
đó, NVDS vẫn có những nét đặc thù, riêng biệt cụ thể.
Thứ nhất nghĩa vụ là một quan hệ tài sản: quan hệ tài
sản được hiểu là mỗi quan hệ giữa các bên thông qua một lợi ích vật chất cụ thể
mà các bên cùng hướng tới. Hành vi thực hiện nghĩa vụ có thể là sự chuyển dịch
tài sản giữa các bên hoặc là một loại quan hệ mà trong đó có ít nhất một bên được
hưởng lợi.
Thứ hai nghĩa vụ
là mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa các con nợ và chủ nợ: nghĩa vụ tự nhiên vẫn
có hiệu lực pháp luật với tư cách là căn cứ phát sinh quyền của chủ nợ nhưng
không bắt buộc thi hành. Tuy nhiên nghĩa vụ là mối quan hệ pháp lý, bởi vậy việc
thực hiện nghĩa vụ không chỉ còn là phạm trù thuộc chủ nợ và con nợ mà còn bị
ràng buộc và được nhà nước bảo đảm thực hiện
Thứ ba hành vi
thực hiện nghĩa vụ của con nợ luôn mang lại lợi ích cho chủ nợ. Xuất phát từ mục
đích của các bên khi tham gia quan hệ NVDS là hướng tới một lợi ích nhất định (
thường là tài sản) thì con nợ sẽ có nghĩa vụ phải làm cho chủ nợ một công việc
thông qua đó chủ nợ sẽ dành được quyền lợi nhất định.
Thứ tư, nghĩa vụ
dân sự là một quan hệ đối nhân: Quan hệ đối nhân là quan hệ mà trong đó một bên
chủ thể có quyền đối với một bên xác định , hoặc cả hai bên đều có những quyền
và nghĩa vụ nhất định đối với nhau. Quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong
quan hệ NVDS vừa đối lập lại vừa có mối quan biện chứng với nhau.
II. PHÂN
LOẠI NGHĨA VỤ TRONG TƯ PHÁP LA MÃ.
Như vậy, nghĩa
vụ là sự ràng buộc của các chủ thể, trong đó người ta phải thực hiện một số
hành vi theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ được phát sinh trên những sự kiện
khác nhau mà pháp luật thừa nhận. Theo
căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ thì các Luật gia La Mã chia nghĩa vụ tư pháp La
Mã thành hai loại chủ yếu là nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng ( ex contractu ) và
nghĩa vụ từ hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra còn một số loại nghĩa vụ khác.
1.
Nghĩa
vụ phát sinh từ hợp đồng.
Nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng là nghĩa vụ bắt nguồn từ
sự thỏa thuận, hợp đồng hay khế ước. Ở đây hai hay nhiều chủ thể thỏa thuận với
nhau và làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ.
Theo quan niệm
của Luật Lamã, “Nghĩa vụ phát sinh từ các
hợp đồng là do các bên tự nguyện thỏa thuận và các nghĩa vụ này trong chừng mực
có thể thỏa thuận và những nghĩa vụ này trong chừng mực có thể dịch chuyển được
và dịch chuyển cho những người thừa kế”.
Theo Geoffrey Samuel, khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil law bị
chi phối bởi ba nguyên tắc.
“ Thứ nhất, hợp đồng được xem là kết
quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do các bên
lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng
không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực
được đảm bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện
chí, nhằm xác lập trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng.
Nguyên tắc thứ ba là tự do hợp đồng: các bên được tự do, trong phạm vi giới hạn
của luật công và trật tự công cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm
chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận của người khác”.
Như vậy, nghĩa vụ trong hợp đồng của
người La Mã tuy còn đơn giản nhưng cũng thể hiện hai trong ba nguyên tắc trên mà chưa có sự đảm bảo của pháp luật nhà nước.. Tuy nhiên, nghĩa vụ phát sinh
từ hợp đồng là cơ sở quan trọng quyền và nghia vụ của các bên khi tham gia vào
quan hệ pháp luật dân sự.
2.
Nghĩa
vụ từ các hành vi vi phạm pháp luật.
Nghĩa vụ phát
sinh từ các hành vi vi phạm pháp luật là nghĩa vụ phát sinh từ việc do gây ra
thiệt hại nếu một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác về tài sản,
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác thì có nghĩa vụ phải bồi
thường thiệt hại và khắc phục hậu quả do mình gây ra.
Việc phân biệt
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng với nghĩa vụ phát sinh từ các hành vi vi có ý
nghĩa rất lớn về việc thực hiện nghĩa vụ. Nghĩa vụ từ các hành vi vi phạm pháp
luật thì bản chất không thể dịch chuyển cho những người thừa kế. Việc dịch chuyển
cho những người thừa kế đối với nghĩa vụ do hành vi vi phạm pháp luật chỉ được
thực hiện khi người thừa kế được lợi do chính hành vi vi phạm pháp luật của người
vi phạm..
Cho đến nay vấn
đề bồi thường thiệt hại về nhân thân trong pháp luật La mã vẫn chưa có quan điểm
thống nhất. Nhưng vấn đề bồi thường thiệt hại về tài sản chiếm vị trí quan trọng
hàng đầu. Việc tính toán thiệt hại phải bồi thường được xác định phải là thiệt
hại trực tiếp mà không được suy đoán tùy tiện.
3.
Các
loại nghĩa vụ khác.
Tuy hai căn cứ
nêu trên được coi là chủ yếu và quan trọng nhất lam phát sinh nghĩa vụ. Nhưng
do sự phức tạp của quan hệ xã hội, các nhà Luật gia La Mã nhận thấy còn có những
nghĩa vụ phát sinh từ những căn cứ mà không được liệt vào hợp đồng cũng như là
hành vi vi phạm .
Nghĩa
vụ như từ hợp đồng, là trường hợp nếu một người
không ủy quyền cho một người khác thực hiện công việc nhưng vì quyền lợi của
chính người có công việc đó mà họ tự nguyện thực hiện công việc cho họ. Trong
trường hợp này giữa người có công việc và người thực hiện công việc phát sinh
nghĩa vụ tương tự như người có công việc ủy quyền cho người thực hiện công việc
đó, như là giữa họ có hợp đồng và được lợi từ tài sản không có căn cứ pháp luật.
Nếu các hành vi
vi phạm được xác định bởi luật pháp thì người thực hiện những hành vi đó phải
chịu trách nhiệm do hành vi của mình. Nếu một người có hành vi hoặc tài sản đe dọa gây ảnh hưởng đến
lợi ích của người khác thì phải chịu nghĩa vụ từ việc này. Do vậy, nghĩa vụ này được gọi là nghĩa vụ như từ
vi phạm.
III. SO
SÁNH NGHĨA VỤ TRONG TƯ PHÁP LA MÃ VỚI CÁC LOẠI NGHĨA VỤ TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM
1.
Các
loại nghĩa vụ trong pháp luật dân sự Việt Nam
Điều 280 BLDS
2005 quy định về nghĩa vụ như sau: Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo
đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển
giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc
khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều
chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Do đó, nghĩa vụ dân sự được
phân loại như sau
Thứ
nhất, nghĩa vụ riêng lẽ: là nghĩa vụ của nhiều
chủ thể trong đó phần nghĩa vụ của các chủ thể là độc lập nhau, mỗi chủ thể chỉ
phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình sau khi thực hiện xong quan hệ nghĩa vụ
chấm dứt. Các chủ thể chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đủ phải tiếp
tục thực hiện.
Thứ
hai, nghĩa vụ liên đới: là nghĩa vụ của nhiều
chủ thể, trong đó các chủ thể có mối liên hệ ràng buộc với nhau, chủ thể có quyền
có thể chỉ định một trong bất kỳ chủ thể có nghĩa vụ nào phải thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ mà người này không có quyền từ chối. Sau khi người này thực hiện xong
nghĩa vụ xem như nghĩa vụ của các chủ thể khác chấm dứt và trong trường hợp một
người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ
liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình.
Thứ
ba, nghĩa vụ hoàn lại: Là nghĩa vụ phát sinh
từ một nghĩa vụ khác, một người liên quan đến hai quan hệ nghĩa vụ, người có
quyền ở quan hệ trước thì nghĩa vụ ở quan hệ sau vè ngược lại người có quyền ở
quan hệ sau thì nghĩa vụ ở quan hệ trước.
Thứ
tư, nghĩa vụ bổ sung: là nghĩa vụ được thiết
lập bên cạnh nghĩa vụ chín không được liệt hoặc thực hiện không đầy đủ thì
nghĩa vụ bổ sung được thực hiện.
2.
Sự
giống nhau giữa các loại nghĩa vụ trong tư pháp La Mã và pháp luật dân sự Việt
Nam
Do
quan điểm của từng đất nước và từng thời kỳ có sự khác nhau về cách phân loại
nghĩa vụ dân sự tuy nhiên các loại nghĩa vụ dân sự ở La Mã và pháp luật dân sự
Việt Nam cũng có sự tương đồng nhất định.
Thứ nhất, cách phân loại nghĩa vụ dân sự La mã
là nguồn gốc, là căn cứ để luật dân sự Việt Nam căn cứ cho phát sinh nghĩa vụ
dân sự từ đó phân loại nghĩa vụ dân sự theo tính chất và bản chất của các loại
nghĩa vụ dân sự đó.
Thứ hai, trong
pháp luật dân sự Việt Nam có nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ riêng lẽ thì Luật La
Mã cũng có nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ theo phần. Việc tên gọi tuy có chút khác nhau nhưng bản chất của chế định không đổi, điều này cho
thấy Luật dân sự Việt Nam có sự kế thừa của pháp luật La mã và có cánh biến đổi
và phát triển cho phù hợp với xã hội Việt Nam.
Thứ
ba, nghĩa vụ dân sự về cơ bản luôn là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể có nghĩa vụ
phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá,
thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi
ích của một hoặc nhiều chủ thể có quyền.
3.
Sự
khác nhau giữa các loại nghĩa vụ trong tư pháp La Mã và pháp luật dân sự Việt
Nam
Về căn cứ phân
loại nghĩa vụ dân sự: chủ yếu pháp luật
la mã căn cứ trên những sự kiện khác
nhau, những cơ sở pháp lý nhằm xác định mối quan hệ phát sinh quyền và nghĩa vụ
của các bên chủ nợ và con nợ. Còn ở Việt Nam các loại nghĩa vụ lại được phân loại
theo cách thức mà các chủ thể tiến hành việc chuyểngiao tài sản, lợi ích cho chủ
thể. Thiết nghĩ việc phân loại này có tính hợp lý hơn cách chia của các nhà tư
pháp La mã vì từ cách phân loại như thế này mới quy định rõ ràng hơn các chế định
, các quyền, nghĩa vụ của các bên cũng như việc bồi thường thiệt hại khi có
tranh chấp xảy ra.
Các loại nghĩa
vụ trong tư pháp còn liên quan đến việc có thể dịch chuyển thừa kế cho những
người thừa kế mà cụ thể là loại nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có thể có quyền
chuyền dịch thừa kế đương nhiên còn các loại nghĩa vụ khác phải có điều kiện cụ
thể. Ngược lại các loại nghĩa vụ ở dân sự Việt Nam không đề cập gì đến việc có
thể chuyển dịch tài sản thừa kế hay không.
KẾT THÚC
Tóm lại việc
phân loại nghĩa vụ trong tư pháp La mã cũng như trong phápluật dân sự Việt Nam
tuy đã có nhiều cố găng và ý nghĩa cho việc lập pháp nhưng còn chưa triệt để.
Hy vọng từ nguồn gốc của các nhà làm luật xưa các Luật gia Việt Nam sẽ phát triển
các chế định về nghĩa vụ hơn cho phù hợp với xã hội Việt Nam. Để đáp ứng đầy đủ
quyền cũng như nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân
sự.