TÌNH HUỐNG
Ngày
2/10/2011, Nguyễn Văn H trộm cắp tài sản của người không quen biết ( tài sản trị
giá 49 triệu đồng-thuộc khoản 1 Điều 138 BLHS) nhưng không bị phát hiện. Ngày
5/10/2012, H lại bị phạm tội cướp giật tài sản (thuộc khoản 4 Điều 136 BLHS) bị
phát hiện và Công an bắt giữ H.
Câu hỏi:
1.
Các tội phạm mà H đã thực hiện thuộc loại tội phạm
nào theo cách phân loại tội phạm tịa khoản 3 Điều 8 BLHS? (2 điểm)
2.
Giả định
H thực hiện cả hai tội nêu trên khi mới 17 tuổi thì hình phạt của H có thể phải
chịu là bao nhiêu năm tù? ( 1 điểm)
3.
Giả định
H bị xét xử 2 tội phạm nêu trên. Tội trộm cắp tài sản bị Tòa án tuyên phạt 3
năm cải tạo không giam giữ; tội cướp giật tìa sản bị Tòa tuyên phạt 15 năm tù
thì hình phạt mà H còn phải chấp hành cho cả 2 tội này là bao nhiêu? Biết rằng
H đã bị tạm giam 4 tháng về tội cướp giật tài sản. (2 điểm)
4.
Giả định
H phạm tội cướp giật tài sản bị truy tố theo khoản 1 Điều 136 BLHS và tội trộm
cắp như tình huống nêu trên thì H có khả năng được hưởng án treo không? Hãy giải
thích rõ vì sao ? ( 2 điểm)
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
( Tình huống đề bài không đề cập đến năng lực
trách nhiệm hình sự của Nguyễn Văn H nên ta có thể mặc nhiên H có đầy đủ năng lực
trách nhiệm hình sự ).
1. CÁC TỘI PHẠM MÀ HUY ĐÃ THỰC HIỆN THUỘC LOẠI TỘI
PHẠM NÀO THEO CÁCH PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TẠI KHOẢN 3 ĐIỀU 138 BLHS?.
Trả lời:H phạm tội ít nghiêm trọng đối với tội trộm cắp
tài sản thuộc khoản 3 Điều 138 và H phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đối với tội
cướp giật tài sản thuộc khoản 4 Điều 136 BLHS.
Giải
thích: Để xác
định các trường hợp phạm tội của Nguyễn Văn H thuộc loại tội gì thì trước hết
phải xác định xem H đã thực hiện tội phạm gì, tội phạm đó được phản ánh trong
điều khoản nào của BLHS và mức cao nhất của khung hình phạt được phản ánh trong
cấu thành tội phạm của tội đó. Sau đó, ta căn cứ vào cách phân laoij được quy định
trong khoản 3 BLHS.
Về việc phân loại tội phạm, theo khoản 3 Điều
138 BLHS quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng
là tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hìnhphạt đối
với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là bảy năm tù; tội rất
phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Theo như tình huống đã cho thì ngày 2/10/2011
Nguyễn Văn H trộm cắp tài sản với tài sản giá trị là 49 triệu đồng, hành vi này
của H phạm vào cấu thành tội trộm cắp tài sản tại khoản 1 Điều 138: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác
có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.” Mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội này là 3 năm nên em xin trả lời H phạm tội ít nghiêm trọng đối với tội trộm cắp
tài sản thuộc khoản 3 Điều 138.
Vào
ngày 5/10/2012, H lại phạm tội cướp giật tài sản thuộc khoản 4 Điều 136: “ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm
triệu đồng trở lên;
c, Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
Mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội này là tù chung thân nên em xin trả lời H phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đối
với tội cướp giật tài sản thuộc khoản 4 Điều 136 BLHS.
2. GIẢ ĐỊNH H THỰC HIỆN CẢ HAI TỘI TRÊN KHI MỚI
17 TUỔI THÌ HÌNH PHẠT CỦA H CÓ THỂ PHẢI CHỊU LÀ BAO NHIÊU NĂM TÙ?.
Trả lời:Nếu H thực hiện cả hai tội trên khi mới 17 tuổi
thì hình phạt của H có thể phải chịu là
không được vượt quá 18 năm tù.
Giải
thích: Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự ( TNHS) thì Điều 12 BLHS quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiêm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Do đó, khi H phạm tội khi mới 17 tuổi thì phải
chịu TNHS về mọi tội phạm.
Tuy nhiên, người chưa thành niên là một chủ thể
đặc biệt do chưa thực sự phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý; khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của họ còn nhều hạn chế. Họ dễ bị kích động, dụ dỗ vào việc
thực hiện tội phạm nhưng cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục trở thành người có
ích cho xã hội. Vì vậy, việc quyết định hình phạt nói chung và tổng hợp hình phạt
đối với người phạm tội chưa thành niên là trường hợp đặc biệt vì phải áp dụng các quy định chung của luật lại
vừa phải căn cứ vào các quy định trong chương X BLHS.
Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm
tội, việc tổng hợp hình phạt được quy định tại Điều 75 BLHS quy định:
“ Đối với
người phạm tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện
sau khi đủ 18 tuổi thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:
1.
Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó
chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất
quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;
2.
Nếu tội năng nhất được thực hiện khi người đó
đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người thành niên phạm tội.”
Những quy định trên ta thấy Điều 75 BLHS mới
chỉ quy định về việc tổng hợp hình phạt đối với người phạm tội, có tội thực hiện
hiện trước và sau khi 18 tuổi mà chưa quy định
việc tổng hợp hình phạt đối với một người phạm tất cả các tội khi chưa đủ
18 tuổi. Vì vậy cần có quy định cụ thể đối với trường hợp này. Tuy nhiên, theo
em giải định H phạm hai tội nêu trên khi 17 tuổi cũng có thể áp dụng Điều 75 để
giải quyết vì nó cũng đã thể hiện sự nhân đạo
và có lợi của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội.
Theo luật chúng ta cần xác định tội nặng nhất
và độ tuổi người đó phạm tội là dưới hay trên 18 tuổi. Trong trường hợp này H
phạm tội khi mới 17 tuổi nên sẽ áp dụng khoản 1 Điều 75 và khoản 1 Điều 74 để
giải quyết. Khoản 1 Điều 74 về Tù có thời hạn đối với người chưa thành niên quy
định; “ Đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung
thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám
năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá
ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”
Như vậy theo khoản 1 Điều 74 H phạm tội trộm cắp
tài sản và mức tù áp dụng đối với H về tội này cao nhất có thể là ¾ của 3 năm
tù là 2 năm 3 tháng. Và tội cướp giật tài sản tối đa là 18 năm tù vì mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội này của H là tù chung thân theo khoản 4 Điều
136.
Căn cứ vào Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày
05-11-2004 để xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn thì tội cướp giật tài sản nặng
hơn tội trộm cắp tài sản nên mức hình phạt chung cho cả hai tội được tính theo
tội trộm cắp tài sản. Nếu không bị giới hạn bởi mức hình phạt cho người chưa
thành niên thì H phải chịu hình phạt chung cho 2 tội theo khoản a khoản 1 Điều
50 là 20 năm 3 tháng. Nhưng do bị giới hạn
bởi mức hình phạt cao nhất tại Điều 74 và 75 của BLHS nên em xin trả lời nếu H thực hiện cả hai tội trên khi mới 17 tuổi thì hình
phạt của H có thể phải chịu là không được
vượt quá 18 năm tù.
3. HÌNH PHẠT
MÀ H PHẢI CHẤP HÀNH.
Trả lời:
Hình phạt
mà H còn phải chấp hành cho cả 2 tội này là 15 năm 8 tháng tù.
Giải
thích: Trước
hết chúng ta phải xem xét đến thời hiệu
truy cứu TNHS của H do ngày 2/10/2011 H đã phạm tội trộm cắp tải sản thuộc khoản
4 Điều 138 BLHS , vì thế H phạm tội ít nghiêm trọng tuy nhiên vẫn không bị phát
hiện. Theo điểm a khoản 2 Điều 23 BLHS, thời hiệu truy cứu TNHS đối với tội trộm
cắp tài sản của H là 5 năm. Cho đến ngày 5/10/2012nghĩa là sau 1 năm 3 ngày H lại
phạm tội mới và bị phát hiện về tội cũ nên H sẽ phải chịu TNHS về cả hai tội và
thời hiệu chịu TNHS của tội trộm cắp tài sản sẽ bị tính lại từ ngày 5/10/2012 (
theo khoản 3 Điều 23).
Sau khi H bị xét xử 2 tội trên thì tội trộm cắp
tài sản bị tòa tuyên phạt 3 năm cải tạo không giam giữ, đây là mức hình phạt thấp
nhất cho H khi phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138. Tội cướp giật tài sản bị Tòa tuyên phạt
15 năm tù. Chính vì vậy, H sẽ phải chịu hình phạt chung cho cả hai tội mà mình
phạm. Chấp hành hình phạt có thể được hiểu là người phạm tội phải chịu hậu quả
pháp lý bất lợi do hành vi phạm tội của mình gây ra, phải chấp hành bản án mà
Tòa án đã tuyên khi phạm tội.
Về việc quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội ta còn phải xét xem có
hình phạt chính và hình phạt bổ sung không để tổng hợp và cho ra quyêt định cuối
cùng của bản án. Ở đây, H đã không bị thêm hình phạt bổ sung nào nên áp dụng
khoản 1 Điều 50 BLHS quy định như sau:
“ Khi
xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với
từng tội, sau đó tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
1.
Đối với hình phạt chính:
a, Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo
không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại
thành hình phạt chung; hình phạt chung
không được vượt quá ba năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, ba mươi
năm đối với hình phạt tù có thời hạn;
b, Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không
giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi
thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ ba ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi
thành một ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều này;”.
H vừa bị hình phạt là cải tạo không giam giữ
và bị tù có thời hạn nên Căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 1 Điều 50 để tổng hợp
hình phạt cho H, H bị tuyên phạt ba năm cải tạo không giam giữ nên theo BLHS H
sẽ bị tuyên phạt một năm tù có thời hạn với tội này. Do đó tổng hợp hình phạt
thì H sẽ phải chịu mức hình phạt là 16 năm tù trong đó 1 năm tù với tội trộm cắp
tài sản và 15 năm tù về tội cướp giật tài sản.
Tuy nhiên biết rằng H đã bị tạm giam 4 tháng về
tội cướp giật tài sản nên áp dụng Điều 33 về tù có thời hạn quy đinh:
“ Tù có
thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một
thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu
là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm.
Thời
gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một
ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.”
Theo quy định của Bộ luật tố tục hình sự năm
2003 thì tạm giam được áp dụng ở trong các giai đoạn: Điều tra; truy tố; xét xử.
Trong trường hợp này H đã bị tạm giam 4 tháng để điều tra, truy tố ,xét xử và
làm rõ về tội cướp giật tài sản và do đó thời hạn tạm giam của H sẽ được trừ
vào thời hạn chấp hành hình phạt tổng hợp với hai tội mà H đã phạm. Vì thế, 15
năm tù về tội cướp giật tài sản của H sẽ được trừ đi 4 tháng tạm giam nên H sẽ
chấp hành 14 năm 8 tháng tù về tội này cộng với 1 năm tội trộm cắp tài sản. Và
theo khoản 1 Điều 50 thì tổng hợp hình phạt cho H là 15 năm 8 tháng tù.
Tóm lại ,như đã phân tích và căn cứ
vào Điều 33; điểm a, điểm b khoản 1 Điều 50 BLHS em xin trả lời hình phạt mà H
còn phải chấp hành cho cả 2 tội này là 15 năm 8 tháng tù.
4. H CÓ KHẢ NĂNG ĐƯỢC HƯỞNG ÁN TREO HAY KHÔNG NẾU
PHẠM TỘI BỊ TRUY TỐ THUỘC KHOẢN 1 ĐIỀU 136 VÀ KHOẢN ĐIỀU 138?
Trả lời:
H có khả
năng được hưởng án treo trong trường hợp này.
Giải
thích: Án treo được hiểu là việc tạm thời miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện thể hiện tính nhân đạo của LHS Việt Nam, có tác
dụng khuyến khích người bị kết án tự tu
dưỡng và lao động tại cộng đồng . Việc một
người có được hưởng hay không được hưởng án treo cần xem xét dưới nhiều góc độ
và hình thức chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Theo em, H có khả năng được hưởng án treo khi phạm tội
cướp giật tài sản bị truy tố theo khoản 1 Điều 136 BLHS và tội trộm cắp như
tình huống nêu trên (khoản 1 Điều 138). Vì:
Căn cứ
vào khoản 1 Điều 60 BLHS quy định về án treo như sau:
“1. Khi
xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các
tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải chấp hành hình phạt tù, thì Tòa
án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”.
Nếu như H phạm tội cướp giật tài sản bị truy tố
theo khoản 1 Điều 136 BLHS:” Người nào cướp
giật tài sản của Người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Do đó , khung hình phạt dành cho H về tội này
là từ một đến năm năm.
Tội trộm
cắp tài sản như tình huống sẽ có thể bị cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm.
Thứ nhất, H hoàn toàn có thể bị nhận mức hình
phạt thấp hơn 3 năm tù giam.
Căn cứ
Điều 2 nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng điều 60 của BLHS về án
treo.
Điều 2
quy định rõ điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo khi có đủ
các điều kiện như sau:
Một là, Bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội
ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm
quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật hình sự.
Hai là, Có nhân thân tốt được chứng minh là
ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng
chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công
tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý
vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật.
Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã
được xóa án tích, được đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị
xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý
vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính,
xử lý kỷ luật thì được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật,
nhưng không phải là có nhân thân tốt. Việc cho hưởng án treo đối với những
trường hợp này phải hết sức chặt chẽ. Chỉ có thể xem xét cho hưởng án treo khi
thuộc một trong các trường hợp cụ thể theo luật đã quy định.
Ba là,
Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng.
Bốn là,
Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1
Điều 48 của Bộ luật hình sự và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46
của Bộ luật hình sự; nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì
phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít
nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại
khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự là những tình tiết được hướng dẫn tại điểm
c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ
luật hình sự năm 1999”.
Năm là, Có khả năng tự cải tạo và nếu không
bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm.
Thứ
hai, H hoàn toàn có thể thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 2 của Nghị quyết.
Như vậy
H hoàn toàn có thể thỏa mãn hai điều kiện trên của pháp luật để được hưởng án
treo là điều kiện về mức phạt tù và về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ. Tuy
nhiên khi cho một người được hưởng án treo, thì tòa cũng ấn định thời gian thử
thách từ một năm đến năm năm.
Vậy tóm lại, điều kiện về mức hình phạt tù có
thể thỏa mãn và nếu thỏa mãn các điều kiện còn lại theo pháp luật quy định thì
H có thể được hưởng án treo.