Bình luận các quy định của pháp luật hiện hành về giải thể doanh nghiệp

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số lượng các doanh nghiệp ra đời trong thời gian gần đây tăng lên một cách đáng kể, nhu cầu thành lập doanh nghiệp của các chủ đầu tư cũng theo đó mà tăng. Những hoạt động chung của doanh nghiệp đều được đặt dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật. Tuy nhiên, trong một giai đoạn nào đó hoặc vì một số lý do khách quan, doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động được nữa và có nhu cầu ngừng hoạt động, pháp luật về doanh nghiệp đã quy định cho phép doanh nghiệp có thể tiến hành giải thể. Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những quy định cụ thể về trình tự và thủ tục về giải thể doanh nghiệp. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, em đã chọn đề tài: “Bình luận các quy định của pháp luật hiện hành về giải thể doanh nghiệp”.

I – CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

Giải thể doanh nghiệp là việc chấm dứt sự tồn tại, hoạt động của doanh nghiệp thông qua việc doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp chủ động thực hiện thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ và xóa tên doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Giải thể doanh nghiệp trước hết là quyền của các thành viên doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp còn bị giải thể trong những trường hợp do pháp luật quy định. Việc tiến hành giải thể doanh nghiệp sẽ được tiến hành bởi các chủ thể sau:
-         Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân
-         Hội đồng thành viên công ty hợp danh đối với công ty hợp danh
-           Hội đồng thành viên công ty TNHH, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên đối với công ty TNHH
-         Đại hội đại cổ đông đối với công ty cổ phần
-         Đại hội xã viên đối với hợp tác xã

1.     Các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp

Luật doanh nghiệp quy định về các trường hợp giải thể và điều kiện giải thể tại khoản 1 Điều 157, bao gồm các trường hợp giải thể tự nguyện (theo ý chí của chủ đầu tư) và giải thể bắt buộc (theo ý chí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có sự vi phạm pháp luật)
*Giải thể tự nguyện gồm các trường hợp sau:
-           Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn:
Khi thành lập cong ty, các thành viên đã thỏa thuận với nhau. Sự thỏa thuận này được biểu hiện bằng điều lệ công ty.  Điều lệ công ti là bản cam kết của các thành viên về thành lập, hoạt động của công ti trong đó đã thảo thuận về thời hạn hoạt động. Khi hết thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ (nếu các thành viên không muốn xin gia hạn hoạt động) thì công ti đương nhiên phải tiến hành giải thể
-           Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân; của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần:
Đây là trường hợp các thành viên xét thấy việc tham gia công ti không còn có lợi thì họ có thể thỏa thuận để yêu cầu giải thể công ti.
*Giải thể bắt buộc gồm các trường hợp sau:
-           Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn sáu tháng liên tục:
Có đủ số lượng thành viên tối thiểu là một trong những điều kiện pháp lí để công ti tồn tại và hoạt động. Pháp luật quy định số lượng thành viên tối thiểu cho mỗi loại hình công ti là khác nhau. Khi không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu, để tiếp tục tồn tại, công ti phải kết nạp thêm các thành viên cho đủ số lượng tối thiểu. Thời hạn để công ti thực hiện việc kết nạp thêm thành viên là 6 tháng kể từ ngày công ti không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu. Nếu công ti không kết nạp thêm thành viên, dẫn đến công ti tồn tại không đủ số lượng thành viên tối thiểu trong 6 tháng liên tục thì công ti phải giải thể.
-         Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh:
Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh là căn cứ pháp lí không thể thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của các doanh nghiệp nói chung, công ti nói riêng. Khi công ti kinh doanh vi phạm các quy định của pháp luật và bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh thì công ti không thể tiếp tục tồn tại, hoạt động. Trong những trường hợp này công ti phải giải thể theo yêu cầu của cơ quan đăng kí kinh doanh theo khoản 2 điều 165 Luật Doanh nghiệp.
Các quy định về giải thể doanh nghiệp không chỉ tạo cơ sở pháp lý để chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có liên quan, đặc biệt là quyền lợi của chủ nợ và người lao động khi doanh nghiệp chấm dứt tồn tại. Vấn đề quan trọng nhất trong giải thể doanh nghiệp là giải quyết được các khoản nợ và các hợp đồng doanh nghiệp đã giao kết trước khi chấm dứt tồn tại. Khoản 2 Điều 157 quy định: “Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác”. Pháp luật không quy định cụ thể việc bảo đảm thanh toán có thể thực hiện như thế nào song về lí thuyết có thể áp dụng 2 cách thức đảm bảo sau:
-       Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu doanh nghiệp cam kết trả nợ sau khi doanh nghiệp giải thể. Tất nhiên, trường hợp này chỉ an toàn và phù hợp với các quy định về chuyển giao nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự nếu như có sự chấp thuận của chủ nợ.
-       Đối với giải thể chi nhánh, doanh nghiệp có chi nhánh giải thể thực hiện trả nợ (trường hợp này là tất yếu vì thực chất các khoản nợ được tạo ra từ hoạt động của chi nhánh là khoản nợ của doanh nghiệp). 

2.     Thủ tục giải thể doanh nghiệp

Giải thể công ty dẫn đến chấm dứt sự tồn tại, hoạt động của công ty và thanh lý tài sản, các khoản nợ. Vì vậy khi tiến hành giải thể cần tuân thủ những thủ tục luật định. Điều 158 Luật Doanh nghiệp quy định thủ tục giải thể doanh nghiệp bao gồm các bước:
*Chủ sở hữu doanh nghiệp quyết định giải thể doanh nghiệp:
Theo quy định của luật doanh nghiệp, khi rơi vào một trong những trường hợp bị giải thể, để tiến hành việc giải thể, doanh nghiệp thông qua quyết định giải thể. Bước thông qua này được thực hiện theo quy định của pháp luật doanh nghiệp về triệu tập họp và thông qua quyết định của hội đồng thành viên (đối với công ti trách nhiệm hữu hạn, công ti hợp danh), của đại hội đồng cổ đông (đối với công ti cổ phần) hoặc do chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ti trách nhiệm hữu hạn một thành viên trực tiếp quyết định.
Khoản 1 Điều 158 quy định quyết định giải thể doanh nghiệp phải có các nội dung chủ yếu như: Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; lí do giải thể; thời hạn, thủ tục thanh lí hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp; (thời hạn thanh toán nợ, thanh lí hợp đồng không được vượt quá sáu tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể); phương án xử lí các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động; họ, tên, chữ kí của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Sau khi thông qua quyết định giải thể,  doanh nghiệp phải gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng kí kinh doanh, chủ nợ, người lao động người có quyền, nghĩa vụ và công khai quyết định này.
Pháp luật hiện hành quy định: quyết định giải thể phải được gửi đến cơ quan đăng kí kinh doanh, đến tất cả các chủ nợ (kèm theo thông báo về phương án giải quyết nợ), người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao động trong doanh nghiệp, trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thông qua. Việc thông báo phải nêu rõ tên, địa chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ. Ngoài ra quyết định giải thể phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính của công ty và phải đăng ít nhất trên một tờ báo hoặc báo điện tử trong 3 số liên tiếp (khoản 3 Điều 158 Luật doanh nghiệp).
*Tổ chức thanh lý tài sản và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp:
Thanh lý tài sản và thanh toán các khoản nợ là vấn đề quan trọng, chủ yếu của doanh nghiệp giải thể.  Khoản 2 Điều 158 quy định: “Chủ doanh nghiệp tư nhân, hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty, hội đồng quản trị trực tiếp tổ chức thanh lí tài sản của doanh nghiệp trừ trường hợp điều lệ công ti quy định thành lập tổ chức thanh lí riêng”. Việc thanh toán các khoản nợ khá phức tạp vì liên quan đến quyền lợi của nhiều người, do đó cần tiến hành theo trình tự thủ tục nhất định. Khoản 4 Điều 158 Luật doanh nghiệp quy định thứ tự thanh toán các khoản nợ như sau:
a) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
b) Nợ thuế và các khoản nợ khác.
Trong quan hệ lao động với người sử dụng lao động (doanh nghiệp), quyền lợi của người lao động luôn được pháp luật quan tâm và chú trọng, vì vậy trong quá trình thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp khi giải thể, pháp luật cũng ưu tiên các khoản nợ đối với người lao động (khoản a) được thực hiện thanh toán trước rồi sau đó mới là các khoản nợ khác và nợ thuế của doanh nghiệp.
Sau khi doanh nghiệp thanh toán hết các khoản nợ với chủ nợ, doanh nghiệp tiến hành phân chia tài sản còn lại của mình cho các thành viên. Phần hoàn lại cho các thành viên có thể nhiều hoặc ít hơn phần vốn góp ban đầu tùy thuộc vào tình trạng tài sản của doanh nghiệp.
*Xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh:
Sau khi thanh toán hết nợ của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải gửi hồ sơ về giải thể doanh nghiệp tới cơ quan đăng ký kinh doanh. Khoản 5 Điều 158 quy định: “Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh”. Hồ sơ giải thể của doanh nghiệp phải tuân thủ quy định tại khoản 3 Điều 40 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp, bao gồm:
 a)  Quyết định giải thể hoặc quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố giải thể doanh nghiệp;
b) Danh sách chủ nợ và số nợ đã thanh toán, gồm cả thanh toán hết các khoản nợ về thuế và nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội;
c) Danh sách người lao động hiện có và quyền lợi người lao động đã được giải quyết;
d) Giấy xác nhận của cơ quan thuế về việc đã hoàn thành các nghĩa vụ về thuế;
đ) Giấy xác nhận của cơ quan công an về việc hủy con dấu;
e) Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư.
Xét trong 7 ngày làm việc nếu hồ sơ trên của doanh nghiệp hợp lệ, cơ quan đăng kí kinh doanh sẽ xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng kí kinh doanh. Doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại từ khi bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. 

3.     Quy định đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan đến giải thể doanh nghiệp

Việc đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan đến việc giải thể doanh nghiệp được thực hiện bằng hai quy định chính: cấm doanh nghiệp thực hiện một số hành vi nhất định và trách nhiệm của người quản lí doanh nghiệp bị giải thể.
-         Về các hoạt động bị cấm khi giải thể doanh nghiệp:
Điều 159 Luật Doanh nghiệp quy định: Kể từ khi có quyết định giải thể doanh nghiệp, nghiêm cấm doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sau đây:
1. Cất giấu, tẩu tán tài sản;
2. Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
3. Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp;
4. Ký kết hợp đồng mới không phải là hợp đồng nhằm thực hiện giải thể doanh nghiệp;
5. Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản;
6. Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
7. Huy động vốn dưới mọi hình thức khác.
Có thể thấy, đây là một điều luật mới so với Luật Doanh nghiệp 1999. Điều 159 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định như vậy là để bảo vệ lợi ích của chủ nợ, khách hàng và người tiêu dùng.
-         Trách nhiệm của người quản lí doanh nghiệp bị giải thể:
Điều 40, 41 Nghị định 102/2010/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của người quản lí doanh nghiệp khi bị giải thể, theo đó:
+  Thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ giải thể doanh nghiệp. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo, những người chiuk trách nhiệm về hồ sơ phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư.
+ Đối với việc giải thể chi nhánh, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và giám đốc chi nhánh bị giải thể phải liên đới chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của hồ sơ giải thể chi nhánh. Doanh nghiệp có chi nhánh đã bị giải thể chịu trách nhiệm thực hiện các hợp đồng thanh toán các khoản nợ, gồm cả nợ thuế của chi nhánh và tiếp tục sử dụng lao động hoặc giải quyết đủ quyền lợi hợp pháp cho người lao động đã làm việc tại chi nhánh theo quy định của pháp luật 

4.     Quy định về cơ quan có thẩm quyền trong giải thể doanh nghiệp

Pháp luật quy định nhiều cơ quan có thẩm quyền trong việc tiến hành giải thể doanh nghiệp, bao gồm các cơ quan:
-  Cơ quan cấp đăng kí kinh doanh có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể (điểm d khoản 1 Điều 163 Luật doanh nghiệp).
-  Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính có thẩm quyền kiến nghị cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh (Nghị định của Chính phủ số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008 về xử lí vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại).
-  Toà án có thẩm quyền quyết định chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư (khoản 4 Điều 65 Luật đầu tư và khoản 3 Điều 68 Nghị định của Chính phủ số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư), quyết định tuyên bố giải thể doanh nghiệp (khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 40 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP).
-  Trọng tài có thẩm quyền quyết định chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư do vi phạm pháp luật (khoản 4 Điều 65 Luật đầu tư và khoản 3 Điều 68 Nghị định số108/2006/NĐ-CP).

II – THỰC TRẠNG TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

[1] Ước tính trong năm 2013, số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động là 60.737, tăng 11.9% so với năm 2012, trong đó số doanh nghiệp đã giải thể là 9818 doanh nghiệp, tăng 4,9%. Theo thống kê, trong số 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước ngừng hoạt động thì tỷ lệ doanh nghiệp chờ giải thể, phá sản là 41,7%. Trong số 15 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 50% ngừng hoạt động, tỷ lệ doanh nghiệp chờ giải thể, phá sản và chờ sắp xếp lại cùng chiếm 40%, còn lại là nguyên nhân khác.Trong số các doanh nghiệp ngừng hoạt động, số doanh nghiệp chờ giải thể, phá sản chiếm tỷ lệ cao nhất với 41%.
Về cơ cấu theo địa bàn, các doanh nghiệp gặp khó khăn phải ngừng hoạt động vẫn tập trung chủ yếu tại các địa bàn truyền thống ở các thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng... và ở nhiều tỉnh thành khác. Về ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, đa số các lĩnh vực kinh doanh  đều có số doanh nghiệp phải dừng hoạt động gia tăng, nhiều nhất là ở  lĩnh vực bất động sản và chứng khoán; ngoài ra còn ở một số lĩnh vực khác như xây dựng, công nghiệp chế biến, dịch vụ việc làm, du lịch, …
[2] Theo thống kê mới nhất, trong quý I năm 2014 đã có hơn 16.000 doanh nghiệp giải thể và dừng hoạt động, tăng 9,16% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhưng có dấu hiệu đáng mừng là số doanh nghiệp gặp khó khăn đã phải ngừng hoạt động nhưng nay quay trở lại hoạt động trong Quý I - 2014, theo Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh, đạt 4.622 doanh nghiệp, tăng 48,9% so với quý IV/2013.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc các doanh nghiệp ngừng hoạt động cũng như giải thể là do nguyên nhân khách quan về tình hình kinh tế khó khăn chung của thế giới ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngoài ra nguyên nhân còn xuất phát từ chính bản thân doanh nghiệp như năng lực quản lý điều hành hạn chế, tình trạng thua lỗ kéo dài,thiếu vốn vốn đầu tư, không tìm kiếm được thị trường hoặc đang thuộc diện bán hoặc chờ sắp xếp lại,....
Trên thực tế, sự quản lý của nhà nước về hoạt động của doanh nghiệp nói chung và vấn đề giải thể nói riêng đóng một vai trò quan trọng. Thông qua pháp luật nhà nước thực hiện sự quản lý đó. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp vẫn còn tồn tại một số bất cập. Có thể kể đến một số bất cập như sau:
-       Thứ nhất, về trường hợp giải thể doanh nghiệp khi “kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn”: Trong quá trình thực hiện quy định này đã có hai bất cập nảy sinh:
+ Trong điều lệ của một số công ty không ghi rõ thời hạn hoạt động nên sẽ không xuất hiện trường hợp giải thể khi kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi bởi quy định về thời hạn hoạt động không phải là nội dung bắt buộc trong điều lệ (Điều 22 Luật doanh nghiệp).
+ Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Điều 52 Luật đầu tư quy định: "Thời hạn hoạt động của dự án có vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với yêu cầu hoạt động dự án và không quá năm mươi năm; trường hợp cần thiết, Chính phủ quyết định thời hạn dài hơn đối với dự án nhưng không quá bảy mươi năm. Thời hạn hoạt động của dự án được ghi trong giấy chứng nhận đầu tư". Như vậy, riêng dự án đầu tư thành lập tổ chức kinh tế (thành lập doanh nghiệp) sẽ có thời hạn hoạt động và thời hạn này được ghi trong giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh), chứ không phải là ghi trong điều lệ công ti.
-       Thứ hai, về việc đăng báo quyết định giải thể doanh nghiệp, khoản 3 Điều 158 Luật Doanh nghiệp quy định: Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải thể doanh nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp”. Có thể thấy quy định này chưa thực sự cụ thể khi pháp luật không hề quy định cụ thể về trường hợp nào phải đăng báo và phải đăng báo những nội dung gì.
-  Thứ ba, có sự không thống nhất trong quy định về điều kiện giải thể giữa quy định của luật và văn bản hướng dẫn thi hành. Điều 158 Luật doanh nghiệp quy định doanh nghiệp phải "đảm bảo thanh toán" hết nợ và các nghĩa vụ tài sản khác thì quy định về thủ tục giải thể tại Nghị định số 102/2010/NĐ-CP lại đòi hỏi các giấy tờ chứng minh doanh nghiệp đã thanh toán hết các khoản nợ. Đây là một trong những nguyên nhân doanh nghiệp bỏ dở thủ tục rời khỏi thương trường do khó hoàn tất hồ sơ giải thể.
-       Thứ tư, còn tồn tại một số quy định chưa thực sự rõ ràng ví dụ như quy định doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sau đây: Không hoạt động tại trụ sở đăng ký trong thời hạn 6 tháng liên tục, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính (điểm d, Khoản 2, Điều 165). Theo quy định trên thì doanh nghiệp chỉ cần không hoạt động trong 6 tháng liên tục tại trụ sở đã đăng ký thì sẽ bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bị xóa tên dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp không hoạt động liên tục trên 6 tháng mà vẫn không làm thủ tục giải thể vì sợ mất thời gian và kinh phí, thậm chí một số chủ doanh nghiệp là người nước ngoài bỏ mặc doanh nghiệp, bỏ trốn về nước và để lại những khoản nợ.
Một quy định khác cũng thể hiện sự chưa rõ ràng là khoản 6 Điều 158 của Luật doanh nghiệp quy định như sau: “Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trình tự và thủ tục giải thể được thực hiện theo quy định tại Điều này”. Quy định không hợp lý và có nhiều tác động tiêu cực đến việc giải quyết giải thể doanh nghiệp. Chính vì quy định này mà một số doanh nghiệp đã lợi dụng để được giải thể “tự động” mà không mất thời gian, chi phí cho việc làm thủ tục giải thể.
-  Thứ năm, pháp luật không quy định cách thức "đảm bảo thanh toán" đối với những khoản nợ chưa được thanh toán xong ở thời điểm giải thể mà chỉ quy định  Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác” (khoản 2 Điều 157 Luật doanh nghiệp quy định). Ngược lại, nếu như đòi hỏi doanh nghiệp phải thanh toán hết các khoản nợ khi nộp hồ sơ giải thể theo quy định tại Nghị định 102/2010/NĐ-CP) thì quy định về thứ tự thanh toán tại Điều 158 lại không cần thiết.

III – PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP

-       Về các trường hợp giải thể, điểm d khoản 1 Điều 157 quy định trường hợp giải thể bắt buộc " bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh". Ngoài quy định này, nên bổ sung trường hợp giải thể bắt buộc do "bị huỷ giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh", bởi  loại giấy tờ này có thể bị toà án huỷ nếu như được cấp trái pháp luật và có thể được cấp lại đúng pháp luật.
-       Về thủ tục giải thể:
+  Nên bổ sung quy định về thủ tục thanh toán nợ có đảm bảo nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của chủ nợ có đảm bảo.
+  Nên quy định buộc mọi trường hợp giải thể phải đăng báo công khai quyết định giải thể. Điều này tương xứng với thủ tục đăng báo khi thành lập.
-       Về quy định về giấy tờ phải có trong hồ sơ giải thể nên sửa đổi theo hướng bỏ quy định liên quan đến giấy tờ chứng minh doanh nghiệp đã thanh toán hết các khoản nợ, thay vào đó là quy định về các giấy tờ chứng minh cách thức "đảm bảo thanh toán" đã được thống nhất giữa chủ nợ và doanh nghiệp bị giải thể .
-        Nên bổ sung khoản 3 Điều 158 Luật doanh nghiệp và Điều 40 NĐ 102/2010/NĐ-CP nội dung về trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh khi doanh nghiệp giải thể như sau: “Kể từ khi cơ quan đăng ký kinh doanh nhận được quyết định giải thể của doanh nghiệp gửi tới, nếu doanh nghiệp gửi văn bản yêu cầu giúp đỡ thì cơ quan đăng ký kinh doanh phải có trách nhiệm phối hợp giải quyết các vấn đề liên quan đến thủ tục giải thể mà doanh nghiệp gặp khó khăn. Nếu cơ quan đăng ký kinh doanh không thực hiện nhiệm vụ trên thì phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường cho doanh nghiệp nếu gây ra thiệt hại do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm của mình.”
-       Cần sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005 theo hướng tăng chế tài xử phạt. Cụ thể, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không thực hiện đăng ký ngừng hoạt động hoặc phá sản, giải thể, có mức nợ thuế Nhà nước lớn sẽ không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp cho đến khi tuân thủ quy định.
-       Cần ban hành quy định hướng dẫn chi tiết và cụ  thể khâu đóng mã số thuế để việc giải thể được nhanh chóng không ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh tiếp theo.
-       Đơn giản hóa các các thủ  tục, quy trình về giải thể doanh nghiệp để khuyến khích các doanh nghiệp vì một lý do nào đó mà không hoạt động nữa sẽ tiến hành thủ tục giải thể. Bởi nếu thủ tục quá phức tạp, doanh nghiệp sẵn sàng “biến mất” mà không cần thông qua thủ tục giải thể, khi đó việc bảo vệ quyền lợi của các chủ thể có liên quan sẽ trở nên khó khăn hơn. 
-       Ngoài ra, để giảm tình trạng giải thể trong các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước tăng cường những biện pháp, chính sách hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Đồng thời, các chủ thể có thẩm quyền cần tăng cường công tác quản lý kiểm tra, kiểm soát, phát hiện kịp thời có chế tài xử lý những sai phạm trong hoạt động của các doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn linh hoạt trong điều hành.

KẾT LUẬN

Trên thực tế Luật doanh nghiệp 2005 vẫn còn tồn tại một số quy định chưa thực sự chặt chẽ về các quy định khác nói chung và quy định về giải thể nói riêng. Do đó cần sửa đổi, bổ sung Luật để tránh tình trạng các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc vì lý do nào đó không thể hoạt động không tiến hành các thủ tục giải thể mà tự ý “biến mất”. Việc sửa đổi các quy định của pháp luật hiện hành là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp rút ra khỏi thương trường một cách thuận lợi trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng quyền lợi của các bên chủ thể có liên quan.  Do vậy các chủ doanh nghiệp cần hiểu đầy đủ về những quy định giải thể để tránh các trường hợp vi phạm pháp luật đáng tiếc có thể xảy ra.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.       Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
2.       Luật doanh nghiệp 2005
3.       Nghị định của Chính phủ số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp.
4.     Ts. Bùi Ngọc Cường (Chủ biên), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam 1, Nxb Giáo dục.
5.     TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên), Hỏi & đáp Luật Thương mại (hay Luật kinh doanh, Luật Kinh tế), Nxb. Chính trị - hành chính
http://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=13843



[1]  Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 2013
[2]  Theo thống kê của Cục quản lý kinh doanh – Bộ Kế hoạch đầu tư

Related Post

Previous
Next Post »