BẢNG
TỪ NGỮ VIẾT TẮT
TAHPLB
|
Tòa
án Hiến pháp Liên bang
|
LB
|
Liên
bang
|
HĐLB
|
Hội
đồng Liên bang
|
HPLB
|
Hiến
pháp Liên bang
|
PLLB
|
Pháp
luật Liên bang
|
HĐBH
|
Hội
đồng Bảo hiến
|
TAHPTB
|
Tòa
án Hiến pháp Tiểu bang
|
Ở Việt Nam, vấn
đề thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp đang ngày được quan tâm. Vì vậy, em xin lựa
chọn đề tài: “Tổ chức, hoạt động của cơ quan bảo hiến của Pháp và Đức; kinh nghiệm
thực tiễn cho Việt Nam” để làm rõ hơn vấn đề này.
I.
Tổ
chức và hoạt động của cơ quan bảo hiến ở Đức
1. Tổ
chức
Ở Đức, TAHPLB vừa
là cơ quan xét xử sơ thẩm và chung thẩm các vụ kháng cáo, kháng nghị liên quan
đến tính hợp hiến của các đạo luật, xung đột về thẩm quyền giữa các bang và giữa
các bang với LB.
TAHPLB gồm 2 văn
phòng (senate) có quyền hạn như nhau và độc lập với nhau, với 16 thẩm phán,
chia đều cho 2 văn phòng, một nửa do Hạ viện LB, một nửa do Thượng viện LB bầu
với đa số (2/3 số phiếu thuận). 6 thẩm phán được lựa chọn trong số các thẩm
phán Toà án LB. 10 Thẩm phán còn lại là những nhân vật không dưới 40 tuổi và
không quá 68 tuổi, đủ điều kiện để được chọn thành dân biểu Hạ viện, đã tốt
nghiệp đại học chuyên ngành luật, có khả năng chuyên môn cần thiết để hành nghề
thẩm phán. Thẩm phán ở TAHPLB không được kiêm chức vụ ở Trung ương hay Chính phủ,
nhưng có thể tham gia giảng dạy ở các trường đại học và nghiên cứu khoa học.
Nhiệm kì các thẩm phán là 12 năm và không được tái nhiệm.
Đứng đầu TAHPLB
là Chánh án, sau là phó Chánh án do Quốc hội và HĐLB bầu ra từ số thành viên của
Đoàn chủ tịch TAHPLB theo nguyên tắc luân phiên. Nghĩa là Quốc hội bầu Chánh án
thì HĐLB bầu phó chánh án và ngược lại đến nhiệm kì sau.
2. Hoạt
động
TAHPLB chia làm
6 hội đồng xét xử, mỗi hội đồng gồm 3 Thẩm phán, chịu trách nhiệm giải quyết phần
lớn các khiếu kiện.
Pháp luật Đức
phân định rõ những loại vụ việc được giải quyết ở mỗi Tòa. Theo đó, những vụ việc
liên quan đến mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân được trao cho "Tòa thứ nhất". Các vụ việc
liên quan đến mối quan hệ giữa các bộ phận và nhánh quyền lực khác nhau trong nội
bộ Nhà nước thì được trao cho "Tòa
thứ hai".
Tòa thứ nhất
xem xét tính không phù hợp với quyền cơ bản (ghi nhận trong Hiến pháp) của một
quy định pháp luật cũng như giải quyết những khiếu nại hiến pháp:
- Tranh chấp hoặc
nghi ngờ về sự phù hợp với HPLB của PLLB hay tiểu bang, hay với PLLB của pháp luật tiểu bang, theo đề nghị của
Chính phủ LB, của một chính phủ tiểu bang hoặc của 1/3 số đại biểu Quốc hội.
- Về sự phù hợp
của đạo luật của LB hay của tiểu bang với HPLB, một đạo luật hay pháp luật khác
của một tiểu bang với Luật của LB theo đề nghị của một tòa án.
Tòa thứ hai
tập trung giải quyết những vấn đề tranh chấp theo luật công, phát sinh từ mối
quan hệ giữa các nhánh quyền lực (Quốc hội - Chính phủ), giữa các cấp quyền lực
(Liên bang - tiểu bang) và các tranh chấp khác theo luật công. Đó là:
- Về việc thực
hiện quyền cơ bản công dân (từ 1951 – 1999 có 122.257 vụ).
- Về việc cấm hoạt
động của một đảng chính trị (từ 1951 – 1999 có 5 vụ).
- Khiếu nại chống
một quyết định của Quốc hội về tư cách đại biểu.
- Khiếu kiện của
Quốc hội hay HĐLB chống lại Tổng thống LB.
- Trường hợp giải
thích Hiến pháp của cơ quan tối cao LB khi có tranh chấp về phạm vi quyền và
nghĩa vụ cơ bản.
- Tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ của LB và các tiểu bang, đặc biệt liên quan đến việc thực thi
PLLB của các tiểu bang hay liên quan đến hoạt động giám sát của LB (từ 1951 –
1999 có 106 vụ).
- Các tranh chấp
khác theo luật công giữa LB và các tiểu bang, hoặc giữa các tiểu bang với nhau
cũng như trong nội bộ một tiểu bang, khi chúng không thể được giải quyết bằng
tòa án thông thường.
- Trường hợp có
nghi ngờ về khả năng trở thành PLLB của pháp luật quốc tế, theo đề nghị của một
tòa án.
- Trường hợp một
TAHPTB muốn giải thích HPLB khác với quyết định của TAHPLB hay của một TAHPTB
khác, theo đề nghị của chính TAHPTB này.
- Trường hợp có
ý kiến khác nhau về vấn đề tiếp tục có hiệu lực của PLLB…
II.
Tổ chức và hoạt động của cơ quan bảo hiến ở Pháp
1. Tổ
chức
Ở Pháp, cơ quan
bảo hiến được gọi là HĐBH. Điều 56 Hiến pháp 1958 quy định: HĐBH gồm 9 thành
viên do Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện , Chủ tịch Hạ viện bổ nhiệm (mỗi người
bổ nhiệm ba thành viên), nhiệm kì 9 năm và không gia hạn. HĐBH thay đổi 1/3
thành viên sau 3 năm. Ngoài 9 thành viên kể trên, thành viên đương nhiên và
vĩnh viễn là cựu Tổng thống Pháp. Chủ tịch HĐBH do Tổng thống bổ nhiệm. Chủ tịch
có quyền quyết định nếu số phiếu bằng nhau.
Thành
viên HĐBH không đồng thời là thành viên Chính phủ, Nghị viện, Hội đồng Kinh tế
và xã hội. Điều 57 Hiến pháp quy định: “Không
được kiêm nhiệm chức vụ hội viên HĐBH hay chức vụ dân biểu”. Thành viên HĐBH
không thể đảm nhiệm bất kì chức vụ gì của một cơ quan công cộng hoặc tham gia
vào lĩnh vực mà có thể dễ ảnh hưởng đến quyết định của HĐBH, cũng không được
tham gia vào bất kì một vị trí có trách nhiệm hoặc chức vụ trong các đảng chính
trị hoặc các nhóm lợi ích.
2. Hoạt
động
Theo Hiến pháp
1958, HĐBH có 3 loại thẩm quyền chính:
Thẩm
quyền tư vấn: HĐBH có quyền tham gia vào quá trình
thiết lập vị trí Tổng thống khi vị trí này không thực thi được nhiệm vụ của
mình, có quyền đưa ra ý kiến cho Tổng thống quyết định những biện pháp đặc biệt
trong hoàn cảnh đặc biệt.
Thẩm
quyền xem xét các tranh chấp trong bầu cử (Nghị viện và Tổng thống) và trưng cầu
ý dân: quyết định của HĐBH là quyết định cuối cùng bắt buộc
thi hành với tất cả cơ quan nhà nước và không được khiếu nại. Nhưng HĐBH thường
không tự mình hành động, thẩm tra, giải thích hay phán quyết nếu không có yêu cầu.
Thẩm
quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước khi công bố và giữ gìn.
Tuy nhiên, chỉ xem xét vụ việc khi có đơn đề nghị của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ
tịch Thượng viện, Chủ tịch Hạ viện, 60 thượng nghị sỹ hoặc 60 hạ nghị sỹ.
Ngoài
ra, HĐBH có thể tham gia soạn thảo hoặc sửa đổi các đạo
luật khi có sự tranh chấp về thẩm quyền giữa Nghị viện và Chính phủ. HĐBH có thể
kiểm soát sự vi phạm của các đạo luật đã có hiệu lực (đạo luật được thông qua
Hiến pháp 1958; đạo luật được thông qua sau 1958, có những quy định không thuộc
phạm vi của lập pháp, nhưng Chính phủ lại không đệ trình vấn đề đó lên HĐBH).
III. Kinh nghiệm thực tiễn cho Việt
Nam
Ở Việt Nam, việc thành
lập cơ chế bảo hiến không còn là vấn đề tranh luận, nhất là khi đã có tuyên bố,
quy định của Hiến pháp và pháp luật về nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của
Hiến pháp… Vấn đề phải bàn nhiều hiện nay là lựa chọn mô hình bảo hiến nào? Việt
Nam không tổ chức bộ máy nhà nước theo chế độ lưỡng viện, không thừa nhận sự đa
nguyên chính trị, trật tự nhà nước pháp quyền cũng không thể có diện mạo và mức
độ "phát triển" như ở Pháp
và Đức, ý thức pháp luật và thói quen tự bảo vệ mình trước công quyền của người
dân cũng chưa bằng ở Pháp và Đức.
Trước
hết, sự tương thích của cơ chế bảo hiến với nguyên tắc
thống nhất quyền lực ở Việt Nam. Khi Hiến pháp đã ở vị trí tối thượng thì tất cả
định chế quyền lực đều dưới Hiến pháp, kể cả Quốc hội. Vấn đề thống nhất quyền
lực chỉ còn là vấn đề không tạo ra một cơ chế mâu thuẫn, đối trọng giữa Quốc hội
và Chính phủ như: Chính phủ không được yêu cầu giải tán Quốc hội, Quốc hội cũng
không được lật đổ Chính phủ, Chính phủ không được từ chức tập thể. Nếu nhận thức
như vậy về thống nhất quyền lực, tài phán hiến pháp không mâu thuẫn với nguyên
tắc căn bản này của việc tổ chức quyền lực nhà nước ở ViệtNam. Ngược lại, cũng
không ít ý kiến cho rằng, cơ chế bảo hiến không phù hợp với nguyên tắc thống nhất
quyền lực nhà nước.
Thứ
hai, năng lực để thực hiện cơ chế bảo hiến. Thẩm phán
cơ quan bảo hiến ở các nước phải là những người có uy tín rất cao về chuyên môn
luật và đạo đức, là chuyên gia hàng đầu trong giới luật. Không những thế, năng
lực của cơ quan bảo hiến còn phải được bảo đảm bằng những yếu tố hỗ trợ như bộ
máy, con người, thông tin v.v…Ở Việt Nam, dường như tiêu chí chuyên môn nhiều
khi nhường chỗ cho yếu tố chính trị, có thể ảnh hưởng đến yếu tố chuyên môn của
công tác bảo hiến.
Thứ
ba, tính độc lập của cơ chế bảo hiến, dù đó là Tòa án bảo
hiến, Tòa án tối cao, hay là một mô hình khác. Qua các phần trình bày trên, có
thể thấy cần có những yếu tố để bảo đảm sự độc lập này như: cách thức thành lập,
bổ nhiệm thẩm phán, nhất là chánh án, nguồn lực v.v… Ở Việt Nam, liên quan đến
tính độc lập, một trong những yếu tố hết sức quan trọng là sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với các thiết chế nhà nước như cơ quan bảo hiến. Đối với
hoạt động của cơ quan bảo hiến sau này, đây là yếu tố hàng đầu liên quan đến sự
độc lập của cơ quan này.
Thứ
tư, nhu cầu sử dụng cơ chế bảo hiến. Mặc dù sự cần thiết
thành lập cơ chế bảo hiến không còn là vấn đề tranh luận nhiều, nhưng khi thành
lập, nhu cầu sử dụng cơ chế bảo hiến có cao không? Hay là thành lập ra nhưng chỉ
xét xử mỗi năm vài vụ? Tâm lý chung của xã hội, người dân và các chủ thể công ở
Việt Nam đều ngại ra tòa nói chung, chứ chưa nói đến một thiết chế hoàn toàn mới
lạ như cơ quan bảo hiến.
Thứ
năm, sự phân định giữa cơ quan bảo hiến và những thiết
chế hiện có ở Việt Nam để thực hiện kiểm soát tính hợp hiến của VBQPPL như thẩm
định, thẩm tra. Khi tìm hiểu các sự lựa chọn đối với mô hình bảo hiến, các thiết
chế có tính chất tư vấn như các cơ quan quốc gia phụ trách quyền con người,
Thanh tra nghị viện, Ủy ban thông tin, Ủy ban bầu cử, Ủy ban về hiến pháp của
nghị viện…. cũng được đề cập.
Dù
theo mô hình nào thì mục đích cuối cùng vẫn là bảo vệ hiến pháp – đạo luật tối
cao, bảo đảm nhà nước pháp quyền. Hoạt động bảo hiến dù với hình thức hiến định
nào cũng đều thực hiện những nhiệm vụ: bảo đảm sự ổn định và tối cao của hiến
pháp, sự tuân thủ những mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước,
bảo vệ những quyền và tự do hiến định của con người.