Trình bày hiểu biết của em về quảng cáo và khuyến mại loại hàng hóa: thuốc chữa bệnh cho người


Thuốc chữa bệnh cho người là một loại hàng hóa đặc biệt, có những đặc điểm riêng biệt so với các loại hàng hóa thông thường và được xếp vào hàng nhu cầu yếu phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của con người.
Quảng cáo, khuyến mại là công cụ hữu hiệu để thương nhân chiếm lĩnh thị trường, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Nếu quảng cáo và khuyến mại thuốc được triển khai theo hướng đúng đắn sẽ góp phần không nhỏ trong công cuộc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người dân.
Nhận thức rõ vấn đề này, em xin chọn đề bài số 4: “Trình bày hiểu biết của em về quảng cáo và khuyến mại loại hàng hóa: thuốc chữa bệnh cho người” để làm bài tập học kỳ.


I. Một số vấn đề lý luận chung
1. Quảng cáo
Điều 102 Luật Thương mại (LTM) quy định: “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình”.
Trên cơ sở LTM, khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 quy định: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”.
2. Khuyến mại
Điều 88 LTM, quy định: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”.
Các lợi ích mà khách hàng có thể được hưởng là: dùng thử hàng mẫu miễn phí; Tặng quà; Giảm giá; Tặng phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ; Tặng kèm phiếu dự thi; Tổ chức các chương trình may rủi; Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên; Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại; Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận.
3. Thuốc
Khoản 2 Điều 2 Luật Dược 2005 và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 13/2009/TT – BYT quy định: “Thuốc là chất hoặc hỗn hợp các chất dùng cho người nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể bao gồm thuốc thành phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm chức năng.”
Từ đó, ta có thể hiểu, thuốc chữa bệnh cho người là những sản phẩm có thể có nguồn gốc từ động vật, thực vật, khoáng chất, hóa dược hay sinh học, tác động lên cơ thể con người, có các công dụng: phòng bệnh, chữa bệnh, phục hồi điều chỉnh chức năng của cơ thể, làm giảm triệu chứng bệnh, chẩn đoán bệnh, phục hồi hoặc nâng cao sức khỏe, làm mất cảm giác một bộ phận cơ thể hay toàn thân, làm ảnh hưởng đến quá trình sinh sản, làm thay đổi hình dáng cơ thể... Thuốc phải đạt tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (phải được sản xuất tại các cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP – WHO).
Thuốc không phải là thực phẩm, không bao gồm thực phẩm chức năng, do đó, phải cẩn trọng khi dùng, phải đúng liều đúng lượng. Thực tế, có nhiều chất khó phân ranh, phân biệt rạch ròi giữa thuốc và thực phẩm. Bản thân thực phẩm chức năng hoặc có chứa yếu tố có lợi với hàm lượng cao hoặc được bổ sung nhiều nguyên, vật liệu khác để có nhiều tác dụng sinh học hơn (như sữa có thêm canxi, sắt,...), những thực phẩm chức năng này còn được gọi là thực phẩm thuốc hay dược phẩm dinh dưỡng.
II. Quảng cáo thuốc
Khoản 3 Điều 2 Thông tư 13/2009/TT – BYT quy định: “Quảng cáo thuốc là hoạt động giới thiệu thuốc do đơn vị kinh doanh thuốc trực tiếp tiến hành hoặc phối hợp, hoặc tài trợ, uỷ quyền cho một đơn vị khác tiến hành để thúc đẩy việc kê đơn, cung ứng, bán và/ hoặc sử dụng thuốc trên cơ sở sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả”.
Ta có thể thấy, quảng cáo thuốc là một hoạt động xúc tiến thương mại bởi nó mang dấu hiệu, tính chất của hoạt động xúc tiến thương mại. Quảng cáo thuốc là hoạt động mang tính chất giới thiệu hàng hóa là thuốc chữa bệnh cho người, chủ thể là đơn vị kinh doanh thuốc chữa bệnh và với mục đích thúc đẩy việc tiêu thụ thuốc. Tuy nhiên, đối tượng được quảng cáo ở đây là thuốc chữa bệnh cho người, là một loại hàng hóa đặt biệt, có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của con người nên quảng cáo thuốc cũng có những quy định riêng và hết sức chặt chẽ.
1.  Các loại thuốc được phép quảng cáo
Điều 5 Luật Dược và Khoản 2 Điều 3, Điều 19 Thông tư 13/2009/TT – BYT quy định các loại thuốc được phép quảng cáo: “1. Thuốc thuộc Danh mục thuốc không kê đơn do Bộ Y tế ban hành và có số đăng ký đang còn hiệu lực được quảng cáo trên sách, báo, tạp chí, tờ rơi, báo điện tử, website của doanh nghiệp, website của đơn vị làm dịch vụ quảng cáo, pano, áp phích băng rôn, vật thể phát quang, vật thể trên không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể di động khác và trên các phương tiện quảng cáo khác.
2. Thuốc được Bộ Y tế cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam, có hoạt chất chính nằm trong danh mục hoạt chất thuốc được đăng ký quảng cáo trên phát thanh, truyền hình do Bộ Y tế ban hành được quảng cáo trên phát thanh, truyền hình”.
Từ quy định trên, ta có thể thấy, chỉ những thuốc đã được cấp sổ đăng kí lưu hành tại Việt Nam và thuốc không kê đơn mới được quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo thuốc. Trường hợp thuốc đó quảng cáo trên phát thanh, truyền hình thì cần phải đáp ứng điều kiện:
“a) Có hoạt chất thuộc danh mục được phép quảng cáo trên truyền thanh, truyền hình do Bộ Y tế ban hành;
b) Có số đăng ký tại Việt Nam đang còn hiệu lực.”
2. Quy định về chủ thể quảng cáo thuốc
Cũng giống như chủ thể quảng cáo thương mại, chủ thể quảng cáo thuốc bao gồm: Người quảng cáo thuốc, thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo và người cho thuê phương tiện quảng cáo.
- Người quảng cáo thuốc: Khoản 1 Điều 52 Luật Dược 2005 quy định: “Việc quảng cáo thuốc do cơ sở kinh doanh thuốc hoặc người kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện và phải tuân theo quy định của pháp luật về quảng cáo”. Do đó, người quảng cáo là cơ sở kinh doanh thuốc hoặc người kinh doanh dịch vụ quảng cáo và họ phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 17 Nghị định 24/2003/NĐ – CP.
- Thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo: Theo quy định tại Điều 104 LTM, kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại của thương nhân để thực hiện việc quảng cáo cho thương nhân khác”. Quyền và nghĩa vụ của họ được quy định cụ thể tại Điều 113 và Điều 114 LTM.
- Người phát hành quảng cáo là người trực tiếp phát hành sản phẩm quảng cáo thương mại đến công chúng. Quyền và nghĩa vụ của họ được quy định tại Điều 116 Luật Thương mại 2005.
- Người cho thuê phương tiện quảng cáo là người nắm giữa các phương tiện quảng cáo như báo chí, truyền hình... và sẵn sàng cho những người có nhu cầu thuê với mục đích phát hành quảng cáo.
3. Phương tiện quảng cáo thuốc chữa bệnh cho người
Các hình thức quảng cáo thuốc bao gồm: Quảng cáo trên sách, báo, tạp chí, tờ rơi, áp phích; Quảng cáo trên bảng, biển, pano, băng rôn, vật thể phát quang, vật thể trên không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể di động khác; Quảng cáo trên phương tiện phát thanh, truyền hình; Quảng cáo trên báo điện tử, website của doanh nghiệp, website của đơn vị làm dịch vụ quảng cáo; Quảng cáo trên các phương tiện thông tin quảng cáo khác.
Thuốc chữa bệnh do ngành y tế quản lý là hàng hóa, dịch vụ đặc biệt, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, thậm chí, tính mạng của người sử dụng hàng hóa, dịch vụ này nếu nó không bảo đảm. Vì tính chất đặc biệt này nên tổ chức, cá nhân có dịch vụ, hàng hóa trước khi quảng cáo phải gửi hồ sơ đến cơ quan y tế để thẩm định nội dung và chỉ được quảng cáo đúng nội dung đã thẩm định. Bộ Y tế (Cục Quản lý dược) là nơi tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đăng ký quảng cáo thuốc và hồ sơ đăng ký thông tin để giới thiệu thuốc cho cán bộ y tế.
Thông tư 13/2009 quy định rõ chỉ đơn vị đăng ký thuốc được đăng ký hồ sơ thông tin, quảng cáo thuốc do mình đăng ký. Trường hợp đơn vị đăng ký thuốc muốn ủy quyền cho đơn vị khác đăng ký hồ sơ thông tin, quảng cáo thì phải có văn bản ủy quyền. Đơn vị được ủy quyền phải là đơn vị có tư cách pháp nhân hợp pháp. Thuốc đã được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam được thông tin, quảng cáo theo quy định tại Thông tư này. Thuốc chưa được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam nhưng đã được phép lưu hành ở nước khác chỉ được thông tin cho cán bộ y tế thông qua hội thảo giới thiệu thuốc.
Đơn vị kinh doanh thuốc có thể giới thiệu thuốc cho cán bộ y tế thông qua người giới thiệu thuốc, phát hành tài liệu thông tin thuốc cho cán bộ y tế, hội thảo giới thiệu thuốc cho cán bộ y tế và trưng bày, giới thiệu thuốc tại các hội nghị, hội thảo chuyên ngành y tế. Trong đó, đơn vị kinh doanh thuốc, văn phòng đại diện đã đăng ký hoạt động về lĩnh vực dược tại Việt Nam có quyền tổ chức hội thảo giới thiệu với cán bộ y tế các thuốc đã được phép sản xuất, lưu hành ở nước khác. Đơn vị nước ngoài muốn tổ chức hội thảo giới thiệu thuốc tại Việt Nam phải phối hợp với một cơ sở kinh doanh thuốc hoặc một cơ sở y tế Việt Nam như bệnh viện, viện chuyên khoa y tế, cơ sở đào tạo cán bộ y tế, Hội nghề nghiệp y, Hội nghề nghiệp dược.
4. Các hành vi cấm khi quảng cáo thuốc chữa bệnh cho người
Theo Thông tư số 13/2009/TT – BYT hướng dẫn hoạt động thông tin, quảng cáo thuốc, các hành vi cấm bao gồm:
Sử dụng lợi ích vật chất hay tài chính dưới mọi hình thức để tác động tới thầy thuốc, người dùng thuốc nhằm thúc đẩy việc kê đơn, sử dụng thuốc; Lợi dụng số đăng ký cho phép lưu hành thuốc của Cục Quản lý dược, của cơ quan quản lý dược phẩm nước khác để quảng cáo thuốc; Sử dụng danh nghĩa, biểu tượng, hình ảnh, địa vị, uy tín, thư tín của tổ chức y, dược, của cán bộ y tế, thư cảm ơn của bệnh nhân để quảng cáo, khuyên dùng thuốc; Lợi dụng hình thức thầy thuốc hướng dẫn cách phòng bệnh, chữa bệnh hoặc hướng dẫn sử dụng thuốc bằng các bài viết trên báo, bằng các chương trình phát thanh, truyền hình để quảng cáo thuốc.
Nhà làm luật nghiêm cấm các hành vi này bởi lẽ trong hoạt động quảng cáo, nó không thể hiện bản chất, chất lượng thực sự của sản phẩm mà lợi dụng những yếu tố bên ngoài (lợi ích vật chất tài chính, danh nghĩa, hình ảnh của cán bộ y tế, .) để làm “nền” cho sản phẩm nhằm mục đích duy nhất là lấy được lòng tin của khách hàng qua đó bán được hàng.
Sử dụng các loại kết quả nghiên cứu lâm sàng chưa đủ cơ sở khoa học, chưa đủ bằng chứng y học để thông tin, quảng cáo thuốc; Lợi dụng kết quả kiểm nghiệm, các chứng nhận do cơ quan có thẩm quyền cấp, huy chương do hội chợ triển lãm cấp cho sản phẩm và/hoặc đơn vị để quảng cáo thuốc;
Thông tin, quảng cáo thuốc có nội dung không phù hợp với thuần phong, mỹ tục Việt Nam; lạm dụng hình ảnh động vật hoặc các hình ảnh khác không liên quan để thông tin, quảng cáo thuốc gây ra cách hiểu sai cho người sử dụng; Phát hành cho công chúng tài liệu thông tin thuốc cho cán bộ y tế;
Dùng câu, chữ, hình ảnh, âm thanh gây nên các ấn tượng cho công chúng như “Thuốc này là số một”, “tốt hơn tất cả”, “sử dụng thuốc này là biện pháp tốt nhất”, “sử dụng thuốc này không cần có ý kiến của thầy thuốc”, “thuốc này hoàn toàn vô hại, không có tác dụng phụ, không có chống chỉ định”.
So sánh với ý đồ quảng cáo thuốc của mình tốt hơn thuốc, hàng hoá của tổ chức, cá nhân khác.
Quảng cáo, thông tin (trừ trường hợp quy định tại Khoản 3, Điều 9 tại Thông tư 13/2009/TT – BYT Hướng dẫn hoạt động thông tin, quảng cáo thuốc) các thuốc chưa được cấp số đăng ký hoặc số đăng ký hết hiệu lực.
Thông tin (trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 10 của Thông tư 13/2009/TT-BYT), quảng cáo thuốc khi chưa nộp hồ sơ đăng ký thông tin, quảng cáo thuốc tại cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; thông tin, quảng cáo thuốc không đúng với nội dung đã đăng ký; thông tin, quảng cáo thuốc đang trong thời hạn xem xét, giải quyết hồ sơ theo quy định.
5. Một số bất cập
Đầu tiên, quảng cáo thuốc phải khách quan, trung thực công dụng, tác dụng phụ của thuốc. Tuy nhiên, trên thực tế, nhà sản xuất, kinh doanh thường chỉ nhấn mạnh về ưu điểm và đưa thông tin về tác dụng phụ rất mờ nhạt. Tính năng tốt của thuốc được thể hiện rất rõ ràng, chiếm thời lượng, diện tích rất lớn, còn phần chống chỉ định và câu “Đọc kĩ hướng dẫn trước khi dùng” được làm rất sơ sài, mang tính đối phó. Hay việc quảng cáo không đúng với nội dung đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
Thứ hai, nhiều cơ sở, công ty quảng cáo các sản phẩm thuốc bất chấp những quy định của Bộ Y tế. Tại điều 13 trong “Quy chế thông tin, quảng cáo thuốc” của Bộ Y tế quy định: không được in tên thuốc, nội dung quảng cáo thuốc lên các bao bì để đựng thuốc bán lẻ cho người bệnh, cũng như phân phát những tài liệu thông tin thuốc dùng cho cán bộ y tế cho công chúng... Tuy nhiên, các nhà thuốc được các hãng thuốc cung cấp miễn phí bao bì đựng thuốc cho người mua, các xe buýt chạy khắp phố phường còn quảng cáo cho một số thuốc chữa bệnh, tại trạm chờ xe buýt cũng vậy... Trên một diện tích nhỏ như vậy không thể nào chuyển tải được đầy đủ những thông tin về thuốc, nhất là tác dụng phụ của thuốc, mà chỉ ghi những ưu điểm của thuốc. Vì vậy, quản lý quảng cáo và nội dung quảng cáo thuốc chữa bệnh vẫn còn nhiều bất cập.
Thứ ba, chế tài xử phạt việc vi phạm hiện nay còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Các vi phạm chủ yếu là: Quảng cáo khi chưa có hồ sơ đăng ký, quảng cáo không đúng với hồ sơ đăng ký, sử dụng lợi ích vật chất để thúc đẩy sử dụng thuốc... Trong đó, rất nhiều vụ vi phạm quy chế thông tin quảng cáo thuốc mà cơ quan quản lý không thể biết do lực lượng mỏng, địa bàn rộng. Vì vậy, các hãng thuốc đã dùng các thủ thuật kinh doanh, quảng cáo tiếp thị thuốc bằng các hình thức tài trợ, khuyến mãi, tặng thuốc, phát tờ rơi, trích hoa hồng cho bác sĩ... khiến cho việc sử dụng thuốc nhiều nơi đã rơi vào tình trạng chạy theo quảng cáo, chạy theo lợi nhuận chứ không phải vì mục tiêu sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả.
III. Khuyến mại thuốc
1.  Nguyên tắc khuyến mại
Khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ – CP quy định: “Không được dùng thuốc chữa bệnh cho người (kể cả các loại thuốc đã được phép lưu thông) để khuyến mại.”
Theo quy định này, ngoài người tiêu dùng ra, những nhà sản xuất và những nhà phân phối cũng không được phép khuyến mại thuốc khi buôn bán cho nhau. Thực tế này ã gây khó khăn rất nhiều cho nhà sản xuất và những nhà phân phối. Điều này dẫn đến sự ra đời Nghị định 68/2009/NĐ – CP sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ – CP, theo đó, sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ – CP như sau: “7. Không được dùng thuốc chữa bệnh cho người, kể cả các loại thuốc đã được phép lưu thông để khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại cho thương nhân kinh doanh thuốc”.
2.  Đối tượng hướng đến khi khuyến mại
Đối tượng hướng đến khi khuyến mãi sản phẩm là những thương nhân khác khi tham gia hoạt động kinh doanh thuốc, như quy định đã nêu tại Nghị định 68/2009 về sửa đổi khoản 7 Điều 4 NĐ 37/2006.
3.  Hình thức khuyến mại
- Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền (Điều 7 Nghị định 37/2006). Đây là cách mà các thương nhân thường sử dụng để khuyến mãi đối với thương nhân khác tham gia kinh doanh, giao dịch dược phẩm;
- Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (Điều 8). Đây là hình thức tặng hàng hóa miễn phí, thường kèm theo việc mua sản phẩm;
- Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, cung ứng dịch vụ trước đó (Điều 9);
- Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên (điều 13). Thương nhân cung ứng thuốc sẽ dành cho những khách hàng quen một số lợi ích nhất định, có thể là phát thẻ giảm giá.
- Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố (Điều 11); Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự chương trình khuyến mại mang tính may rủi (Điều 12); Khuyến mại hàng hóa, dịch vụ thông qua internet và các phương tiện điện tử khác; Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ (Điều 10) là những hình thức ít gặp trong thực tế do các hình thức này thường nhắm vào đối tượng là người trực tiếp sử dụng thuốc, trong khi đó, pháp luật không cho phép khuyến mãi thuốc.
4. Nội dung khuyến mại
Trình tự, thủ tục đăng ký khuyến mại phải tuân thủ theo Mục 3 Nghị định 37/2006. Nội dung khuyến mãi phải tuân thủ quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa khuyến mãi, giá trị không được vượt quá 50% trừ trường hợp là các hình thức đưa hàng mẫu, tặng hàng miễn phí, bán kèm phiếu dự thi để trao thưởng, tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên. Tổng giá trị của thuốc dùng để khuyến mại mà thương nhân bán thuốc thực hiện trong một chương trình khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại bằng hình thức đưa hàng mẫu. Nghiêm cấm các khuyến mại mà mức giảm giá đối với hàng hóa là trên 50%, nghiêm cấm khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.
5. Một số bất cập
Thứ nhất, người sử dụng có thể mua thuốc trên mạng với giá rẻ hơn nhiều so với việc mua thuốc ở các cửa hàng, đại lý kinh doanh thuốc, trong khi đó, đối tượng được khuyến mại thuốc không phải là người tiêu dùng mà chỉ là các thương nhân kinh doanh thuốc. Các loại thuốc này đa phần là thuốc giả, các loại thuốc theo nguồn xách tay hiện chưa kiểm soát được về chất lượng. Từ đó, thấy được Do đó ta thấy được công tác quản lý quảng cáo, khuyến mại thuốc chữa bệnh cho người trên mạng Internet còn rất hạn chế.
Thứ hai, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng những điểm còn bất hợp lý của pháp luật để khuyến mại thuốc diễn ra phổ biến, sau đó cùng nhau đẩy mạnh giá thuốc lên cao. Đây là vấn đề rất khó quản lý hiện nay, khi mà mỗi cơ sở kinh doanh thuốc, cùng một loại thuốc mà giá thành lại khác nhau.
IV. Hoàn thiện việc áp dụng quy định về quảng cáo, khuyến mại thuốc chữa bệnh cho người
1. Hoàn thiện việc áp dụng quy định về quảng cáo thuốc
Pháp luật cần xác định rõ khái niệm quảng cáo thương mại để phân biệt nó rõ hơn với hoạt động trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ. Cần có sự ràng buộc trách nhiệm đối với các nhà cung cấp phương tiện quảng cáo như báo, đài, mạng thông tin. Việc quy trách nhiệm liên đới giữa nhà sản xuất, kinh doanh thuốc với các nhà cung cấp phương tiện quảng cáo là cần thiết, vì tình trạng vi phạm phổ biến là quảng cáo không có giấy phép hoặc quảng cáo không đúng nội dung đã xin phép. Quy định này giúp cho thắt chặt sự quản lý của Bộ Y tế, Cục Quản lý Dược với các hành vi vi phạm có sự giúp sức của cả các thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo.
Có chế tài xử lý các bác sĩ, dược sĩ vi phạm pháp luật quảng cáo thuốc nhằm giúp họ thực thi pháp luật quảng cáo thuốc được hiệu quả hơn, giúp giữ trọn niềm tin của người dân vào đội ngũ cán bộ y tế. Tăng nặng chế tài xử phạt với các cá nhân, đơn vị vi phạm pháp luật quảng cáo thuốc. Thiếu chế tài xử phạt hợp lý chính là một trong những nguyên nhân khiến cho việc thực hiện pháp luật về quảng cáo thuốc chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Mức xử phạt cần điều chỉnh theo hướng nghiêm khắc, tăng nặng, quy định cụ thể, rõ ràng, thuận tiện cho việc áp dụng hơn.
Nâng cao ý thức và hiểu biết pháp luật về quảng cáo thuốc thông qua các hoạt động giáo dục, tuyên truyền tại các cơ quan, trường học hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng, áp phích, tờ rơi. Cần khen thưởng, tuyên dương kịp thời những đơn vị thực hiện đúng pháp luật quảng cáo thuốc.
2. Hoàn thiện việc áp dụng quy định về khuyến mại thuốc
Cần bổ sung quy định trách nhiệm cá nhân của thương nhân hay người đại diện hợp pháp của thương nhân và trách nhiệm cá nhân của người được giao tổ chức chương trình khuyến mại để đảm bảo tính trung thực về giải thưởng và chọn người trúng giải thưởng. Bao gồm: trách nhiệm trung thực trong tổ chức, trong thực hiện các cam kết với khách hàng và trách nhiệm tôn trọng tối đa lợi ích của người tiêu dùng.
Quy định rõ ràng các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại, quy định rõ về trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của thương nhân thực hiện hoạt động khuyến mại.
3. Đề xuất đối với nhà nước
Nhà nước cần siết chặt hơn công tác quản lý đối với nội dung quảng cáo, khuyến mại thuốc được phát trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Cần có một chế tài nặng hơn nữa với những hành vi vi phạm pháp luật về quảng cáo, khuyến mại thuốc. Ngoài ra,cần tuyên truyền sâu rộng về sự nguy hiểm khi dùng thuốc không có chỉ dẫn, mua thuốc ở những địa chỉ không đáng tin cậy; Quản lý giá thuốc hợp lý để người dân có thể tiêu dùng trong khả năng của mình mà không phải mua lậu.
Cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật quảng cáo thuốc. Để tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật quảng cáo thuốc, cần thành lập các cơ quan chuyên trách về quảng cáo thuốc, trên cơ sở tham khảo mô hình quản lý quảng cáo thuốc ở các nước có ngành quảng cáo thuốc phát triển và phù hợp với các điều kiện, đặc điểm của Việt Nam, cần có sự hỗ trợ chặt chẽ của các đơn vị, cá nhân có chuyên môn nghiệp vụ về dược. Hoạt động kiểm tra, giám sát phải được tiến hành bởi những cá nhân có kiến thức chuyên môn không chỉ về quảng cáo thương mại nói chung mà còn nắm rõ các quy định hiện hành về quảng cáo thuốc.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quảng cáo, khuyến mại để không lúng túng khi áp dụng luật, tránh trường hợp áp dụng sai ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể kinh doanh; tạo môi trường minh bạch, giúp các nhà đầu tư, kinh doanh thuốc tự tin hơn khi tham gia kinh doanh thuốc chữa bệnh.
KẾT LUẬN
Vấn đề về quảng cáo, khuyến mại thuốc chữa bệnh cho người càng ngày càng ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của con người. Vì vậy,pháp luật về quảng cáo và khuyến mại thuốc cần được siết chặt và quản lí chặt chẽ hơn nữa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.  Luật Thương mại 2005.
2.  Luật Quảng cáo 2012.
3.  Luật Dược 2005.
4.  Thông tư số 13/2009/TT – BYT ngày 01 tháng 9 năm 2009 của Bộ Y tế Hướng dẫn hoạt động thông tin, quảng cáo thuốc.
5.  Nghị định số 37/2006/NĐ – CP ngày 4/4/2006 của Chính phủ: Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
6.  Nghị định số 68/2009/NĐ – CP ngày 6/8/2009 của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 4 nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
7.  Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Tập II, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2014.

8.  TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên), Hướng dẫn môn học Luật Thương mại, Tập 2, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2014.

Related Post

Previous
Next Post »