Trong
đời sống hiện đại, chúng ta không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của
hợp đồng, nhất là hợp đồng dân sự. Hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự
vận động linh hoạt và an toàn của các giá trị vật chất trong xã hội. Khi xây dựng
pháp luật về hợp đồng, các nhà làm luật đều quan tâm tới các quy định về điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng, về giải quyết hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu.
Các quy định này có tác dụng đảm bảo sự ổn định của xã hội, đảm bảo lợi ích
chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
quan hệ hợp đồng. Do vậy, bài tập học kì em xin lựa chọn đề bài: Giải quyết hậu quả pháp lí của hợp đồng dân
sự vô hiệu.
Hợp đồng dân sự vô hiêụ sẽ không làm
phát sinh hậu quả pháp lí mà các bên mong muốn. Đây là nguyên tắc chung mà pháp
luật các nước đều ghi nhận. Ở Việt Nam, để xác định hợp đồng dân sự vô hiệu phải
căn cứ vào Điều 410, 127 và Điều 122 Bộ luật dân sự. Theo đó, hợp đồng dân sự bị
vô hiệu khi không thỏa mãn một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 Bộ
luật dân sự như sau:
“
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a)
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b)
Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không
trái đạo đức xã hội;
c)
Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2.
Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định.”
Vô hiệu theo nghĩa thông thường đươc hiểu
là không có hiệu lực, không có hiệu quả. Như vậy, hợp đồng dân sự vô hiệu là hợp
đồng không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lí.
Điều cấm của pháp luật là những quy định
của pháp luật không cho chủ thế thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng
xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận
và tôn trọng.
Hợp đồng vi phạm những quy định này
thì đương nhiên vô hiệu, không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia. Trong
trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi thì phải chịu phần thiệt hại
tương ứng với mức độ lỗi của mình, nếu chỉ có một bên có lỗi thì bên đó phải bồi
thường thiệt hại.
Giả tạo là các bên tham gia hợp đồng
hoàn toàn tự nguyện, nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực
của họ.
Khi đó hợp đồng giả tạo vô hiệu, còn hợp
đồng bị che dấu vẫn có hiệu lực nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự.
Trong trường hợp hợp đồng giả tạo nhằm
trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì hợp đồng giả tạo đó đương nhiên bị vô
hiệu.
Điều 130 Bộ luật dân sự quy định: “ Khi giao dịch dân sự do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, tòa
án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này
phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện”.
Người không có năng lực hành vi dân sự
hoặc có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ không thể có đủ điều kiện để tự do
thể hiện ý chí. Vì vậy, hợp đồng của họ phải được xác lập dưới sự kiểm soát của
người khác hoặc do người khác xác lập. Tuy nhiên, hợp đồng do những người này
xác lập không mặc nhiên coi là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những
người đại diện cho họ.
Nhầm lẫn là việc các bên hiểu sai về nội
dung của hợp đồng mà các bên tham gia gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia.
Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì hợp đồng có thể bị
tuyên là vô hiệu.
Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên
kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch dân sự thì
bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch dân sự
đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, lỗi ở đây chỉ có thể là lỗi vô ý.
Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố ý của một bên thì khi đó là trường hợp giao dịch dân
sự vô hiệu do lừa dối.
Lừa dối trong hợp đồng là hành vi cố ý
của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể,
tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng dân sự nên đã xác lập hợp đồng
đó.
Đe dọa trong hợp đồng là hành vi cố ý
của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch
nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín, tài sản
của mình hoặc của người thân mình.
Trường hợp này chỉ áp dụng đối với những
người có năng lực hành vi dân sự. Nếu người đó đã xác lập giao dịch vào đúng thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu tòa
án tuyên bố hợp đồng dân sự đó vô hiệu. Việc phân định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia hợp đồng.
Điều
134 BLDS quy định: " Trong trường hợp
pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của 1 hoặc 2 bên, Tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về
hình thức giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì
giao dịch vô hiệu."
Theo
nguyên tắc chung, các chủ thể được phép tự do lực chọn hình thức hợp đồng. Chỉ
những hợp đồng pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có
chứng thực, chứng nhận,... mà các bên không tuân thủ mới bị vô hiệu. Khi các
bên có yêu cầu thì tòa án xem xét và "
buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong thời gian nhất
định". Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy định về
hình thức của hợp đồng trong thời hạn do tòa án quyết định thì hợp đồng mới bị
vô hiệu. Bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
Điều
411 BLDS quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện
được, cụ thể: Trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng
không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng bị vô hiệu. Trong trường
hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối
tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên
kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường
hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được. Quy định này cũng được áp dụng đối với hợp đồng có một hoặc nhiều đối tượng
không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp
lý.
Theo Bộ
luật dân sự quy định, khi giao dịch dân sự vô hiệu có những hậu quả pháp lí như
sau (Điều 137, 410):
Giao dịch
dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các
bên kể từ thời điểm xác lập.
Các bên
khôi phục lại cho nhau tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận;
nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền;
Bên có
lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Hợp đồng dân sự vô hiệu không làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác
lập. Sự vô hiệu hóa hợp đồng chính cũng làm vô hiệu hóa hợp đồng phụ, trừ trường
hợp hai bên thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính.
Tuy nhiên, nếu chỉ hợp đồng phụ vô hiệu
, hợp đồng chính vẫn có hiệu lực pháp luật mà không bị chấm dứt thực hiện, trừ
trường hợp hai bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp
đồng chính.
Thứ nhất, về
hậu quả các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những
gì đã nhận, trước tiên hoàn trả bằng hiện vật, nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì tính bằng tiền để trả.
Thực
tế ở nước ta cho thấy ,việc hoàn trả những gì đã nhận chưa đảm bảo được
lợi ích của các bên chủ thể. Điển hình đối với giao dịch có đối tượng là nhà
,quyền sử dụng đất. Ví dụ: P chuyển nhượng cho Q một căn nhà, khi hợp đồng vô
hiệu Q phải trả nhà cho P, P phải trả tiền cho Q. Thực tế cho rằng nguyên đơn hầu
hết là bên chuyển nhượng, việc lấy lại đất là thỏa đáng. Nhưng với bên được
chuyển nhượng, việc trả lại nhà lại là một tổn thất rất lớn với họ. Cho dù nhận
lại được số tiền bỏ trước đây, họ không
bao giờ mua được căn nhà như vậy nữa vì qua những năm qua giá trị các căn nhà
tăng nhanh. Hơn nữa, tỉ lệ lạm phát ngày càng cao. Trong trường hợp bên chuyển
nhượng có lỗi trong việc xác lập giao dịch này, bên chuyển nhượng được bồi thường
thiệt hại. Tuy nhiên khoản bồi thương không bao giờ bù đắp được khoản mất mát
thực tế do giao dịch vô hiệu vô hiệu.
Việc xử lý hậu quả của việc giao dịch dân sự vô hiệu
càng trở nên phức tạp hơn trong trường hợp bên nhận tài sản đã cải tạo, sửa chữa
hay nói một cách khác là làm tăng giá trị tài sản đó. Nếu bên chuyển giao tài sản
phản đối hoặc cơ quan thẩm quyền không cho phép nhưng bên nhận tài sản vẫn làm
tăng giá trị tài sản, bên nhận tài sản phải chịu phần tăng giá này khi hoàn trả
tài sản. Tuy nhiên, nếu bên nhận tài sản không có lỗi thì bên nhận tài sản phải
làm thế nào nếu bên giao tài sản không chịu nhận tì sản mới hoắc có nhận nhưng
không thanh toán phần giá trị tăng lên không có quy định về vấn đề này.
Ví dụ sau khi A chuyển nhượng đất, B
phải bỏ ra 3 tỷ đồng để xây biệt thự trên đó. Sau 20 hợp đồng chuyển nhượng giữa
A và B bị tòa án có thẩm quyền vô hiệu hóa. Chắc chắn rằng việc trả lại cho A
là tổn thất rất lớn về tài sản cho B, gây xáo trộn cuộc sống của B. Nhưng điều
đáng bàn hơn cả là giải quyết thế nào, khi A không muốn nhận biệt thự mà chỉ muốn
nhận lại đất, trong thực tế một số tòa án địa phương đã yêu cầu mỗi bên chịu 1
nửa giá trị tài sản phát sinh trên đất.
Quy định
tính thành tiền để hoàn trả trong trường hợp không thể hoàn trả hiện vật thực sự
cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là tính giá hiện vật thành tiền tại thời
điểm nào: thời điểm xác lập giao dịch
hay thời điểm hoàn trả tài sản. Đối với
những tài sản không thay đổi về giá từ thời điểm xác lập giao dịch đến thời điểm
hoàn trả tài sản, vấn đề tính giá tài sản vào thời điểm nào không quan trọng.
Tuy nhiên, với những tài sản có sự biến đổi về giá (có thể tăng hoặc giảm giá),
việc xác định giá tài sản để tính thành tiền là mấu chốt vì nó ảnh hưởng đến lợi
ích của các bên. Thông thường, nếu giá tài sản tăng thì thiệt hại thuộc về bên
mua, còn nếu giá tài sản giảm thì thiệt hại thuộc về bên bán.
Thứ hai, bên có lỗi phải bồi thường
thiệt hại.
Khi hợp
đồng dân sự bị tuyên bố vô hiệu, bên có lỗi trong việc hợp đồng vô hiệu phải chịu
thiệt hại và bồi thường cho bên chủ thể kia. Mức độ bồi thường
thiệt hại căn cứ vào mức độ lỗi. Bên bồi thường
chỉ phải bồi thường thiệt hại do phần lỗi của mình gây ra.
Trước
khi người thứ ba tham gia vào hợp đồng đối tượng của hợp đồng này được xác lập
bởi một hợp đồng vô hiệu.
Phụ thuộc vào ý chí của người tham gia hợp đồng. Nếu
trong điều kiện thông thường họ có thể biết được tài sản đưa vào hợp đồng được
xác lập bởi một hợp đồng vô hiệu trước đó và pháp luật quy định họ buộc phải biết
khi tham gia hợp đồng thì họ không phải người ngay tình. Nếu họ không biết và
pháp luật quy định họ không buộc phải biết và khi tham gia hợp đồng họ chiếm giữ
tài sản một cách công khai, minh bạch thì họ mới là người thứ ba ngay tình.
Phải là người có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự hoặc
có người giám hộ, đại diện hợp pháp.
Họ đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và được hưởng những quyền dân sự trong hợp
đồng họ xác lập ( đã nhận được tài sản và mục đích của hợp đồng đã được thực hiện).
Mục đích và nội dung của hợ đồng không trái với quy định của pháp luật và đạo
đức xã hội.
Tính đặc biệt của hợp đồng vô hiệu
trong trường hợp này là tài sản giao dịch đã không còn chiếm giữ bởi một trong
các bên giao kết hợp đồng mà là người thứ ba ngay tình.
Tài sản giao dịch là động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác có đền bù thì
hợp đồng vẫn có hiệu lực. Quy định này cũng có ngoại lệ nhất định. Đó là trường
hợp hợp đồng vô hiệu có đền bù là động sản không đăng ký quyền sở hữu bị chiếm
hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu như: do bị lừa dối, nhầm lẫn hay đe dọa. Trong
trường hợp này, chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản khi chứng minh được đó là
tài sản của mình.
Tài sản giao dịch là động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình bằng một
giao dịch không có đền bù, động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản
đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình.
Trong trường hợp này hợp đồng với người
thứ ba sẽ bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản
này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người bán mà theo bản án, quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ tài sản nhưng sau đó người này lại
không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án bị hủy, sửa.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật thì
"khôi phục lại tình trạng ban đầu” thường được đồng nhất với
"hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”, song đây lại là hai khái niệm hoàn
toàn khác nhau. Tòa án buộc các bên trong hợp đồng vô hiệu phải khôi phục lại
tình trạng ban đầu khi tài sản được hoàn trả không đúng với hiện trạng tại thời
điểm xác lập hợp đồng: tài sản đã bị hư hỏng, giảm giá trị; tài sản đã được tu
sửa, xây dựng, cải tạo làm tăng giá trị.
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường
hợp bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây dựng nhà ở hoặc công trình
kiên cố nên khi hợp đồng bị vô hiệu, Tòa án buộc bên nhận chuyển nhượng phải
tháo dỡ công trình trên đất để trả lại hiện trạng đất ban đầu cho bên chuyển
nhượng. Mặc dù việc khôi phục lại hiện trạng ban đầu trong trường hợp này là có
thể thực hiện được, song sẽ gây lãng phí rất lớn, đặc biệt khi tài sản tăng
thêm có giá trị cao.
Quy định "các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu” cũng là việc không thể trong trường hợp đối tượng của hợp đồng
là công việc (dịch vụ) đã được thực hiện, nên "các bên hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận” không hề đơn giản. Trong trường hợp này, nếu áp dụng "nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền” thì qui định về
việc không công nhận quyền và nghĩa vụ của các bên lại không có ý nghĩa.
Trong trường hợp đối tượng hợp đồng
là tài sản nhưng tài sản không còn giữ được tình trạng như ban đầu hay đối tượng
hợp đồng là công việc (dịch vụ) đã được thực hiện mà có căn cứ xác minh là hợp
đồng vô hiệu thì không thể áp dụng được việc "khôi phục lại tình trạng ban
đầu”. Đặc biệt là đối với những hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm
pháp luật và trái đạo đức xã hội mà đối tượng hợp đồng là các công việc có liên
quan đến giá trị nhân thân của các bên chủ thể. Thực tế xét xử cho thấy, đối với
những hợp đồng như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng xây dựng, hợp đồng tư vấn...
việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận rất khó thực hiện.
Thực tiễn xét xử tại Tòa án cũng cho
thấy, việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực sự đảm bảo được lợi ích
của các chủ thể. Điển hình như đối với những giao dịch có đối tượng là nhà ở
hay quyền sử dụng đất. Trong các vụ án yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu,
nguyên đơn hầu hết là bên chuyển nhượng. Đối với bên chuyển nhượng, việc lấy lại
đất là thoả đáng. Nhưng với bên được chuyển nhượng, việc phải trả lại đất cho
bên bán là một tổn thất rất lớn đối với họ. Cho dù được nhận lại đủ số tiền đã
bỏ ra trước đây, họ không bao giờ còn có thể mua được thửa đất như vậy nữa, vì
vị trí lô đất đã khác, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị đồng tiền cũng đã
khác. Tuy trong trường hợp bên chuyển nhượng có lỗi khi xác lập hợp đồng này,
bên nhận chuyển nhượng được bồi thường thiệt hại, nhưng khoản bồi thường cũng
không bao giờ bù đắp được mất mát thực tế của họ do hợp đồng chuyển nhượng bị
tuyên vô hiệu. Đây cũng là một nguyên nhân làm phát sinh nhiều khiếu kiện.
Việc giải quyết hậu quả pháp lí của hợp
đồng vô hiệu cũng rất phức tạp trong trường hợp bên mua tài sản đã cải tạo, sửa
chữa tài sản đó hay nói cách khác là đã làm tăng giá trị của tài sản. Sau khi
có BLDS 1995, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) có Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP
ngày 16/04/2003 của Hội đồng thẩm phán "Về
hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự,
hôn nhân và gia đình” đã quy định phương hướng giải quyết hậu quả pháp lý của
hợp đồng mua bán nhà vô hiệu: "Nếu
trong thời gian quản lý, bên mua đã cải tạo, sửa chữa nhà làm tăng giá trị gắn
liền với giá trị quyền sử dụng đất thì khi nhận lại nhà, bên bán phải thanh
toán cho bên mua phần giá trị tăng thêm đó, trừ trường hợp bên bán có phản đối
hoặc cơ quan có thẩm quyền không cho phép mà bên mua vẫn cố tình cải tạo, sửa
chữa nhà”;..."Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá nhà, giá trị
quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định
giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá nhà và giá trị quyền sử
dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi có
nhà, đất đang tranh chấp đối với từng loại nhà, đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm”.
Hướng dẫn chi tiết này của Nghị quyết lại chỉ áp dụng đối với hợp đồng mua bán
nhà vô hiệu mà các hợp đồng mua bán tài sản khác không được dẫn chiếu đến.
Theo Điều 137 BLDS năm 2005 thì bên có
lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Hợp đồng vô
hiệu có thể chỉ do lỗi một bên mà cũng có thể do lỗi của hai bên và vấn đề bồi
thường thiệt hại được đặt ra cả trong trường hợp mức độ lỗi của hai bên là
tương đương nhau. Do đó, Tòa án phải xác định mức độ lỗi của từng bên trong việc
làm cho hợp đồng vô hiệu để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại: nếu mỗi
bên đều có lỗi tương đương nhau thì mỗi bên phải chịu ½ giá trị thiệt hại; nếu
mức độ lỗi của họ không tương đương nhau thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên.
Có thể thấy, bồi thường thiệt hại được
quy định trên cơ sở xác định lỗi do chủ thể nào gây ra và xác định được thiệt hại
xảy ra trên thực tế khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Vấn đề phức tạp ở đây là
xác định lỗi trong thực tế là việc rất khó. Đối với trường hợp hợp đồng vô hiệu
do vi phạm quy định về hình thức, còn các điều kiện khác đều hợp pháp, Tòa án
tuyên các bên phải hoàn thiện hình thức hợp đồng, nếu bên nào không thực hiện
được xem là có lỗi và phải đền bù thiệt hại. Đây là đường lối giải quyết rất rõ
ràng trong thực tiễn xét xử. Tuy nhiên đối với các trường hợp khác như hợp đồng
vô hiệu do nhầm lẫn, hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thực hiện được hay hợp
đồng vô hiệu do người giao kết hợp đồng không có quyền định đoạt tài sản mà bên
đối tác cũng biết về điều đó thì xác định mức độ lỗi của các bên còn nhiều quan
điểm tranh cãi.
Như vậy, hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ dẫn
tới nhiều hậu quả pháp lý bất lợi, do đó ngay khi xác lập hợp đồng các bên cần
tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng nhằm hạn chế tới mức thấp
nhất những thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đồng thời,
khi tuyên bố một hợp đồng vô hiệu, Tòa án phải xác định đầy đủ các hậu quả pháp
lý, đặc biệt là yếu tố lỗi của các bên làm cho hợp đồng vô hiệu, từ đó xác định
thiệt hại mà mỗi bên phải gánh chịu thì mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên.
Vẫn theo Điều 137 Khoản 2 BLDS, "khi giao dịch dân sự vô hiệu thì
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được
bị tịch thu theo quy định của pháp luật”. Có thể thấy, quy định tịch thu tài
sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được khi hợp đồng vô hiệu được đưa ra nhằm xử
lý những tài sản là đối tượng của hợp đồng, nhưng thuộc diện tài sản Nhà nước tịch
thu, sung công quỹ. Tuy nhiên BLDS lại chưa quy định rõ, thời điểm tài sản
giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu
được bị tịch thu là trước hay sau khi giao
dịch bị tuyên bố vô hiệu.
Có thể nhận thấy, đối với dạng hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu vì bản thân hợp đồng không đem lại lợi ích cho ít
nhất một bên chủ thể như mong muốn của họ. xử lý hậu quả pháp lý của
hợp đồng vô hiệu là
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận... sẽ đem lại sự công bằng cho bên có lợi íchnhưng không đạt được. Nhưng đối với dạng hợp đồng hợp đồng
bị tuyên bố vô hiệu bởi một lý do, nhưng lý do này không làm ảnh hưởng đến lợi ích mà các bên mong muốn, thì khi giao kết và thực hiện hợp đồng, các bên đều đã đạt được mong muốn của mình, do đó, việc áp dụng một cách cứng nhắc quy định "khôi
phục tình trạng ban đầu”,"hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”... rõ ràng là không cần thiết. Hợp đồng này không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên,
lợi ích của người thứ ba hay của cộng đồng.
Do vậy, đối với hợp đồng vô hiệu do vi
phạm về hình thức hay
điều kiện đăng ký kinh doanh, nhưng các bên đều tự nguyện và đã
thực hiện hợp đồng, thì chúng ta
nên thừa nhận.
Những vi phạm về hình thức hay điều kiện đăng ký kinh doanh của
hợp đồng có thể được
Tòa án yêu cầu các bên tiến hành hoàn thiện để tiếp tục thực
hiện hợp đồng. Ngoài ra, chúng ta nên mạnh dạn chấp nhận những hợp đồng
tuy không tuân thủ đúng các quy định về hình thức bắt buộc, nhưng các bên đã thực
hiện hợp đồng thì hợp đồng không bị vô hiệu và cần được công nhận. Tương tự như
vậy là đối với các hợp đồng không thỏa mãn quy định về điều kiện đăng ký kinh
doanh.
Sự chấp nhận này sẽ hạn chế được tình trạng tuyên bố hợp đồng vô
hiệu tràn lan do một bên chủ thể lợi dụng quy địnhcủa
pháp luật để "bội ước” hợp đồng hay sự lúng túng của Tòa án trong việc xét
xử hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức hoặc không thỏa mãn điều kiện đăng ký kinh
doanh. Đồng thời, các quy định về hậu quả pháp lý đối với các hợp đồng trên cũng phải được sửa
đổi, bổ sung.
Trong tiến trình sửa đổi, bổ sung BLDS
năm 2005, các quy định về xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu cần phải được hoàn thiện
để những quy định này mang tính khả thi hơn, phù hợp với thực tế và quan trong
hơn là tạo điều kiện để hợp đồng phát huy hết vai trò của mình trong nền kinh tế
thị trường.
Qua đây, có thể thấy vấn đề giải quyết
hậu quả pháp lí hợp đồng vô hiệu được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 có
ý nghĩa rất quan trọng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhằm đảm bảo lợi ích hợp
pháp của các chủ thể, lợi ích chung của xã hội, của Nhà nước. Tuy nhiên, trong
thực tế, các quy định về vấn đề này đã bộc lộ những bất cập, đó là: có quy định
còn chung chung, chưa bao quát được các trường hợp hợp đồng vô hiệu, các quy định
có phần cứng nhắc, có chỗ còn thiếu không theo kịp cuộc sống, cần phải sửa đổi,
bổ sung.
DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo
trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. Công an
nhân dân, Hà Nội – 2006
2.
Bộ
luật dân sự năm 2005, NXB Chính trị quốc gia
3.
Bài
viết: Hoàn thiện các quy định về xử lý hậu quả của hợp đồng
dân sự vô hiệu của giảng viên Nguyễn Thị Thanh, Khoa Luật – Trường đại học Vinh
4.
Luận
văn Ths. Luật: Xử lý hợp đồng vô hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam : 60 38
30/ Nguyễn Thị Thanh ; Người hướng dẫn: PGS.TS. Đinh Văn Thanh
5.
Tiểu
luận: Hợp đồng dân sự vô hiệu – Thực trạng và giải pháp, Bùi Lê Duy, năm 2013.
6.
Tiểu
luận: Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả
pháp lí, Hoàng Thị Tình – Lớp Tư pháp dân sự K31, năm 2013