Đánh giá các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân

TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BTTH
Bồi thường thiệt hại
BTTHNHĐ
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
NLHVDS
Năng lực hành vi dấn sự
HĐTPTANTC
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
BLDS
Bộ luật Dân sự
HVTPL
Hành vi trái pháp luật


Bộ luật Dân sự quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân khá cụ thể. Tuy nhiên, những quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân được quy định trong BLDS năm 2005 còn một số điểm chưa hợp lý, cần sửa đổi, bổ sung để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.
Để tìm hiểu rõ hơn, nhận thức một cách đầy đủ hơn về vấn đề này em chọn đề tài: “Đánh giá các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân” cho bài học kỳ của mình.

I. Lý luận chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Điều 604 BLDS 2005 quy định:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, câm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Như vậy, theo quy định tại Điều 604 BLDS thì trách nhiệm BTTHNHĐ phát sinh khi người có HVTPL có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trách nhiệm BTTHNHĐ áp dụng ngay cả trong trường hợp không có lỗi như thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường… Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm BTTH trong trường hợp này được gọi là trách nhiệm nâng cao.
Vậy ta có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm BTTHNHĐ như sau: Trách nhiệm BTTHNHĐ là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.
2.  Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
a.  Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách nhiệm BTTHNHĐ. Bởi lẽ, mục đích của trách nhiệm BTTH là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Khoản 1, Điều 307 BLDS quy định:“Trách nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”.
Như vậy, thiệt hại được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Việc xác định thiệt hại về vật chất tương đối cụ thể, rõ ràng nhưng xác định thiệt hại về tinh thần là vấn đề hết sức khó khăn.
b.  Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
Quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác luôn được pháp luật bảo vệ và tất cả mọi người đều phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp đó. Khi một người có hành vi trái pháp luật xâm phạm tới các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ thì người xâm phạm phải chịu hậu quả pháp lí bất lợi do hành vi của mình gây ra.
HVTPL để phát sinh trách nhiệm BTTH để phát sinh trách nhiệm BTTH được hiểu là những hành vi được pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Cơ sở để xác định HVTPL là căn cứ vào các quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
Hành vi gây thiệt hại có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành động gây thiệt hại có thể là tác động trực tiếp của chủ thể vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể là tác động gián tiếp của chủ thể vào đối tượng thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể bằng việc chủ thể không làm một việc pháp luật quy định bắt buộc phải làm trong khi chủ thể có đầy đủ điều kiện để làm việc đó.
c.   Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
Nguyên nhân được hiểu là sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật hiện tượng, hậu quả là làm biến đổi sự vật, hiện tượng đó hoặc là làm biến đổi sự vật, hiện tượng khác.
Như vậy, đối với trách nhiệm BTTHNHĐ thì hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về mặt nguyên tắc, HVTPL phải có trước và thiệt hại có sau. Xác định mối quan hệ nhân quả trong trách nhiệm BTTHNHĐ có ý nghĩa hết sức quan trọng vì:
- Trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh khi thiệt hại là hậu quả (có sau), hành vi trái pháp luật là nguyên nhân (có trước).
- Khi nhiều người gây thiệt hại cho một người  hoặc khi người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi thì xác định mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa trong việc xác định mức bồi thường.
Xác định mối quan hệ nhân quả trong trách nhiệm BTTH rất phức tạp do đó cần có sự lưu ý đặc biệt, tránh sự đánh giá một cách khiên cưỡng, suy diễn chủ quan, phiến diện. Nếu không có hành vi gây thiệt hại thì không có hậu quả có nghĩa là thiệt hại đã có sẵn cơ sở trong hành vi. Một hành vi vi phạm nhất định trong một điều kiện xác định thì chỉ làm nảy sinh ra hậu quả này chứ không thể phát sinh hậu quả nào khác. Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm và ngược lại, người có hành vi vi phạm gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại xảy ra đúng là hậu quả tất yếu của HVTPL của họ.
d.  Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là trạng thái tâm lý của một người đối với hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó mang lại. Khoản 2 Điều 308 BLDS 2005 quy định:
“Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho tiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.
Khi xác định lỗi trong trách nhiệm BTTHNHĐ cần lưu ý:
- Về nguyên tắc, trách nhiệm BTTH phát sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất kể lỗi đó là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
- Việc xác định lỗi cố ý, vô ý trong trách nhiệm BTTHNHĐ có ý nghĩa trong một số trường hợp: Để giảm nhẹ mức bồi thường (Khoản 2, Điều 605, BLDS 2005); Là điều kiện cần thiết để xác định trách nhiệm bồi thường (Khoản 2, Điều 615, BLDS 2005).
- Trong một số trường hợp nhất định, trách nhiệm BTTH phát sinh ngay cả khi không có lỗi (Khoản 3, Điều 623, 624, BLDS 2005).
3.  Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Nguyên tắc BTTHNHĐ được quy định tại điều 605 BLDS:
-  Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
-  Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
-  Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường.
II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân là khả năng một chủ thể thực hiện việc BTTH do HVTPL của mình hay của người khác gây ra, dẫn đến thiệt hại về tài sản, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân quy định tại Điều 606 BLDS 2005 và hướng dẫn tại mục 3 phần I, Nghị quyết số 03/2006/HĐTP – TANDTC ngày 08/07/2006 của HĐTPTANTC. Theo đó, năng lực này phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng tài sản của cá nhân đó và khả năng BTTH. Trong những yếu tố trên, yếu tố về độ tuổi chiếm vị trí chủ đạo để xác định trách nhiệm BTTH thuộc về chính cá nhân gây ra thiệt hại hay là cha, mẹ; người giám hộ; trường học, bệnh viện hay tổ chức khác của người gây thiệt hại, vì độ tuổi là căn cứ để xác định khả năng nhận thức của cá nhân đối với hành vi của mình.
1.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Khoản 1 Điều 606 BLDS quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”. Xem xét mối liên hệ giữa quy định này với quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì thấy rằng: Người có NLHVDS đầy đủ thì phải tự mình BTTH khi gây thiệt hại, cũng có nghĩa là trong trường hợp này người gây thiệt hại là bị đơn dân sự trước tòa án (Mục 3.1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ–HĐTP). Việc bồi thường khi người gây thiệt hại trên 18 tuổi và có đủ NLHVDS không phụ thuộc vào tình trạng tài sản của người này.
Việc xác định người từ đủ 18 tuổi trở lên, có NLHVDS đầy đủ phải bồi thường cho những thiệt hại mà mình gây ra là hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, người từ đủ 18 tuổi trở lên có đủ điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật do vây, họ hoàn toàn có năng lực để tham gia và trở thành chủ thể của quan hệ BTTH và nếu là người gây thiệt hại thì họ hoàn toàn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Ở độ tuổi này, họ đã có khả năng lao động, có thể tạo ra thu nhập, hình thành khối tài sản riêng của mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ trong số những người từ đủ 18 trở lên là những người mới trưởng thành, họ vẫn còn đi học, chưa có công việc làm, chưa có thu nhập hay tài sản đáng kể, vẫn sống phụ thuộc vào cha, mẹ. Vậy, trong trường hợp những người từ đủ 18 tuổi, có NLHVDS đầy đủ nhưng không có tài sản riêng gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thuộc về ai? Nếu họ vẫn là những người phải chịu trách nhiệm BTTH thì họ phải thực hiện trách nhiệm đó như thế nào? Nếu họ không thực hiện được thì phải chăng họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi và những người bị thiệt hại cũng không được bồi thường? Đây là một tình huống xảy ra khá phổ biến trong những vụ về xác định trách nhiệm BTTHNHĐ. Nếu Tòa án áp dụng một cách tuyệt đối và cứng nhắc những quy định của pháp luật thì sẽ phải hoãn việc thi hành án cho đến khi người gây thiệt hại là người mới trưởng thành có việc làm, có thu nhập. Tuy nhiên, việc làm này lại trái với nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời, không đảm bảo khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc khắc phục thiệt hại một cách nhanh nhất, đảm bảo cuộc sống ổn định cho người bị thiệt hại trước khi bị xâm phạm. Vậy nên chăng trong trường hợp này Toà án có thể chủ động giải thích, khuyến khích cha mẹ người thành niên đó tự nguyện BTTH do người mới trưởng thành gây ra. Toà án có thể công nhận sự tự nguyện đó, những về mặt pháp lý, không thể quyết định cha mẹ họ phải bồi thường.
Người thành niên còn bao gồm cả những người bị hạn chế NLHVDS theo quy định tại Điều 23 BLDS. Vấn đề đặt ra là trách nhiệm BTTH của cá nhân bị hạn chế NLHVDS gây ra thiệt hại được giải quyết như thế nào? Điều 606 BLDS 2005 không có quy định nào liên quan đến nhóm chủ thể này. Khoản 1 Điều 23 BLDS 2005 quy định: “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế NLHVDS”. Mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của những người này phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Quyết định trên nhằm hạn chế NLHVDS khi họ tham gia vào quan hệ giao dịch dân sự mà có liên quan đến tài sản nhưng không phải là căn cứ loại trừ TNDS khi họ có hành vi gây thiệt hại cho người khác. Vì người đó là người trưởng thành, bởi vậy về nguyên tắc vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân dưới 15 tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân sự gây ra
a. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cha mẹ
Khoản 2 Điều 606 BLDS quy định: “Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 Luật này”. Như vậy, đối với những thiệt hại do HVTPL của người dưới 15 tuổi, người mất NLHVDS gây ra thì sẽ do cha mẹ của người có trách nhiệm BTTH bằng tài sản của cha mẹ. Trong trường hợp này người gây ra thiệt hại trực tiếp và chủ thể có trách nhiệm bồi thường là khác nhau. Những người ở độ tuổi này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vì vậy, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người ở độ tuổi này tại Tòa án phải do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Đối với những người dưới 15 tuổi, theo quy định tại Điều 19, Điều 20 của BLDS 2005 về NLHVDS của cá nhân thì điều kiện để một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cá nhân đó phải thỏa mãn hai yếu tố là độ tuổi trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên) và yếu tố nhận thức về trí lực. Điều 20 BLDS 2005 quy định người dưới 15 tuổi chia thành hai nhóm:
- Cá nhân chưa đủ 6 tuổi không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, được coi là những người không có NLHVDS. Họ không thể tự mình xác lập giao dịch dân sự vì họ chưa đủ lý trí để nhận biết những hành vi của mình và hậu quả của những hành vi đó. Mọi giao dịch của họ đều phải được người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện hoặc đồng ý. Như vậy cá nhân không có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác thì cha mẹ là những người đại diện đương nhiên của họ với tư cách là bị đơn dân sự trước Tòa án.
- Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi là những người có NLHVDS một phần. Những người thuộc lứa tuổi này khả năng nhận thức của họ đang dần hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, họ chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nhưng trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Đó là những giao dịch nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Ngoài ra, những giao dịch khác khi họ xác lập, thực hiện phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
BLDS 2005 khi quy định về BTTHNHĐ rất coi trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc BTTH do hành vi trái pháp luật của con từ dưới 15 tuổi gây ra. Chính vì vậy, cha mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách bị đơn dân sự, cha mẹ là những người đại diện hợp pháp đương nhiên cho con, cha mẹ có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của con; còn chính cá nhân gây thiệt hại lại hoàn toàn không có năng lực hành vi tố tụng dân sự trước tòa án. Tuy nhiên, luật cũng quy định thêm trường hợp nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
Tương tự như người dưới 15 tuổi, những người bị mất NLHVDS theo quy định của pháp luật mặc dù có thể là những người thành niên (lớn hơn hoặc bằng 18 tuổi) hoặc những người chưa thành niên nhưng không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan Tòa án có thể tuyên bố một người là mất NLHVDS theo những trình tự và thủ tục luật định (Điều 22 BLDS). Mọi giao dịch dân sự của người này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý. Vì vậy những người mất NLHVDS và người dưới 15 tuổi đều có một điểm chung đó là khi có HVTPL gây thiệt hại thì họ đều không phải chịu trách nhiệm BTTH. Những chủ thể này đều không thể hiểu được ý nghĩa, hậu quả của hành vi dân sự mà họ đã thực hiện mặc dù hành vi đó là trái pháp luật và gây thiệt hại cho người khác. Cho nên khi họ gây thiệt hại thì cha mẹ họ đều là người có trách nhiệm BTTH cho người bị thiệt hại.
b. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người giám hộ
Điều 58 BLDS quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”. Giám hộ ngoài việc thực hiện những nghĩa vụ theo luật định đối với người được giám hộ thì còn có trách nhiệm trong việc BTTH do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ gây ra. Người được giám hộ theo khoản 2 Điều 58 bao gồm:
 “a. Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế quyền  của cha ,mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu;
b. Người mất năng lực hành vi dân sự”.
Như vậy chế định về người giám hộ là để nhằm mục đích bảo vệ pháp lý cho người chưa thành niên và người bị mất NLHVDS mà không còn cha mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha mẹ bị mất NLHVDS, bị hạn chế NLHVDS…Vì người giám hộ thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ nên họ cũng phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý trong khi thực hiện trách nhiệm giám hộ của mình, bao gồm trách nhiệm BTTH do hành vi của người được giám hộ gây ra. Người giám hộ cũng có tư cách là bị đơn dân sự trước Tòa án. Tương tự với người chưa thành niên, đối với những người mất NLHVDS gây thiệt hại mà vẫn còn cha, mẹ thì cha, mẹ cũng phải chịu trách nhiệm BTTH.
Người bị Tòa án tuyên bố mất NLHVDS là người đã hoặc chưa thành niên mà không thỏa mãn yếu tố nhận thức, tức là không có khả năng nhận thức hoặc làm chủ hành vi của mình như những người mắc bệnh tâm thần. Do vậy họ không thể hiểu ý nghĩa, hậu quả cho những hành vi của mình, và không phải chịu trách nhiệm do những hành vi của mình gây ra. Vì vậy cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên của người mất NLHVDS phải BTTH khi con gây thiệt hại.
Vì pháp luật quy định người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa tới 18 tuổi có quyền có giám hộ đương nhiên hoặc giám hộ cử, nên nhưng người này cũng có thể có người giám hộ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLDS. Nhưng khác với người mất NLHVDS và người dưới 15 tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLDS là bắt buộc phải có người giám hộ, những người đã đủ 15 tuổi không bắt buộc phải có người giám hộ do họ có khả năng nhận thức cao hơn và đã có khả năng lao động.
Địa vị pháp lý của người giám hộ hoàn toàn khác so với địa vị pháp lý của người là cha, mẹ của người chưa thành niên khác. Người giám hộ thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, do đó họ cũng phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý trong khi thực hiện việc giám hộ của mình, trong đó có trách nhiệm BTTH do HVTPL của người được giám hộ gây ra.
Theo khoản 3 Điều 606 BLDS “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”, nếu họ có người giám hộ thì khi người được giám hộ gây thiệt hại, người giám hộ có quyền dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường. Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để BTTH thì người giám hộ có trách nhiệm BTTH bằng tài sản của mình. Nếu như người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Mặc dù pháp luật không quy định, nhưng nếu người được giám hộ gây thiệt hại mà không có tài sản riêng để bồi thường và người giám hộ lại chứng minh được họ không có lỗi thì thiệt hại được coi là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu. Đây là trường hợp căn cứ xác định người giám hộ là người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ không xác định được; hoặc cha, mẹ là người mất NLHVDS mà cũng có người giám hộ, và người giám hộ lại chứng minh được họ không có lỗi thì thiệt hại được coi là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu. Yêu cầu bồi thường không thể thực hiện được.
Người mất NLHVDS đang do cha mẹ chăm sóc, quản lý, giáo dục mà gây thiệt hại thì cha, mẹ phải bồi thường bằng tài sản của mình. Trong trường hợp họ được giám hộ theo quy định tại Điều 62 BLDS 2005 thì trách nhiệm BTTH được xác định như sau:
- Người mất NLHVDS đã có vợ hoặc chồng thì người vợ hoặc chồng có đủ điều kiện là người giám hộ có quyền lấy tài sản riêng của người mất NLHVDS để bồi thường. Nếu tài sản riêng của người được giám hộ không đủ thì lấy tài sản chung của vợ chồng để bồi thường, sau đó mới lấy tài sản riêng của người vợ hoặc chồng để bồi thường phần còn thiếu nếu có lỗi trong việc quản lý người được giám hộ.
- Người được giám hộ là cha mẹ đều mất NLHVDS hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự còn người kia không đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả đã thành niên có đủ điều kiện phải làm người giám hộ. Nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ. Trong trường hợp này, người giám hộ được lấy tài sản của cha, mẹ để bồi thường cho người bị thiệt hại, nếu không đủ thì người giám hộ phải lấy tài sản riêng của mình để bồi thường phần còn thiếu nếu có lỗi trong việc quản lý người được giám hộ.
- Người đã thành niên bị mất NLHVDS có vợ/chồng, con nhưng vợ/chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ. Trong trường hợp như vậy, cha mẹ có quyền lấy tài sản riêng của người được giám hộ để bồi thường, chỉ khi tài sản riêng của người được giám hộ và tài sản chung của vợ chồng không đủ thì cha, mẹ mới phải bồi thường bằng tài sản riêng của mình nếu có lỗi trong việc quản lý người giám hộ.
c. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý
Khi người dưới 15 tuổi đang trong thời gian chịu sự quản lý của trường học, người mất NLHVDS đang chịu sự quản lý của bệnh viện, cơ sở chữa bệnh khác thì trường học, bệnh viện cũng như các tổ chức này phải có trách nhiệm quản lý, theo dõi những người mà mình quản lý. Xuất phát từ sự nhận thức còn hạn chế (người dưới 15 tuổi) hoặc không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (người mất NLHVDS), do đó Điều 621, BLDS quy định:
“1. Người dưới 15 tuổi trong thời gian học ở trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lí thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra”.
BLDS 2005 quy định chủ thể BTTH là trường học, bệnh viện, tổ chức quản lý người gây thiệt hại. Quy định của BLHS 2005 nhằm buộc trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội phải tăng cường công tác quản lý người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị mất NLHVDS.
Tuy nhiên, không phải bao giờ trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội khác đang quản lý người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người mất NLHVDS có lỗi trong việc quản lí khi những người này gây thiệt hại. Do đó, pháp luật quy định: trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội khác khi thực hiện nhiệm vụ quản lý người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người mất NLHVDS để họ gây thiệt hại và “nếu trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lí thì cha, mẹ, người giám hộ của người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường”. Quy định này cho thấy mặc nhiên nếu người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị mất NLHVDS gây thiệt hại mà những người này đang chịu sự quản lý của trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội thì các tổ chức này phải bồi thường và việc chứng minh không có lỗi để làm cơ sở cho việc giải thoát trách nhiệm bồi thường thuộc về chính tổ chức đó. Nếu các tổ chức này chứng minh được mình không có lỗi thì trách nhiệm BTTH thuộc về cha mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên, người mất NLHVDS gây thiệt hại đó. Tuy nhiên, việc chứng minh không có lỗi để giải thoát khỏi trách nhiệm BTTH thuộc về chủ thể nào là một vấn đề rất phức tạp và khó khăn trong việc xét xử của các cấp Tòa án:
- Đối với trường hợp người dưới 15 tuổi có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại ngoài giờ học tại trường hoặc đang trong thời gian từ trường về nhà, từ nhà đến trường  thì chưa thuộc nghĩa vụ quản lý của nhà trường. Trong khoảng thời gian trước hoặc sau buổi học ở trường mà họ gây thiệt hại thì sẽ là căn cứ nhà trường chứng minh không có lỗi trong việc quản lý và trách nhiệm btth không thuộc về nhà trường mà thuộc về phía cha mẹ của người gây ra thiệt hại.
- Đối với người mất NLHVDS đang được bệnh viện, tổ chức khác có nghĩa vụ quản lý mà theo yêu cầu của những người thân thích, bệnh viện hay tổ chức có trách nhiệm trực tiếp quản lý đã đồng ý cho người mất NLHVDS về thăm gia đình, nếu người mất NLHVDS gây thiệt hại cho người khác thì bệnh viện, tổ chức quản lý được loại trừ trách nhiệm bồi thường hoặc trong những trường hợp không còn căn cứ tuyên bố một người mất NLHVDS theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan (bố, mẹ, vợ chồng, các con của người đó), Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người mất NLHVDS mà ngay tại thời điểm đó, người này đã trực tiếp gây thiệt hại cho người khác thì họ có trách nhiệm phải bồi thường bằng tài sản của mình.
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân từ đủ 15 tuổi tới dưới 18 tuổi gây ra
Khoản 2 Điều 606 BLDS: “Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”
Sở dĩ Điều 606 quy định như vậy cũng là phù hợp với tinh thần Điều 20 BLDS 2005. Luật quy định cá nhân từ đủ 15 tuổi tới dưới 18 tuổi, có NLHVDS không đầy đủ nhưng khả năng nhận thức của họ đã phát triển cho nên ngoài các giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, họ còn có thể tự mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nếu có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi tài sản riêng đó.
Tuy nhiên nếu người đó có những tài sản có giá trị lớn nhà ở, quyền sử dụng đất thì sự định đoạt các tài sản này vẫn còn có những người đại diện theo pháp luật của họ đồng ý. Tại Điều 606 BLDS 2005 quy định độ tuổi là đủ 15 tuổi trở lên nếu có hành vi gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm BTTH cho người đó là căn cứ vào điều kiện thực tế xã hội. Bởi vì những người trong độ tuổi này nhận thức của họ tương đối trưởng thành và đã có khả năng lao động tạo ra thu nhập. Theo quy định của Bộ luật Lao động được sửa đổi bổ sung năm 2006 và 2007 thì họ đã có quyền tham gia vào các quan hệ lao động và có tư cách tố tụng đối với những tranh chấp liên quan đến quan hệ lao động đó. Độ tuổi này cũng phù hợp và thống nhất với một số quy định của các ngành luật khác, chẳng hạn như khoản 1 Điều 45: “Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý” hay khoản 2 Điều 46: “Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng; nếu định đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ”. Như vậy con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có tài sản và thu nhập riêng, phần nào ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia, đóng góp vào đời sống gia đình, được quyền định đoạt tài sản của riêng mình”. Khoản 2 Điều 109 BLDS cũng quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 18 tuổi trở lên đồng ý”. Rõ ràng người ở độ tuổi này đã nhận thức được hành vi của mình và phần nào cũng tự định đoạt ý chí khi tham gia vào các quan hệ dân sự phổ biến trong cuộc sống.
Xét về tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, thì cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có một phần NLHVDS nên họ có khả năng chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật. Pháp luật đã căn cứ vào những cơ sở này để quy định trách nhiệm BTTH của cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi gây thiệt hại phải bồi thường bằng tài sản của mình. Theo đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại là chủ thể có trách nhiệm bồi thường nên họ có tư cách là bị đơn dân sự còn cha mẹ chỉ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (Mục I, phần 3.1 Nghị quyết 03/2006 của HĐTPTAN DTC). Tuy nhiên, luật cũng quy định thêm trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của cha mẹ thay cho con gây thiệt hại trong trường hợp con không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường. Nghĩa vụ này của cha mẹ được hiểu là nghĩa vụ bổ sung. Cụ thể nghĩa vụ dân sự bổ sung như thế nào được thể hiện rõ trong quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS:
“Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ quy định tại điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”
Vì luật quy định người chưa thành niên có quyền được giám hộ đương nhiên hay giám hộ cử nên người từ đủ 15 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi cũng có thể có người giám hộ nếu thuộc những trường hợp theo quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 58 BLDS. Nó khác với người mất NLHVDS và người từ dưới 15 tuổi theo quy định taị khoản 3 Điều 58 là không bắt buộc do họ đã có khả năng lao động tạo ra thu nhập và thái độ nhận thức của họ đã tương đối hoàn thiện hơn. Nếu trong trường hợp họ có người giám hộ theo quy định tại khoản 3 Điếu 606 BLDS, khi người được giám hộ gây thiệt hại thì người giám hộ thì người giám hộ được quyền lấy tài sản của người được giám hộ để BTTH. Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ có trách nhiệm BTTH. Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ có trách nhiệm BTTH nếu có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình mà để người giám hộ gây thiệt hại cho người khác.

KẾT LUẬN
Các quy định về BTTH đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và các chủ thể khác. Tuy nhiên các quy định liên quan đến năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân vẫn còn điểm bất cập, cần được sửa đổi kịp thời để bảo vệ được lợi ích chung của toàn xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Bộ luật Dân sự 2005.
2.  Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
3.  Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
4.  Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 2009.
5.  TS. Phùng Trung Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb. Hà nội, 2009.
6.  Luận văn thạc sỹ luật học, Nguyễn Minh Thư, Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, 2010.

Related Post

Previous
Next Post »