Chúng ta đã biết, hành vi gây thiệt hại có thể được thực hiện bởi bất
cứ chủ thể nào. Tuy nhiên, không phải chủ thể nào gây thiệt hại cũng có khả
năng để thực hiện việc bồi thường. Bộ luật dân sự 2005 quy định trách nhiệm bồi
thường trong nhiều trường hợp, tình huống cụ thể. Có trường hợp trách nhiệm bồi
thường thiệt hại phát sinh do tài sản gây ra, có trường hợp trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra, có trường hợp người của pháp
nhân, người của cơ quan nhà nước gây thiệt hại,…Bộ luật dân sự quy định về năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân một cách khá cụ thể. Vậy,
cụ thể vấn đề này được pháp luật dân sự hiện hành của nước ta quy định như thế
nào? Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật để có nhận thức
một cách đầy đủ hơn về vấn đề này nên em đã chọn đề tài: “Năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” cho bài học kỳ của mình.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
CỦA CÁ NHÂN.
1. Một số khái niệm có liên
quan
1.1 Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Bộ luật dân sự thì: “năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân
sự”.
1.2 Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Điều 17 Bộ luật dân sự quy định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự”.
2. Khái quát chung về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
2.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập rất sớm trong hệ thống
pháp luật của nước ta. Tuy nhiên, chỉ đến khi Bộ luật dân sự 1995 ra đời thì
các quy định về bồi thường trách nhiệm thiệt hại mới được quy định một cách chi
tiết. Tiếp đó, Bộ luật dân sự 2005 hoàn thiện hơn nữa các quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều 604 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“1. Người nào có lỗi cố ý hoặc
lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền lợi hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật
quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi
thì áp dụng quy định đó.”
Như vậy, theo quy định tại Điều 604, Bộ luật dân sự 2005 thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái
pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra,
trong những trường hợp đặc biệt nếu pháp luật quy định người gây thiệt hại phải
bồi thường thiệt hại kể cả khi không có lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cũng phát sinh kể cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại. Dưới góc độ
khoa học pháp lí, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này được
gọi là trách nhiệm nâng cao.
Có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều
kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi
ích được pháp luật bảo vệ.
2.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự thì việc bồi thường thiệt
hại phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. các bên
có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện
vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều
lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thứ hai, Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do
lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài
của mình.
Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị
thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
2.3 Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
2.3.1 Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại nói chung, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng bởi mục đích của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã
xảy ra cho người bị thiệt hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát
sinh trách nhiệm bồi thường.
Khoản 1, Điều 307 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần”.
Như vậy, thiệt hại được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần. Việc xác định thiệt hại về vật chất tương đối cụ thể,
rõ ràng nhưng xác định thiệt hại về tinh thần là vấn đề hết sức khó khăn.
2.3.2 Có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại.
Quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể
khác luôn được pháp luật bảo vệ và tất cả mọi người đều phải tôn trọng các
quyền và lợi ích hợp pháp đó. Khi một người có hành vi trái pháp luật xâm phạm
tới các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ thì người xâm phạm phải chịu hậu
quả pháp lí bất lợi do hành vi của mình gây ra.
Hành vi trái pháp luật để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là những hành vi được
pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Cơ sở để xác định hành vi trái pháp
luật là căn cứ vào các quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
Hành vi gây thiệt hại có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc
không hành động. Hành động gây thiệt hại có thể là tác động trực tiếp của chủ
thể vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể là tác động gián tiếp của chủ thể
vào đối tượng thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây
thiệt hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình
trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể bằng việc
chủ thể không làm một việc pháp luật quy định bắt buộc phải làm trong khi chủ
thể có đầy đủ điều kiện để làm việc đó.
2.3.3 Có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Nguyên nhân được hiểu là sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự
vật hiện tượng, hậu quả là làm biến đổi sự vật, hiện tượng đó hoặc là làm biến
đổi sự vật, hiện tượng khác.
Như vậy, đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì
hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu
quả. Về mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có
sau. Xác định mối quan hệ nhân quả trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có ý nghĩa hết sức quan trọng vì:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi thiệt hại là hậu
quả (có sau), hành vi trái pháp luật là nguyên nhân (có trước)
- Khi nhiều người gây thiệt hại cho một người hoặc khi người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại đều có lỗi thì xác định mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa trong việc
xác định mức bồi thường.
Xác định mối quan hệ nhân quả trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
rất phức tạp do đó cần có sự lưu ý đặc biệt, tránh sự đánh giá một cách khiên
cưỡng, suy diễn chủ quan, phiến diện. Nếu không có hành vi gây thiệt hại thì
không có hậu quả có nghĩa là thiệt hại đã có sẵn cơ sở trong hành vi. Một hành
vi vi phạm nhất định trong một điều kiện xác định thì chỉ làm nảy sinh ra hậu
quả này chứ không thể phát sinh hậu quả nào khác. Thiệt hại xảy ra phải đúng là
kết quả tất yếu của hành vi vi phạm và ngược lại, người có hành vi vi phạm gây
thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại xảy ra đúng là hậu quả
tất yếu của hành vi trái pháp luật của họ.
2.3.4 Có lỗi của người gây thiệt
hại.
Lỗi là trạng thái tâm lý của một người đối với hành vi của mình và hậu
quả do hành vi đó mang lại. Khoản 2, Điều 308, BLDS 2005 quy định:
“Cố ý gây thiệt hại là trường
hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà
vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho tiệt hại
xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại trường hợp
một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù
phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại , nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn chặn được”.
Khi xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
cần lưu ý:
- Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người
gây thiệt hại có lỗi, bất kể lỗi đó là lỗi cố ý hay lỗi vô ý;
- Việc xác định lỗi cố ý, vô ý trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có ý nghĩa trong một số trường hợp: Để giảm nhẹ mức bồi thường
(Khoản 2, Điều 605, BLDS 2005); Là điều kiện cần thiết để xác định trách nhiệm
bồi thường (Khoản 2, Điều 615, BLDS 2005);
- Trong một số trường hợp nhất định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
phát sinh ngay cả khi không có lỗi (Khoản 3, Điều 623, 624, BLDS 2005).
II. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN.
Theo quy định tại Điều 606 thì năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại được phân chia làm ba trường hợp.
1.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp
luật của cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Theo các quy định từ Điều 17 đến Điều 21 bộ luật dân sự 2005, mức độ
năng lực hành vi dân sự của cá nhân gồm hai loại là người thành niên, người
chưa thành niên và năng lực hành vi của họ được quy định rất cụ thể: “người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành
niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Pháp luật quy định
người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị bệnh tâm thần, không
bị mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, họ
là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, cũng đồng thời là người có đầy đủ
năng lực tố tụng dân sự trước tòa án, do vậy cá nhân này phải chịu trách nhiệm
về mọi hành vi của mình trước pháp luật. Theo khoản 1 Điều 606 bộ luật dân sự
2005: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường” thì cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên khi gây
thiệt hại cho người khác phải tự chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của
mình cho thiệt hại mà họ gây ra, không phụ thuộc vào tình trạng tài sản của bản
thân người này.
Theo quy định tại Mục I phần 3.1 nghị quyết 03/2006 của Tòa án nhân
dân tối cao, người đã thành niên có hành vi gây thiệt hại cho người khác phải
chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại bằng tài sản của mình và có tư
cách là bị đơn dân sự trước tòa án trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự.
Người thành niên còn được hiểu bao gồm cả những người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 23 Bộ luật dân sự 2005. Vấn đề đặt ra
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự gây ra thiệt hại được giải quyết như thế nào? Điều 606 Bộ luật dân sự 2005 không
có quy định nào liên quan đến nhóm chủ thể này. Khoản 1 Điều 23 Bộ luật dân sự
2005 quy định: “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến
phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên
quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”. Mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
của những người này phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Quyết
định trên nhằm hạn chế năng lực hành vi dân sự khi họ tham gia vào quan hệ giao
dịch dân sự mà có liên quan đến tài sản nhưng không phải là căn cứ loại trừ
trách nhiệm dân sự khi họ có hành vi gây thiệt hại cho người khác. Vì người đó
là người trưởng thành, bởi vậy về nguyên tắc vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi
hành vi của mình.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân từ dưới 15 tuổi và
người bị mất năng lực hành vi dân sự gây ra
2.1 Cha mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 bộ luật dân sự 2005 thì đối với
những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người từ dưới 15 tuổi, người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra thì sẽ do cha mẹ của người có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bằng tài sản của cha mẹ. Trong trường hợp này người gây ra
thiệt hại trực tiếp và chủ thể có trách nhiệm bồi thường là khác nhau. Những
người ở độ tuổi này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vì vậy, việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người ở độ tuổi này tại Tòa án phải do người
đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Đối với những người dưới 15 tuổi, theo quy định tại Điều 19, Điều 20
của Bộ luật dân sự 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân thì điều kiện để
một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cá nhân đó phải thỏa mãn hai
yếu tố là độ tuổi trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên) và yếu tố nhận thức về trí
lực. Điều 20 Bộ luật dân sự 2005 quy định người dưới 15 tuổi chia thành hai
nhóm:
- Cá nhân chưa đủ 6 tuổi không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình, được coi là những người không có năng lực hành vi dân sự. Họ không thể tự
mình xác lập giao dịch dân sự vì họ chưa đủ lý trí để nhận biết những hành vi
của mình và hậu quả của những hành vi đó. Mọi giao dịch của họ đều phải được
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện hoặc đồng ý. Như vậy cá nhân
không có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác thì cha mẹ là
những người đại diện đương nhiên của họ với tư cách là bị đơn dân sự trước Tòa
án.
- Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi là những người có năng lực
hành vi dân sự một phần. Những người thuộc lứa tuổi này khả năng nhận thức của
họ đang dần hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, họ chỉ có thể xác lập, thực
hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nhưng trong một giới hạn nhất định do pháp luật
dân sự quy định. Đó là những giao dịch nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày phù hợp với lứa tuổi. Ngoài ra, những giao dịch khác khi họ xác lập, thực
hiện phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Bộ luật dân sự 2005 khi quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng rất coi trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc bồi thường
thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con từ dưới 15 tuổi gây ra. Chính vì
thế, cha mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách bị đơn
dân sự, cha mẹ là những người đại diện hợp pháp đương nhiên cho con, cha mẹ có
nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của con; còn
chính cá nhân gây thiệt hại lại hoàn toàn không có năng lực hành vi tố tụng dân
sự trước tòa án. Tuy nhiên luật cũng quy định thêm trường hợp nếu tài sản của
cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên có tài sản riêng thì lấy
tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
Tương tự như người dưới 15 tuổi, những người bị mất năng lực hành vi
dân sự theo quy định của pháp luật mặc dù có thể là những người thành niên (lớn
hơn hoặc bằng 18 tuổi) hoặc những người chưa thành niên nhưng không thể nhận
thức và làm chủ hành vi của mình. Trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có
thẩm quyền và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan Tòa án có thể
tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự theo những trình tự và thủ
tục luật định (Điều 22 bộ luật dân sự). Mọi giao dịch dân sự của người này phải
do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý. Vì vậy những người mất
năng lực hành vi dân sự và người dưới 15 tuổi đều có một điểm chung đó là khi
có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì họ đều không phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại. Những chủ thể này đều không thể hiểu được ý nghĩa, hậu
quả của hành vi dân sự mà họ đã thực hiện mặc dù hành vi đó là trái pháp luật
và gây thiệt hại cho người khác. Cho nên khi họ gây thiệt hại thì cha mẹ họ đều
là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.
2.2 Người giám hộ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Khoản 3 Điều 606 bộ luật dân sự 2005 quy định: “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại
mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám
hộ để bồi thường; nếu người giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để
bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người
giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy
tài sản của mình để bồi thường”.
Khoản 1 Điều 58 bộ luật dân sự 2005: “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người được giám
hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ
quyền, lợi ichs hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”. Việc quy định chế định
giám hộ là hình thức bảo vệ pháp luật cho người chưa thành niên, người bị mất
năng lực hành vi dân sự. Người được giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 58
bao gồm: “a, Người chưa thành niên không
còn cha mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha mẹ đều mất năng lực hành vi
dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ
hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu
cha mẹ có yêu cầu; b, Người mất năng lực hành vi dân sự”.
Địa vị pháp lý của người giám hộ hoàn toàn khác so với địa vị pháp lý
của người là cha, mẹ của người chưa thành niên khác. Người giám hộ thực hiện
các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người được giám hộ, do đó họ cũng phải gánh chịu trách nhiệm pháp
lý trong khi thực hiện việc giám hộ của mình, trong đó có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ gây ra.
2.2.1 Trách nhiệm bồi thường
thiệt do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ là người dưới 15 tuổi
gây ra.
Trong trường hợp con dưới 15 tuổi gây thiệt hại cho người khác thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc viên trước tiên là cha mẹ. Trong trường
hợp cha mẹ đều không có hoặc cha mẹ còn sống nhưng không đủ điều kiện làm giám
hộ cho con thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định trước tiên là
trách nhiệm của anh cả, chị cả đã thành niên, có đủ điều kiện làm người giám
hộ; nếu anh cả, chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người tiếp
theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ, trong trường hợp
không có anh chị em ruột hoặc có anh chị em ruột nhưng đều không đủ điều kiện
làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại có đủ điều kiện phải
là người giám hộ (Điều 62 bộ luật dân sự 2005). Vậy theo khoản 3 Điều 606 bộ
luật dân sự 2005 thì anh cả hoặc chị cả hoặc ông, bà nội; ông, bà ngoại là
người giám hộ thì họ được quyền dùng tài sản riêng của người được giám hộ để
bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp người được giám hộ gây thiệt hại mà
không có tài sản riêng hoặc không đủ tài sản riêng để bồi thường thì người giám
hộ phải bồi thường bằng tài sản riêng của mình nếu người giám hộ có lỗi trong
việc giám hộ dẫn đến hành vi gây thiệt hại của người được giám hộ. Khi đó, nếu người giám hộ chứng minh được
mình không có lỗi trong việc giám hộ thì họ cũng không phải lấy tài sản của
mình để bồi thường khi người được giám hộ gây thiệt hại.
2.2.2 Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ là người mất năng
lực hành vi dân sự.
Người mất năng lực hành vi dân sự đang do cha mẹ chăm sóc, quản lý,
giáo dục mà gây thiệt hại thì cha, mẹ phải bồi thường bằng tài sản của mình.
Trong trường hợp họ được giám hộ theo quy định tại Điều 62 Bộ luật dân sự 2005
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định như sau:
- Người mất năng lực hành vi dân sự dã có vợ hoặc chồng thì người vợ
hoặc chồng có đủ điều kiện là người giám hộ có quyền lấy tài sản riêng của
người mất năng lực hành vi dân sự để bồi thường. Nếu tài sản riêng của người
được giám hộ không đủ thì lấy tài sản chung của vợ chồng để bồi thường, sau đó
mới lấy tài sản riêng của người vợ hoặc chồng để bồi thường phần còn thiếu nếu
có lỗi trong việc quản lý người được giám hộ.
- Người được giám hộ là cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc
một người mất năng lực hành vi dân sự còn người kia không đủ điều kiện làm
người giám hộ thì người con cả đã thành niên có đủ điều kiện phải làm người
giám hộ. Nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con
tiếp theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ. trong trường hợp
này, người giám hộ được lấy tài sản của cha, mẹ để bồi thường cho người bị
thiệt hại. Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ thì người giám hộ phải lấy tài sản
riêng của mình để bồi thường phần còn thiếu nếu có lỗi trong việc quản lý người
được giám hộ.
- Người đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự có vợ/chồng, con
nhưng vợ/chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ. Trong trường
hợp như vậy, cha mẹ có quyền lấy tài sản riêng của người được giám hộ để bồi
thường, chỉ khi tài sản riêng của người được giám hộ và tài sản chung của vợ
chồng không đủ thì cha, mẹ mới phải bồi thường bằng tài sản riêng của mình nếu
có lỗi trong việc quản lý người giám hộ.
2.3 Trường học, bệnh viện, các tổ chức khác có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Khi người dưới 15 tuổi đang trong thời gian chịu sự quản lý của trường
học, người mất năng lực hành vi dân sự đang chịu sự quản lý của bệnh viện, cơ
sở chữa bệnh khác thì trường học, bệnh viện cũng như các tổ chức này phải có
trách nhiệm quản lý, theo dõi những người mà mình quản lý. Xuất phát từ sự nhận
thức còn hạn chế (người dưới 15 tuổi) hoặc không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình (người mất năng lực hành vi dân sự), do đó Điều 621, BLDS quy định:
“1. Người dưới 15 tuổi trong
thời gian học ở trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt
hại xảy ra.
2. Người mất năng lực hành vi
dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác
trực tiếp quản lí thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy
ra”.
Quy định trên đây của bộ luật dân sự sửa đổi năm 2005 có sự khác biệt
cơ bản so với quy định tại Điều 625, Bộ luật dân sự năm 1995: Chủ thể mới phải
là người bồi thường thiệt hại trong trường hợp người chưa thành niên dưới 15
tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh
viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý thì Bộ luật dân sự 1995 xác định
trường học, bệnh viện, các tổ chức khác nếu có lỗi trong việc quản lý thì phải
liên đới cùng cha mẹ, người giám hộ bồi thường thiệt hại; còn bộ luật dân sự
2005 sửa đổi năm 2005 thì quy định chủ thể bồi thường thiệt hại là trường học,
bệnh viện, tổ chức quản lý người gây thiệt hại. Quy định của bộ luật dân sự sửa
đổi năm 2005 nhằm buộc trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội phải tăng cường
công tác quản lý người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành
vi dân sự.
Tuy nhiên, không phải bao giờ trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội
khác đang quản lý người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành
vi dân sự có lỗi trong việc quản lí khi những người này gây thiệt hại. Do đó,
pháp luật quy định: trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội khác khi thực hiện
nhiệm vụ quản lý người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi
dân sự để họ gây thiệt hại và “nếu trường
học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lí
thì cha, mẹ, người giám hộ của người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người mất
năng lực hành vi dân sự phải bồi thường”. Quy định này cho thấy mặc nhiên
nếu người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại mà những người này đang chịu sự quản lý của trường học, bệnh
viện, tổ chức xã hội thì các tổ chức này phải bồi thường và việc chứng minh
không có lỗi để làm cơ sở cho việc giải thoát trách nhiệm bồi thường thuộc về
chính tổ chức đó. Nếu các tổ chức này chứng minh được mình không có lỗi thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha mẹ, người giám hộ của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại đó. Tuy nhiên, việc
chứng minh không có lỗi để giải thoát khỏi trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thuộc về chủ thể nào là một vấn đề rất phức tạp và khó khăn trong việc xét xử
của các cấp Tòa án:
- Đối với những trường hợp người dưới 15 tuổi có hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại ngoài giờ học tại trường hoặc đang trong thời gian từ trường
về nhà, từ nhà tới trường thì chưa thuộc
nghĩa vụ quản lý của nhà trường. Trong khoảng thời gian trước hoặc sau buổi học
ở trường mà họ gây thiệt hại thì sẽ là căn cứ nhà trường chứng minh không có
lỗi trong việc quản lý và trách nhiệm bồi thường thiệt hại không thuộc về nhà
trường mà thuộc về phía cha mẹ của người gây ra thiệt hại.
- Đối với người mất năng lực hành vi dân sự đang được bệnh viện, tổ
chức khác có nghĩa vụ quản lý mà theo yêu cầu của những người thân thích, bệnh
viện hay tổ chức có trách nhiệm trực tiếp quản lý đã đồng ý cho người mất năng
lực hành vi dân sự về thăm gia đình. Trong khoảng thời gian đó, người mất năng
lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác thì bệnh viện, tổ chức quản lý
được loại trừ trách nhiệm bồi thường hoặc trong những trường hợp không còn căn
cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của chính người
đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan (bố, mẹ, vợ chồng, các con của
người đó), Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người mất năng lực
hành vi dân sự mà ngay tại thời điểm đó, người này đã trực tiếp gây thiệt hại
cho người khác thì họ có trách nhiệm phải bồi thường bằng tài sản của mình.
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân từ đủ 15 tuổi tới
dưới 18 tuổi gây ra.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 Bộ luật Dân sự 2005, cá nhân từ đủ
15 tuổi tới dưới 18 tuổi gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm tự bồi thường
thiệt hại bằng tài sản riêng của mình, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì
cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của họ. Sở dĩ Điều 606 quy
định như vậy cũng là phù hợp với tinh thần Điều 20 Bộ luật Dân sự 2005. Luật
quy định cá nhân từ đủ 15 tuổi tới dưới 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự
không đầy đủ nhưng khả năng nhận thức của họ đã phát triển cho nên ngoài các
giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, họ còn có thể tự
mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nếu có tài sản riêng đủ để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi tài sản riêng đó.
Tuy nhiên nếu người đó có những tài sản có giá trị lớn nhà ở, quyền sử
dụng đất thì sự định đoạt các tài sản này vẫn còn có những người đại diện theo
pháp luật của họ đồng ý. Tại Điều 606 Bộ luật dân sự 2005 quy định độ tuổi là
đủ 15 tuổi trở lên nếu có hành vi gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho người đó là căn cứ vào điều kiện thực tế xã hội. Bởi vì
những người trong độ tuổi này nhận thức của họ tương đối trưởng thành và đã có
khả năng lao động tạo ra thu nhập. Theo quy định của Bộ luật lao động Việt Nam
được sửa đổi bổ sung năm 2006 và 2007 thì họ đã có quyền tham gia vào các quan
hệ lao động và có tư cách tố tụng đối với những tranh chấp liên quan đến quan
hệ lao động đó. Độ tuổi này cũng phù hợp và thống nhất với một số quy định của
các ngành luật khác, chẳng hạn như khoản 1 Điều 45: “Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ
cha mẹ quản lý” hay khoản 2 Điều 46: “Con
từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng; nếu định đoạt
tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý
của cha mẹ”. Như vậy con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có tài sản và thu nhập
riêng, phần nào ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia, đóng góp vào đời
sống gia đình, được quyền định đoạt tài sản của riêng mình”. Khoản 2 Điều
109 Bộ luật dân sự 2005 cũng quy định: “Việc
định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia
đình phải được các thành viên từ đủ 18 tuổi trở lên đồng ý”. Rõ ràng người
ở độ tuổi này đã nhận thức được hành vi của mình và phần nào cũng tự định đoạt
ý chí khi tham gia vào các quan hệ dân sự phổ biến trong cuộc sống.
Xét về tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, thì cá nhân từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có một phần năng lực hành vi dân sự nên họ có
khả năng chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật. Pháp luật đã căn
cứ vào những cơ sở này để quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi gây thiệt hại phải bồi thường bằng tài
sản của mình. Theo đoạn 2 khoản 2 Điều 606 Bộ luật dân sự 2005 thì người từ đủ
15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại là chủ thể có trách nhiệm bồi thường nên
họ có tư cách là bị đơn dân sự còn cha mẹ chỉ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (Mục I, phần 3.1 Nghị
quyết 03/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao). Tuy nhiên, luật
cũng quy định thêm trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của cha mẹ thay cho con
gây thiệt hại trong trường hợp con không có tài sản hoặc không đủ tài sản để
bồi thường. Nghĩa vụ này của cha mẹ được hiểu là nghĩa vụ bổ sung. Cụ thể nghĩa
vụ dân sự bổ sung như thế nào được thể hiện rõ trong quy định tại khoản 2 Điều
606 bộ luật dân sự:
“Người chưa thành niên dưới 15
tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại;
nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt
hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ quy
định tại điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ
tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản
của mình”
Vì luật quy định người chưa thành niên có quyền được giám hộ đương
nhiên hay giám hộ cử nên người từ đủ 15 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi cũng có
thể có người giám hộ nếu thuộc những trường hợp theo quy định tại điểm a, khoản
2 Điều 58 Bộ luật dân sự 2005. Nó khác với người mất năng lực hành vi dân sự và
người từ dưới 15 tuổi theo quy định taị khoản 3 Điều 58 là không bắt buộc do họ
đã có khả năng lao động tạo ra thu nhập và thái độ nhận thức của họ đã tương
đối hoàn thiện hơn. Nếu trong trường hợp họ có người giám hộ theo quy định tại
khoản 3 Điếu 606 bộ luật dân sự 2005, khi người được giám hộ gây thiệt hại thì
người giám hộ thì người giám hộ được quyền lấy tài sản của người được giám hộ
để bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản
hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ
tài sản để bồi thường thì người giám hộ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu
có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình mà để người giám hộ gây thiệt hại
cho người khác.
III. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LỰC CHỊU
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Thực trạng áp dụng các quy
định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá
nhân
Từ khi Bộ luật dân sự 2005 ra đời, các quy định về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng về cơ bản đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác, góp phần bảo
đảm trật tự, an toàn và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc giải quyết các vụ kiện đòi bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra gặp rất nhiều khó khăn bởi các quy
phạm liên quan nằm trong nhiều chế định khác nhau của Bộ luật dân sự 2005 và
nội dung của các điều luật còn một số vấn đề chưa hợp lý. Một số vụ việc dân sự
chưa được giải quyết triệt để do những vướng mắc bất cập trong việc thực hiện
các quy định của pháp luật hiện hành.
1.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm
pháp luật của cá nhân từ đủ 15 tuổi tới dưới 18 tuổi gây ra.
Thực tiễn xét xử các vụ án về bồi thường thiệt hại trong thời gian qua
cho thấy việc nhận thức và áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra còn nhiều điểm chưa
đúng, chưa thống nhất giữa các Tòa án. Điều đó thể hiện việc xác định không
đúng tư cách tham gia tố tụng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha, mẹ,
người giám hộ của người chưa thành niên của các trường học, bệnh viện, các tổ
chức khác trong việc quản lí người chưa thành niên. Tình trạng này không chỉ
gây khó khăn trong việc thi hành quy định của Tòa án về bồi thường thiệt hại mà
còn hạn chế rất lớn tác dụng giáo dục ý thức trách nhiệm của cha mẹ người giám
hộ, nhà trường, bệnh viện trong việc giáo dục, quản lí người chưa thành niên,
cũng như khi người chưa thành niên gây thiệt hại cho người khác.
1.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá nhân là người đại diện cho
cơ quan nhà nước gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một trường hợp đặc
biệt đó là khi cá nhân đó lại là cán bộ, công chức hoặc những người có thẩm
quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước.
Việc bồi thường thiệt hại do cá nhân là người đại diện cho cơ quan nhà
nước gây ra cần được thực hiện một cách nghiêm minh theo quy định của pháp
luật, bởi nếu không sẽ làm suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân và tính
nghiêm minh của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, gây mất công bằng xã hội.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
cơ quan nhà nước sẽ hình thành khi mà cán bộ, công chức có hành vi trái pháp
luật, gây ra thiệt hại do lỗi cố ý thì cơ quan của cán bộ, công chức có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Cán bộ, công chức đã gây ra thiệt hại gây ra thiệt
hại có trách nhiệm hoàn trả một phần hoặc toàn bộ khoản tiền mà cơ quan nhà
nước đã bồi thường cho người bị hại nhưng trong nhiều trường hợp việc cá thể
hóa trách nhiệm hoàn trả của cán bộ công chức có lỗi là rất khó khăn.
Để khắc phục những khó khăn trong việc xác định lỗi, trách nhiệm hoàn
trả thì trách nhiệm và nghĩa vụ của cán bộ, công chức phải được cơ quan nhà
nước quy định cụ thể, rõ ràng. Giải quyết được vấn đề “cơ quan nhà nước liên
đới bồi thường hoặc cá thể hóa trách nhiệm của cá nhân” luôn là một bài toán
hóc búa khi chưa có những điều luật quy định cụ thể. Ngoài ra việc bảo vệ quyền
lợi của người bị hại gặp khó khăn cũng do thiếu một nguồn tài chính ổn định để
cơ quan nhà nước thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu chúng ta có
một nguồn tài chính ổn định trích từ ngân sách Nhà nước thì việc bồi thường
thiệt hại trong trường hợp cán bộ công chức gây thiệt hại cho dân được chủ
động, kịp thời, bảo vệ được quyền lợi của người bị thiệt hại, giữ vững được uy
tín của cơ quan nhà nước trong lòng dân.
1.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá nhân là người bị mắc bệnh
tâm thần gây ra.
Dưới đây là một vụ việc cụ thể:
Ngày 21/3/2000, anh Nguyễn Minh C và anh trần Đại H cùng nhau đi chăn
trâu. Do tranh nhau một bãi cỏ tốt, hai anh xích mích và xông vào đánh nhau.
Trong lúc nóng giận, anh Nguyễn Minh C cầm 1 cành cây to đập tới tấp vào đầu
anh Trần Đại H khiến anh H bất tỉnh. Anh H được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện
tỉnh X, sau đó được giới thiệu đi bệnh viện Bạch Mai – Hà Nội.
Anh H đã làm đơn kiện đến tòa án nhân dân huyện X đòi anh Nguyễn Minh
C bồi thường thiệt hại cho mình số tiền là 7.600.000 đồng (tiền viện phí, thuốc men và bồi dưỡng sức
khỏe). Tòa án nhân dân huyện X đã chấp nhận đơn kiện và thụ lí vụ án, ấn định
ngày xét xử là 15/4/2000. Đến ngày xét xử sơ thẩm, Nguyễn Minh C vắng mặt, cho
nên Tòa án phải hoãn phiên xét xử. Ngày 21/4/2000, Nguyễn Minh C đi cùng chị
gái của mình đến Tòa án và xuất trình một bệnh án. Trong bệnh án có ghi:
“Nguyễn Minh C có dấu hiệu của bệnh tâm thần phân liệt”. Từ bệnh án này, Tòa án
ra quyết định trưng cầu giám định về sức khỏe của C. Ngày 20/10/2000, tổ chức
giám định tỉnh X đã có công văn trả lời: “Nguyễn Minh C bị tâm thần phân liệt
sau ngày 21/03/2000. Hiện nay bệnh của C đang tiến triển, không làm chủ được
bản thân, cần chăm sóc lâu dài”.
Sau khi nhận được công văn của tổ chức giám định nêu trên, tại tòa án
huyện X có ba quan điểm giải quyết vụ án:
- Nguyễn Minh C sinh ngày 7/12/1980, tính đến ngày 21/3/2000 đã trên 18
tuổi nên C phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh H.
- Dù Nguyễn Minh C là người có lỗi gây ra tổn hại về sức khỏe cho anh
H nhưng sau ngày gây thương tích cho H thì C bị tâm thần nên C không phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh H mà trách nhiệm bồi thường thuộc về
bố mẹ của C.
- Do C đánh H khi chưa mắc bệnh tâm thần phân liệt mà bệnh chỉ khởi
phát sau ngày 21/03/2000 cho nên người giám hộ phải gánh thay trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho H.
Trên đây là nội dung một sự việc có thực và những ý kiến khác nhau
xung quanh vấn đề “Ai phải bồi thường cho H?”. Nếu chỉ hoàn toàn dựa vào ý chí
chủ quan của thẩm phán trong quá trình xét xử để quyết định có bồi thường hay không bồi thường, bồi thường
ở mức độ nào và ai có trách nhiệm bồi thường sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khách
quan trong giải quyết vụ án. Tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn đã gây ra trên
thực tế tình trạng này.
2. Một số phương hướng hoàn
thiện quy định của pháp luật còn bất cập về năng lực bồi thường thiệt hại của
cá nhân.
2.1 Về khía cạnh lập pháp
Phải rà soát toàn bộ các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của cá nhân trong các lĩnh vực khác nhau để tiến hành sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành mới nhằm bảo đảm tính thống nhất với các quy định mang tính
nguyên tắc trong bộ luật dân sự.
Thứ nhất, vấn đề bồi thường thiệt hại do người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự gây ra cần được quy định rõ ràng hơn. Theo như quy định tại Điều
606 thì không có quy định cụ thể về trường hợp này. Mà trường hợp này được giải
quyết theo nguyên tắc chung như quy định tại Diều 606 đó là, người từ đủ 18
tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
Thứ hai, vấn đề bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi, người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian họ được trường học, bệnh viện
hoặc tổ chức khác quản lý thì trường học, bệnh viện, tổ chức khác phải bồi
thường thiệt hại xảy ra, trừ trường hợp trường học, bệnh viện, các tổ chức khác
chứng minh được mình không có lỗi. Trong quy định này thì cần phải làm rõ hơn
yếu tố lỗi, phải thể hiện rõ đây là lỗi trong quản lý dẫn đến những người thuộc
đối tượng trên gây thiệt hại chứ không phải lỗi trong việc gây ra thiệt hại.
Thứ ba, Trên thực tiễn việc xét xử các vụ án dân sự liên quan đến bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người chưa thành niên vi phạm pháp luật gây
ra, chúng ta thấy còn một số những bất cập do thiếu các quy định pháp luật
hướng dẫn như khi xét xử, tòa án chưa xác định được tư cách bị đơn (thường là
cha mẹ của người chưa thành niên). Quá trình xác minh tài sản của người chưa
thành niên vi phạm làm cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường cũng gặp phải khó
khăn. Do vậy, để tránh những vướng mắc trên, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
nên đưa ra những văn bản hướng dẫn cụ thể để có quan điểm thống nhất khi giải
quyết các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân.
Thứ tư, Điều 60 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 quy định: “Người có đủ điều kiện sau đây có thể làm
người giám hộ: đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có điều
kiện cần thiết bảo đảm việc thực hiện giám hộ”. Đối với điều kiện thứ ba,
các văn bản không có hướng dẫn cụ thể. Vậy điều kiện cần thiết là như thế nào?
có bắt buộc điều kiện về uy tín, sức khỏe, tình cảm không? Bắt buộc với người giám
hộ đương nhiên hay giám hộ cử vì nó liên quan đến khả năng bồi thường về tài
sản của người giám hộ khi người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi
dân sự gây thiệt hại có lỗi. Quy định như vậy là rất chung chung. Nếu họ chỉ
thỏa mãn các điều kiện của người giám hộ mà không có khả năng bồi thường thì
sao? Do đó, cần phải quy định rõ và phân biệt mức bồi thường thiệt hại một cách
cụ thể hơn giữa trường hợp người chịu trách nhiệm bồi thường là người giám hộ
đương nhiên và giám hộ cử, có như vậy mới động viên, khuyến khích được tinh
thần tự nguyện, tự giác tham gia và thực hiện việc giám hộ, đảm bảo được lợi
ích của người được giám hộ và lợi ích chung của xã hội.
2.2 Về cơ chế phối hợp giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Theo quy định của bộ luật dân sự 2005, người bị thiệt hại có quyền đề
nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc tòa án giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại. Do vậy cần có văn bản quy định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền giải quyết
các vụ việc khác nhau cũng như cơ chế phối hợp giải quyết giữa các cấp cùng
liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đặc biệt đối với trường hợp bồi
thường thiệt hại do cán bộ, công chức Nhà nước người có thẩm quyền trong cơ
quan nhà nước gây ra.
2.3 Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của nhân dân
Nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân nói chung của các cán bộ, công chức
nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng trong
lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thông qua việc đa dạng hóa các
hình thức tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật. Qua đó giúp mỗi người ý
thức được hơn trách nhiệm của mình đối với các quyền dân sự của người khác và đối với lợi ích chung của
xã hội.
- Thực tế giám hộ đối với người chưa thành niên và người bị bệnh tâm
thần thời gian qua còn nhiều thiếu sót và tồn tại nhất là việc quản lý, giáo
dục trẻ em dưới 15 tuổi. Tình trạng bỏ nhà đi lang thang ra thành phố, thị xã
kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán báo,.. còn nhiều. Một số trường hợp đã trộm
cắp, bán ma túy, mại dâm, cờ bạc, gây hậu quả nghiêm trọng làm mất an ninh trật
tự xã hội. Công tác quản lý, điều trị
người tâm thần nói chung chưa chặt chẽ còn để họ tự do đi lại, gây rối ở
những nơi công cộng. Vì vậy quyền được giám hộ của họ theo quy định của pháp
luật chưa được thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để. Nhiều trẻ em và người tâm
thần chưa được quản lý, chăm sóc, điều trị theo quy định, sự phối hợp của gia
đình với tổ chức xã hội và các cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ trên còn
nhiều hạn chế. Vì vậy các cấp các ngành nhất là cơ quan cơ sở cần tuyên truyền,
giáo dục cùng với các gia đình thực hiện triệt để Bộ luật dân sự; Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật hôn nhân và gia đình và quyết định của Chính
phủ, Bộ Y tế về việc quản lý, điều trị người bị bệnh tâm thần nhằm hạn chế, đẩy
lùi tình trạng này.
KẾT LUẬN
Bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
nói riêng là một chế định quan trọng của Bộ luật dân sự Việt Nam . Các quy định về bồi thường
thiệt hại về cơ bản đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác, bảo đảm an ninh, trật tự
và an toàn xã hội. Tuy nhiên những quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đặc biệt là những quy định liên quan đến năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường của cá nhân vẫn còn một số điểm bất cập, cần được sửa đổi, bổ sung kịp
thời để bảo vệ được lợi ích chung của toàn xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại
học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2006;
2. Lê Đình
Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam ,
tập hai, Nxb. Giáo dục Việt Nam ,
Hà Nội, 2009;
3. Bộ luật
dân sự năm 2005;
4. Website: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com