Đại
hội đại biểu quốc dân (Đại hội Quốc dân Tân Trào) diễn ra trong hai ngày 16,
17/8/1945 tại đình Tân Trào, thôn Tân Lập, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Đây là Đại hội mang tầm vóc lịch sử của một Quốc hội, một cơ quan quyền lực nhà
nước lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Để
hiểu rõ hơn về Đại hội Quốc dân Tân Trào (tháng 8 năm 1945), nhóm chúng em xin
lần lượt đi vào tìm hiểu lần lượt hoàn cảnh, nội dung, cũng như kết quả và ý
nghĩa của Đại hội. Trong lúc trình bày, không khỏi mắc phải những thiếu sót nhất
định, rất mong thầy cô góp ý, bổ sung để bài làm được hoàn thiện hơn. Nhóm xin
chân thành cảm ơn !
1. Hoàn cảnh diễn ra Đại hội Quốc dân
Tân Trào
1.1.
Tình hình thế giới
Đầu
năm 1945, chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Ở châu Âu, Hồng
quân Liên Xô tiến vào Béc-lin (9/5/1945), chủ nghĩa phát-xít Đức bị tiêu diệt. Ở
châu Á, quân Nhật liên tiếp chịu các đòn tấn công của liên quân Mỹ - Anh, dần
trở nên rệu rã, suy yếu, các thành phố tại Nhật Bản bị uy hiếp, đánh phá. Cục
diện chiến tranh đang chuyển biến có lợi cho các lực lượng chống phát xít, cho
phong trào giải phóng dân tộc.
Ngày
8/8/1945, theo thỏa thuận tại Hội nghị Ianta (từ ngày 4 – 11/2/1945 tại Liên Xô),
Hồng quân Liên Xô tấn công đạo quân Quan Đông tinh nhuệ và hùng mạnh, sau một
tuần lễ, gần 1 triệu quân Nhật ở Mãn Châu (Đông bắc Trung Quốc) bị phá tan.
Ngày 6 và ngày 9/8/1945, Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử hủy diệt Hirosima và
Nagaxaki làm hàng vạn người thiệt mạng. Ngày 14/8/1945, Nhật Bản chấp nhận đầu
hàng Đồng minh không điều kiện, chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc.
1.2.
Tình hình trong nước
Tháng
10/1944, nhận thấy thời cơ giải phóng dân tộc sắp đến, Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào, thông báo chủ trương triệu tập Đại hội
đại biểu quốc dân để thành lập “một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết
và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân… do một cuộc toàn dân đại biểu Đại
hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử
ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc
cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”[1].
Giữa
năm 1945, cao trào kháng Nhật cứu nước đang diễn ra sôi nổi, cơ hội ngàn năm có
một cho nhân dân ta giải phóng dân tộc đang đến gần. Toàn quốc đang mong đợi một
Chính phủ lâm thời cách mạng của nước Việt Nam độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ thị phải gấp rút triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập Chính phủ
lâm thời cách mạng của nước Việt Nam, chậm trễ là bỏ lỡ nhiều cơ hội thuận lợi.
Ngày
13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng
khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đông minh vào
Đông Dương và ngay đêm hôm đó, Uỷ ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ mệnh
lệnh khởi nghĩa. Uỷ ban khởi nghĩa cũng đã ra Quân lệnh số 1. Quân lệnh viết: “Giờ
tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam vùng dậy giành lấy
quyền độc lập của nước nhà!... chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh
thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định
sẽ về ta”[2].
Sau
khi biết tin Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Đông Dương hoàn
toàn bị tê liệt, Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim và tay sai thân Nhật hoang
mang, rệu rã. Thời cơ có một không hai để giải phóng dân tộc đã chín muồi.
Trước
tình hình vô cùng khẩn trương đó, chiều ngày 16/8/1945, Đại hội Đại biểu Quốc
dân được triệu tập và chính thức khai mạc tại đình Tân Trào (huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang).
2. Nội dung của Đại hội Quốc dân Tân
Trào
Đại
hội Quốc dân Tân Trào diễn ra trong hai ngày 16 – 17/8/1945 tại đình Tân Trào,
thôn Tân Lập, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại
biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc – Trung – Nam, đại diện cho các đảng phái chính
trị, các đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo và một số kiều bào ta ở nước
ngoài (Thái Lan và Lào).
Tại
Đại hội, Trường Chinh – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương đã đọc bản báo
cáo, trong đó nhấn mạnh hai vấn đề lớn: Tổng khởi nghĩa và bầu Uỷ ban dân tộc
giải phóng. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi
dậy tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, giành lấy
chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai của Nhật, đứng địa vị cầm
quyền mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất Đông Dương. Đại
hội đã nghe Hoàng Quốc Việt báo cáo về phong trào Công nhân, Trần Đức Thịnh về
Nông dân, Nguyễn Đình Thi về Văn hoá, Hoàng Đạo Thuý về Hướng đạo, v.v… Trên cơ
sở đó, Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông
Dương và Tổng bộ Việt Minh; đồng thời nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt
Minh, bao gồm:
“1.
Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên nền tảng
hoàn toàn độc lập.
2.
Võ trang nhân dân. Phát triển quân Giải phóng Việt Nam.
3.
Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tuỳ từng trường hợp sung công
làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo.
4.
Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ.
5.
Ban bố những quyền của dân cho dân.
-
Nhân quyền.
-
Tài quyền (quyền sở hữu).
-
Dân quyền: Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự
do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền.
6.
Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn
dân.
7.
Ban bố Luật lao động; ngày làm 8 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm.
8.
Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở Quốc gia ngân hàng.
9.
Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo
dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hoá mới.
10.
Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để
giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ”[3].
Đại
hội đã quyết định thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch và các Uỷ viên là: Nguyễn Lương Bằng,
Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn
Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc
Thạch, Nguyễn Hữu Đang. Thường trực của Uỷ ban gồm: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu,
Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền.
Đồng
thời, Đại hội cũng quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa,
Quốc ca là bài “Tiến quân ca”. Ngày 17/8/1945, Đại hội bế mạc trong không khí tổng
khởi nghĩa sôi sục. Lệnh khởi nghĩa đã truyền đi từ hôm 13/8/1945. Các đại biểu
phải khẩn trương trở về địa phương lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền
theo ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời. Thì giờ rất cấp bách. Phải
hành động cho kịp thời cơ: “Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập:
Nhiều sự gay go trở ngại sẽ gây ra. Chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết. Khôn
khéo để tránh những sự không lợi cho ta. Kiên quyết để giành cho được nền hoàn
toàn độc lập... Một dân tộc quyết tâm và nhất trí đòi quyền độc lập thì nhất định
được độc lập. Chúng ta sẽ thắng lợi”[4].
Trong
buổi bế mạc thay mặt Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy
ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân. Trước lá cờ
thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến
lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy
sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước”[5].
Trước
giờ phút đấu tranh quyết liệt và khẩn trương, Hồ Chí Minh, Chủ tịch Uỷ ban dân
tộc giải phóng đã gửi thư kêu gọi quốc dân, trong đó có đoạn viết:
“...Hỡi
đồng bào yêu quí!
Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Nhiều
dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập.
Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến
lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”[6].
3. Kết quả và Ý nghĩa của Đại hội Quốc
dân Tân Trào
3.1.
Kết quả
Đại
hội đã thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa, xoá bỏ
chế độ cũ, thi hành 10 chính sách của Việt Minh, đặt cơ sở mang tính pháp lý
cách mạng đầu tiên cho một chế độ mới của dân, do dân và vì dân sắp ra đời.
Thực
hiện nghị quyết tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Quốc dân Đại hội và của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước, triệu người như một nhất tề nổi dậy với
ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành
cho được chính quyền trong toàn quốc.
Cuộc
Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là các cuộc khởi
nghĩa ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sài Gòn (25/8). Chính quyền trong cả nước đã
thuộc về nhân dân. Vua Bảo Đại xin thoái vị để “được làm dân tự do của một nước
độc lập” (30/8).
Với
thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ
của thực dân Pháp, Nhật; đã lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế. Ngày 2/9/1945,
tại vườn hoa Ba Đình, trước cuộc mít tinh của hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc
lập, tuyên bố với quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
Một kỷ nguyên mới trong
lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam đã được mở ra – Kỷ nguyên Độc lập, Tự do.
3.2.
Ý nghĩa
Đại
hội quốc dân ở Tân Trào được coi như một “Hội nghị Diên Hồng” của cách mạng Việt
Nam. Qua đó, tinh thần đoàn kết đồng lòng của dân tộc ta được thể hiện một cách
sáng rõ hơn bao giờ hết. Mặt trận Việt Minh đã quy tụ một cách nhanh chóng tất
cả những người yêu nước cách mạng, có mong muốn tham gia vào sự nghiệp giải
phóng đất nước. Đại hội thể hiện sự đồng lòng của cả nước với chính sách của Mặt
trận Việt Minh và của Đảng.
Đại
hội Quốc dân Tân Trào là Đại hội mang tầm vóc lịch sử của một Quốc hội, là sự
kiện đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam, phát động khởi nghĩa
giành chính quyền một cách nhanh nhất, khẩn trương nhất, để cả đất nước Việt
Nam đứng lên tự làm chủ vận mệnh mình, đất nước mình. Thắng lợi của Đại hội thể
hiện sự sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực
thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc
lập dân tộc bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội.
C.
LỜI KẾT
Năm
2015, gần 70 năm đã trôi qua nhưng Quốc dân Đại hội Tân Trào mãi là mốc son chói lọi được ghi vào lịch sử vẻ
vang của dân tộc và có giá trị vĩnh hằng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định khi nói về sự kiện này:
“Vừa
đây Việt Minh lại triệu tập “Việt Nam quốc dân đại biểu Đại hội”, cử ra Uỷ ban
dân tộc giải phóng Việt Nam để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh
kỳ cho nước được độc lập.
Đó
là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ
ngót một thế kỷ nay.
Đó
là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng”[7].
Thắng
lợi của Đại hội Quốc dân và thành công của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám đã
đưa đất nước bước sang trang mới. Một dân tộc trong gần một thế kỷ chìm trong
nô lệ tối tăm, nay đã “Rũ bùn đứng dậy chói lòa”.
DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
2. Hội
đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam (hệ Trung cấp), Nxb. CAND, Hà Nội, 2001.
5. Nguyễn Đức Chiến và Đỗ Quang Ân
(chủ biên), 70 câu hỏi và gợi ý trả lời lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. ĐHQG Hà Nội, 2000.
6. Hồ
Chí Minh, Toàn tập, xuất bản lần thứ
hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 3.
7. Đảng
Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đảng Toàn tập,
tập 7,Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000, tr.559.
8. Một
số trang web:
[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, xuất bản
lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, t.3, tr.505-506.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện
Đảng Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.421.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện
Đảng Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.559.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7,Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.559.
[5] Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.2, tr 263.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản
lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 553 - 554.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản
lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 553
1 nhận xét:
Write nhận xétcho e xin tác giả, tên tài liệu với ạ
Reply