THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI


A.   ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam gia nhập Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả tác phẩm văn học nghệ thuật là một bước đi tất yếu trong tiến trình hội nhập quốc tế. Tham gia Công ước Berne, bên cạnh những cơ hội chúng ta phải đối mặt với những thách thức rất lớn đối với nền công nghiệp bản quyền chưa phát triển của Việt Nam. Để làm rõ hơn, trong bài viết này em xin trình bày vấn đề “ Đánh giá thực trạng và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài kể từ khi Việt Nam tham gia Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả”.
B.   GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.                                          Bảo hộ quyền tác giả
1. Khái niệm bảo hộ quyền tác giả
Bảo hộ quyền tác giả là những cách thức, biện pháp được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng với mục đích tạo ra hành lang pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào.
2. Các hình thức quốc tế bảo hộ quyền tác giả
* Ký kết các điều ước quốc tế song phương về bảo hộ quyền tác giả
Khi các điều ước quốc tế đa phương chưa ra đời thì đây là hình thức được nhiều quốc gia áp dụng để bảo hộ cho các tác giả là công dân nước mình khi tác phẩm của họ vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ quố gia. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia ký kết các điều ước quốc tế song phương về quyền tác giả như: Hiệp định về thiết lập quan hệ quyền tác giả Việt Nam và Hoa Kỳ được ký ngày 27/06/1997 và có hiệu lực từ ngày 23/112/1998; Hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hứu trí tuệ giữa Việt Nam và Thụy Sỹ năm 1999, Hiệp định về quan hệ thương mại Việt Nam-Hoa kỳ năm 2000.
*Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế đa phương về bảo hộ quyền tác giả
Bảo hộ quyền tác giả thông qua các điều ước quốc tế đa phương là phương thức bảo hộ quyền tác giả hiệu quả nhất hiện nay. Các điều ước quốc tế đa phương toàn cầu về quyền tác giả cho phép việc bảo hộ không còn bị giới hạn bởi không gian một nước, hay một khu vực nào nhất định, giúp cho việc bảo hộ quyền tác giả ngày càng mang tính thống nhất, hiệu quả và có tác động mạnh mẽ. Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học ra đời là điều ước quốc tế đa phương đầu tiên trong lĩnh vực quyền tác giả.
*Bảo hộ quyền tác giả theo nguyên tắc có đi có lại
Trên thực tế, pháp luật của đa số các quố gia trên thế giới đều ghi nhận khả năng công nhận và bảo hộ quyền tác giả phát sinh ngoài phạm vi lãnh thổ nước mình dựa trên nguyên tác có đi có lại. Theo nguyên tắc này, Nhà nước không bảo hộ các tác phẩm đã được xuất bản ở một nước mà nước đó không dành sự bảo hộ tương ứng đối với các tác phẩm của công dân nước này.
II.                                       Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật
1. Sự ra đời của Công ước Berne
Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật là công ước quốc tế đầu tiên về bảo hộ quyền tác giả. Công ước Berne được thông qua tại Berne-Thụy Sỹ vào 09/09/1886. Qua hơn 100 năm tồn tại, Công ước đã được sửa đổi, bổ sung 8 lần. Việc sửa đổi, bổ sung Công ước xuất phát từ sự tiến bộ của khoa học, công nghệ, và cũng là do nhu cầu nội tại của việc cần phải quy định thêm thẩm quyền tinh thần, hủy bỏ các thủ tục hình thức, bảo hộ sự sáng tạo dân gian, tiếp cận quyền tinh thần, hủy bỏ các thủ tục hình thức, bảo hộ sự sáng tạo dân gian, tiếp cận tác phẩm cho giáo dục nghiên cứu khoa học… Chính sự bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với thời đại đã giúp Công ước có sức sống lâu dài đến thế.
Đạo luật hiện hành của Công ước Berne là đạo luật ngày 24/07/1971 được sửa đổi, bổ sung ngày 02/10/1979. Công ước Berne có 38 điều chính, 9 điều bổ sung và phụ lục gồm 6 điều khoản đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. Ban đầu Công ước chỉ có 10 quốc gia thành viên nhưng đến nay con số quốc gia thành viên đã lên đến 164. các quốc gia thành viên của Công ước Berne hình thành Liên hiệp Berne.
Việt Nam đã gia nhập công ước Berne vào ngày 26/10/2004, là thành viên thứ 156 của Liên hiệp Berne. Đây là bước đi quan trọng trong công cuộc bảo hộ quốc tế quyền tác giả, và cũng là sự chuẩn bị trong quá trình nỗ lực tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO sau này.
2. Vai trò của Công ước Berne đối với Việt Nam
Tháng 10 năm 2004 Công ước Berne có hiệu lực tại Việt Nam đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá trình chủ động hội quốc tế. Trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn, việc Việt Nam gia nhập Công ước Berne, tham gia bảo hộ quốc tế quyền tác giả là hoàn toàn hợp lý và đúng đắn, bởi:
- Có thể khẳng định việc bảo quốc tế quyền tác giả là hoàn toàn phù hợp với chính sách khuyến khích và hỗ trợ hoạt động sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta. Trước kia, bảo hộ sở hữu trí tuệ chủ yếu được điều chỉnh trong các văn bản của Chính phủ, nhưng hiện nay đã được quy định trực tiếp trong Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ… và trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Bảo hộ quốc tế quyền tác giả nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ nói chung trong tổng thể phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam là tư tưởng chỉ đạo để Việt Nam đàm phán và ký kết các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực này.
- Gia nhập Công ước Berne sẽ có nhiều triển vọng được mở ra và đầu tư và mở rộng thị trường các sản phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học giữa Việt Nam với các quốc gia thành viên Công ước, đặc biệt khi chúng ta đã tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc giao dịch, mua bán quyền được trao đổi chủ động, bình đẳng, cùng có lợi giữa các tổ chức và công dân Việt Nam với tổ chức và công dân các nước thành viên sẽ tạo nên tiêu chí “văn hóa bản quyền” trong quan hệ quốc tê.
- Tham gia Công ước Berne sẽ giúp chất lượng nguồn tác phẩm nước ngoài vào Việt Nam sẽ được chọn lọc kỹ càng hơn. Bởi từ ngày 26/10/2004, muốn dịch một tác phẩm của các nước thành viên Công ước sáng Tiếng việt để sử dụng ở Việt Nam, người sử dụng phải được sự đồng ý và trả chi phí sử dụng cho người giữ bản quyền tác phẩm. điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ phải nghiên cứu kỹ hơn, cân nhăc chi phí và hiệu quả kinh doanh trước khi quyết định.
- Trong các thiết chế kinh tế quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng luôn có vai trò đặc biệt quan trọng, giữ vị trí trung tâm. Việc chấp nhận quy chế bảo hộ quốc tế quyền sở hữu trí tuệ là một trong những điều kiện để có thể gia nhập các thiết chế này. Nếu chúng ta không có quy chế bảo hộ quốc tế quyền sở hữu trí tuệ thì khó có thể tham gia được các thiết chế kinh tế khu vực và thế giới.
- Theo cam kết tại Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, Việt Nam sẽ tham gia Công ước Berne trong thời hạn 24 tháng. Tại Hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ Việt Nam-Thụy Sỹ, Việt Nam cũng cam kết. Tham gia Công ước Berne còn thể hiện sự tôn trọng và tích cực của Việt Nam trong việc thực hiện nghiêm túc các cam kết trong các hiệp định song phương mà Việt nam đã kí kết trước đó.
- Tham gia Công ước Berne sẽ có cơ hội nhận được sự phối hợp hoạt động của các tổ chức quốc tế trong việc thực thi quyền tác giả. Đây không chỉ là cơ hội để chúng ta tiếp xúc và nhận được nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ mà còn thể hiện thái độ thiện chí, tôn trọng đối với các chuẩn mực quốc tế làm thay đổi tình trạng cô lập trong quan hệ quyền tác giả ảnh hưởng xấu đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
III. Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài kể từ khi Việt Nam tham gia Công ước Berne.
1. Thực trạng
Qua gần 6 năm thực hiện công ước Berne, Việt Nam đã đạt được những thành tựu và còn tồn tại những hạn chế sau:
1.1, Thành tựu
Thứ nhất, sau khi gia nhập Công ước Berne, Việt Nam đã từng bước hội nhập quốc tế về bảo vệ quyền tác giả. Trong vòng chưa đầy 3 năm từ khi gia nhập Công ước, Việt Nam đã lần lượt tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền tác giả như: Công ước Gieneva, Công ướ Brussels, Hiệp định Trips, Công ước Rome… việc tham gia điều ước quốc tế cũng là cơ hội để Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình về quyền tác giả phù hợp với pháp luật quốc tế.
Thứ hai, sau khi Việt nam gia nhập Công ước Berne, hệ thống tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả bao gồm: Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc (VCPMC), trung tâm quyền tác giả văn học (VLCC), Hiệp định công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV)….đã được thành lập và hoạt động rất có hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc tự bảo vệ quyền và tạo niềm tin cho các văn sĩ, trí thức và nhà đầu tư trong các lĩnh vực này.
Thứ ba, nhờ có sự tuyên truyền nội dung và những lợi ích khi áp dụng các quy định của Công ước Berne, các chủ thể đã chủ động nộp đơn xin đăng ký quyền tác giả và các hoạt động cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả đã được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Thứ tư, để đảm bảo cho Berne được thực hiện nghiêm túc ở Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam đã có những kế hoạch hợp tác phòng chống, ngăn chặn việc xâm phạm quyền tác giả. Thanh tra Văn hóa, thể thao du lịch đã kiểm tra nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ liên quan đến quyền tác giả, phát hiện và xử lý rất nhiều các cơ sở vi phạm. Việc ráo riết kiểm tra và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quyền tác giả đã thu được nhiều thành tựu khả quan: tình trạng băng đĩa lậu đã giảm hẳn, việc các nhà sản xuất bản tự ý xuất bản các cuốn sách chưa mua hẳn bản quyền của tác giả đã bị hạn chế… Và Việt Nam đã thoát khỏi top 10 thế giới về vi phạm bản quyền.
Thứ năm, các hoạt động kiểm tra, xử lý của các cơ quan thực thi được tăng cường, các cơ quan thực thi đã tổ chức kiểm tra trên phạm vi toàn quốc.
1.2, Hạn chế
* Hiện nay, ở Việt Nam hiện tượng vi phạm bản quyền tác giả vẫn còn khá phổ biến. Vi phạm quyền tác giả xảy ra thường xuyên, ở hầu hết các lĩnh vực và trong tình trạng đáng báo động. Điều đó chứng tỏ rằng cho đến nay hiệu quả thực thi quyền tác giả không cao. Cụ thể tình trạng vi phạm luật quyền tác giả và xâm phạm quyền tác giả thường xảy ra ở các lĩnh vực sau: xuất bản; sản xuất, kinh doanh băng, đĩa; phần mềm máy tính; biểu diễn nghệ thuật; âm nhạc; ngoài ra còn có một số lĩnh vực như điện ảnh, hội họa.
* Bên cạnh sự phổ biến, mức độ nghiêm trọng của tình trạng vi phạm quyền tác giả ngày càng tăng.
Quyền tác giả, việc sao chép tác phẩm không chỉ xảy ra với các sản phẩm giải trí như băng đĩa ca nhạc, phim ảnh và không chỉ thực hiện bởi những người buôn bán thuần túy, mà còn xảy ra cả với các sản phẩm nghiên cứu, sáng tác, phần mềm…. Việc mạo nhận tác giả, sao chép từng phần hoặc toàn bộ tác phẩm xuất hiện ở một số lĩnh vực. Cùng với đà phát triển công nghệ, phương tiện và công nghệ sao chép, bắt chước ngày càng được cải tiến và có mặt ở Việt Nam ngày một nhiều, nên sản phẩm vi phạm được sản xuất với số lượng lớn và tốc độ tăng nhanh. Thực tế, nhiều người buôn bán, nhiều cửa hàng băng đĩa ở các thành phố lớn đều bán băng đĩa sao chép lậu, thậm chí tỷ lệ còn lớn hơn băng đĩa có bản quyền.
Mặt khác, một bộ phận lớn dân cư không có khả năng tiếp cận với sản phẩm chính hiệu giá cao, nhu cầu chất lượng bị giá cả của sản phẩm đẩy xuống hàng thức yếu, do đó trong thực tế đang tồn tại một mâu thuẫn lớn giữa cung và cầu đối với sản phẩm trí tuệ.
* Các vi phạm quyền tác giả chủ yếu được giải quyết bằng thủ tục hành chính, ít được giải quyết tại Tòa án.
Những tranh chấp, vi phạm quyền tác giả có thể được giải quyết theo thủ tục hành chính bởi một hệ thống các cơ quan hành chính, thủ tục tố tụng dân sự và thủ tục tố tụng hình sự Tòa án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hầu hết các tranh chấp và vi phạm quyền tác giả ở nước ta hiện nay được giải quyết theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính bởi ba cơ quan: cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường và thanh tra chuyên nghành văn hóa-thông tin.
2. Nguyên nhân
* Do hệ thống pháp luật
- Do các quy định về quyền tác giả còn nằm rải rác ở nhiều văn bản gây khó khăn trong việc tra cứu, áp dụng. Nhiều quy định thiếu tính khả thi.
- Bản thân Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (là văn bản đang được áp dụng vào thời điểm hạn chế xảy ra) cũng còn một số tồn tại thể hiện tại một số điều, khoản chưa tương thích với pháp luật quốc tế và bộc lộ những hạn chế, bất cập từ thực tiễn thực thi những năm qua…
* Do cơ chế thực thi đều thiếu và yếu
Cơ chế bảo đảm thực thi chưa được hoàn thiện và chưa phát huy đúng mức, biểu hiện vụ việc được giải quyết ở tòa án rất ít ỏi, mà chủ yếu được giải quyết tại các cơ quan hành chính, cùng với các quy định đã có nhưng mới chỉ dừng ở nguyên tắc chứ chưa đủ chi tiết, nên việc áp dụng các chế tài bị lẫn lộn và thiếu hiệu quả. Trình tự dân sự đáng lẽ phải được coi là biện pháp chủ yếu nhưng các quan hệ dân sự thông thường đã bị hành chính hóa một cách quá mức.
* Do ý thức chủ thể: các thực thể tham gia thực thi quyền tác giả đóng vai trò hết sức quan trọng
- Về phía cơ quan có thẩm quyền:
Các tổ chức bảo đảm thực thi chưa thực sự phù hợp tuy có nhiều cơ quan (mỗi cơ quan lại có nhiều cấp: tỉnh, huyện) có chức năng và thẩm quyền xử lý hành chính về sở hữu trí tuệ, nhưng năng lực chuyên môn của chính hệ thống này lại chưa đáp ứng với đòi hỏi của thực tế. Hiện nay, tại các tòa án và các cơ quan bảo đảm thực thi sở hữu trí tuệ khác có rất ít cán bộ được đào tạo về lĩnh vực quyền tác giả. Các hoạt động bảo hộ quyền tác giả chỉ thiên về tổ chức các hội thảo quốc gia, các chuyến đi khảo sát nước ngoài ít chú trọng đến vấn đề khoa học của vấn đề này.
Bên cạnh đó, nhiều tổ chức hiệp hội chưa nhận thức được sự cần thiết phải đứng ra bảo vệ quyền lợi của các thành viên.
- Về phía tác giả, chủ sở hữu tác phẩm: Trong nhiều yếu tố thể hiện sự ý thức chưa đầy đủ của những chủ thể sáng tạo ở Việt Nam về tác quyền. Do có sự tác động của tâm lý hư danh, đề cập khía cạnh tinh thần của người Việt. Người việt nam nói chung nặng về hư danh và có tâm lý ngại đề cập đến tiền bạc, do đó chưa có sự đấu tranh triệt để cho quyền lợi chính đáng về tác phẩm của mình.
- Đối với người phụ trách tác phẩm: Đối với các tổ chức, cá nhân với tư cách là người hưởng thụ (tiêu dùng) chưa có ý thức tôn trọng chủ sở hữu quyền tác giả khi tiếp cận tác phẩm, xâm hại tới quyền của chủ sở hữu quyền tác giả.
Điều quan trọng khác là chưa huy động được sức mạnh toàn dân trong việc chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Thực tế do nhiều lý do khác nhau mà người dân và cho bản thân người tiêu dùng…và do đó chưa quan tâm đúng đến vấn đề này nên hiệu quả chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn chưa được như mong muốn.
3. Một số kiến nghị
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quyền tác giả. Trong đó các dự thảo về sửa đổi Bộ luật dân sự 2005 và một số luật khác liên quan đến quyền tác giả cần đẩy nhanh tiến độ sớm được Quốc hội thông qua. Đồng thời các cơ quan hữu quan cần xúc tiến hoàn chỉnh các dự thảo để kịp thời ban hành một số văn bản hướng dẫn Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2009 để tạo cơ sở thống nhất cho việc áp dụng trong thực tế.
Hai là, hoàn thiện hệ thống quản lý và thực thi quyền tác giả. Tiếp tục nâng cao năng lực và hiện đại hóa hoạt động nghiệp vụ của cơ quan xác lập quyền tác giả cùng với việc nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả tại địa phương nhằm thực thi hiệu qủa các mục tiêu, cam kết về quyền tác giả tại Việt nam.
Ba là, hoàn thiện cơ sở pháp lý về quyền tác giả nói chung, những quy định pháp luật về thực thi quyền tác giả nói riêng. Việc thực thi quyền tác giả chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Do đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý không phải chỉ được thể hiện ở việc hoàn thiện Luật sở hữu trí tuệ mà còn bao gồm các luật khác như luật hình sự, luật hành chính, luật thương mại. Tức là, việc hoàn thiện phải mang tính hệ thống, thống nhất trong cả hệ thống pháp luật chứ không phải chỉ riêng pháp luật sở hữu trí tuệ…. Ngoài việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy về sở hữu trí tuệ, cần quy định rõ cơ quan đầu mối quản lý và có chế tài xử lý thích hợp đối với các vi phạm của cả người thực thi cũng như người quản lý việc thực thi.
Bốn là, hiện tại các quy định về quyền được quy định chủ yếu trong Luật sở hữu trí tuệ và rải rác ở nhiều văn bản khác. Thêm vào đó, Luật sở hữu trí tuệ lại quy định 3 đối tượng với cơ chế bảo hộ khác nhau vào trong cùng một văn bản là không hợp lý. Cho nên để thuận lợi cho việc điều chỉnh và dễ dàng trong việc áp dụng, cần xây dựng Luật quyền tác giả riêng như hầu hết các nước trên thế giới như Mỹ, Nhật…
Năm là, cần có mức xử phạt đủ nặng về mặt kinh tế và pháp lý đối với các hành vi vi phạm, xâm phạm quyền tác giả để tăng tính nghiêm minh và thực thi có hiệu quả các quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Thực tế những năm gần đây chúng ta đã phát hiện và xử lý nhiều trường hợp nhưng chủ yếu là xử phạt hành chính với mức hết sức ít ỏi, không thấm thoát gì so với nguồn lợi bất chính khổng lồ mà các tổ chức in lậu thu được. Tuy chúng ta đã có đủ hành lang pháp lý nhưng những chế tài xử phạt lại chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe, không làm chuyển biến được tình trạng vi phạm bản quyền trong nước hiện nay. Nhiều đối tượng vẫn “ngựa quen đường cũ” bị xử lý xong lại tái diễn gây phiền hà cho công tác quản lý và xuất bản trong nước. Để ngăn chặn, chúng ta phải có những biện pháp mạnh, không chỉ dừng ở việc xử phạt hành chính, theo nhiều nhà quản lý cần phải truy tố hình sự về tội lừa đảo, làm hàng giả…
Cuối cùng, với các quy định chưa tương thích với các công ước quốc tế liên quan đến quyền tác giả nói chung và Công ước Berne nói riêng cần phải nghiên cứu một cách kĩ lưỡng. Có những điều chưa tương thích cần phải được điều chỉnh, nhưng có những điều nếu vẫn giữ đúng nguyên tắc bảo hộ tối thiểu của Công ước, lại phù hợp với điều kiện của nước ta thì thiết nghĩ không nên điều chỉnh, rập khuôn cứng nhắc theo Công ước.
Tóm lại, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam sẽ tạo hành lang pháp lý thống nhất không chỉ đáp ứng được tình hình trong nước mà còn phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, khi đã là thành viên của công ước
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Quyền tác giả là yếu tố cấu thành quan trọng điều ước quốc tế đa phương mang tính trụ cột trong bảo hộ quyền tác giả, là công cụ hữu hiệu trong việc phát huy khả năng sáng tạo của con người, thúc đẩy sự giao lưu, phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học trên phạm vi toàn cầu. Việt nam gia nhập Công ước Berne là một bước đi tất yếu trong tiến trình hội nhập quốc tế. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta còn tồn tại những hạn chế trong việc áp dụng, chúng ta cần có những giải pháp hoàn thiện trong việc bảo hộ quyền tác giả. Vì vậy, Việt Nam cần phải chủ động, tích cực hơn nữa trong việc đưa các cam kết quốc tế vào trong thực tiễn áp dụng. 

Related Post

Previous
Next Post »