Quan
hệ sở hữu là quan hệ xã hội, trong đó, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm các quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu. Các tội xâm phạm về sở
hữu là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ
sở hữu, các tội xâm phạm về quan hệ sở hữu được luật Hình sự Việt Nam quy định
tại chương XIV BLHS năm 1999.
Trong
phạm vi bài tập cá nhân cuối kỳ, em xin lựa chọn đề tài số 2 làm bài cá nhân,
qua đó, làm rõ hơn về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điều 143
BLHS. Tình huống như sau:
Do có mâu thuẫn trong
kinh doanh, P đã nhờ Q đến đốt xưởng của N vào ban đêm. Hậu quả là toàn bộ nhà
xưởng và máy móc của N đã bị thiêu hủy, thiệt hại 350 triệu đồng.
Hỏi:
1.
Xác định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q? (2 điểm).
2.
Giả sử khi đốt xưởng gỗ, Q không biết còn 1 công nhân là H bị say rượu đang ngủ
quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người, thì Q có phải chịu trách nhiệm
hình sự về cái chết của người công nhân này không? Tại sao? (3 điểm).
3.
Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa
án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q
là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? (2 điểm).
1. Định tội danh và khung hình phạt
áp dụng đối với hành vi của P và Q
Chủ
thể của tội phạm: Chủ thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản là chủ thể thường. Do đề bài không đề cập đến độ tuổi, năng lực
TNHS, nên ta mặc nhiên thừa nhận P, Q đủ tuổi chịu TNHS (theo điều 12 BLHS), có
đủ năng lực TNHS (không thuộc các trường hợp quy định tại điều 13 BLHS).
Khách
thể của tội phạm: Tội này xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu, cụ thể ở đây là nhà xưởng của
N và toàn bộ máy móc trong đó.
1.1.
Tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với Q
Q
phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều
143 BLHS với những dấu hiệu pháp lí sau:
*
Mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan của
tội này: là hành vi hủy hoại tài sản hoặc hành vi làm hư hỏng
tài sản của người khác. Ở đây, hành vi của Q là hủy hoại tài sản của N, tài sản đã không thể sử dụng và không thể
khôi phục lại được do hành vi đốt xưởng của Q (hành động phạm tội). Mặt
khác, phương tiên gây án dù không được nhắc đến cụ thể nhưng hành vi hủy hoại
tài sản bằng cách đốt cháy khiến tính chất vụ án thay đổi, việc hủy hoại tài sản
bằng cách đốt cháy có tính chất nguy hiểm cao hơn việc đập phá, phá phách bằng
tay không,… vì hậu quả do hành vi đốt lửa mà tình huống đưa ra rất khó kiểm
soát, gây thiệt hại lớn về tài sản, và thiệt hại đó vượt ra ngoài khả năng chi
phối của người phạm tội, có thể còn nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản ở
khu vực lân cận.
- Hậu quả của tội phạm:
CTTP tội này đòi hỏi phải có hậu quả là tài sản bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng
và tài sản đó phải từ 2 triệu đồng trở lên (hoặc dưới 2 triệu đồng, nhưng phải
gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về tội này hoặc đã bị kết án
mà chưa được xóa án tích về tội này). Tội phạm được coi là hoàn thành khi hậu
quả xảy ra. Cụ thể, trong tình huống này, tài sản đã bị hủy hoại, toàn bộ xưởng
và máy móc bị thiêu rụi gây thiệt hại lên đến 350 triệu đồng, vì vậy, tội phạm
mà Q thực hiện đã hoàn thành vì hậu quả mà Q mong muốn là phá hủy tài sản của N
đã xảy ra.
- Quan hệ nhân quả:
Q phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình gây ra, bởi vì hậu quả thiệt hại
nêu trên xảy ra là do hành động đốt xưởng của Q, nếu không có hành vi đốt xưởng,
thì thiệt hại không xảy ra. Đó chính là mối quan hệ nhân quả, thiệt hại của N
do chính Q gây ra nên Q phải chịu trách nhiêm hình sự về thiêt hại tài sản của
N.
*
Mặt chủ quan của tội phạm:
- Lỗi của
Q là lỗi cố ý trực tiếp. Q biết hành vi của mình có khả năng hủy hoại tài sản của
N nhưng vẫn thực hiện hành vi đó vì mong muốn tài sản của N bị hủy hoại.
- Động cơ:
không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này, vì vậy, dù không có động cơ, hay dù
với bất kỳ động cơ nào chăng nữa thì hành vi hủy hoại tài sản cũng đều cấu
thành tội này. Trong tình huống nêu trên, việc P nhờ Q đốt xưởng của N với mục
đích trả thù do có mâu thuẫn trong kinh doanh từ trước, còn Q dù không có mâu
thuẫn nhưng P nhờ nên đã thực hiện việc đốt xưởng.
Từ
những phân tích trên, có thể định khung hình phạt đối với hành vi của Q theo điểm
a khoản 3 điều 143: “Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây thiệt hại cho
tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;”
Do
đó, khung
hình phạt mà Q phải chịu đó là từ bảy năm đến mười lăm năm tù giam theo quy định
tại điểm a khoản 3 điều 143 BLHS.
1.2.
Tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với P
P
đồng phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại
Điều 143 BLHS:
Căn
cứ vào tình huống, do mâu thuẫn về kinh doanh mà P đã nhờ Q đốt xưởng của N làm
tổn hại lớn tới tài sản của N. Với trường hợp này, P sẽ thuộc trường hợp đồng
phạm với Q theo quy định tại điều 20 BLHS: “Đồng
phạm
1. Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Người tổ chức, người
thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
Người thực hành là người
trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người
chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người
kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người
tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
3.Phạm tội có tổ chức
là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm”.
Theo
đó, vì có mâu thuẫn trong kinh doanh với N nên P đã nhờ Q đốt xưởng của N, có
thể thấy P đã tác động đến tư tưởng và ý chí của Q. P là người xúi giục việc phạm
tội và thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thông qua Q. Về mặt chủ quan, P
có ý định rõ ràng thúc đẩy Q phạm tội thông qua việc nhờ Q đốt xưởng của N. Do
đó, P là đồng phạm với vai trò là người xúi giục Q thực hiện hành vi đốt xưởng
của N.
Căn
cứ vào tình huống đưa ra và điều 20 BLHS năm 1999 thì P đã đồng phạm về tội hủy
hoại tài sản xưởng của N, hơn nữa, mức thiệt hại mà P đã đồng phạm gây ra lên tới
350 triệu đồng nên P sẽ phải chịu khung
hình phạt thuộc điểm a khoản 3 điều 143 BLHS: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a. Gây thiệt hại cho
tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;…”
Như
vậy, P
sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hủy hoại tài sản với khung
hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
Trong
tình huống này, cả P và Q phải chịu TNHS về tội hủy
hoại tài sản được quy định tại khoản 3 điều 143 BLHS với khung hình phạt từ bảy
năm đến mười lăm năm tù giam.
2. Giả sử khi đốt xưởng gỗ, Q không
biết còn 1 công nhân là H bị say rượu đang ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu
quả chết người, thì Q sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người
công nhân này
Q
phải chịu TNHS về hậu quả chết người xảy ra do hành vi đốt
xưởng nhằm hủy hoại tài sản của mình.
Theo
tình huống đưa ra, xét các dấu hiệu sau:
- Hành vi khách quan:
Ở đây pháp luật đòi hỏi Q phải nhìn thấy trước được hậu quả có thể có người
trong xưởng dù đã hết giờ làm việc, vì nơi Q phóng lửa đốt là xưởng làm việc. Q
cần phải nhìn nhận được trường hợp có người còn làm việc trong xưởng, ở lại gác
đêm, tăng ca,… Đây là quy tắc đòi hỏi người xử sự phải nhìn thấy trước trường hợp
này, nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho con người. Dù trong trường
hợp này Q chỉ có ý định đốt xưởng nhằm hủy hoại tài sản của N nhưng đòi hỏi Q phải
thấy trước hậu quả chết người trên.
- Hậu quả: Hậu quả của tội vô ý
làm chết người là dấu hiệu bắt buộc của CTTP, hành vi đốt xưởng của Q đã gây ra
hậu quả là làm chết người. Ở đây,
hành vi của Q đã làm chết công nhân H.
- Quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả của tội phạm: Trong tình huống trên
thì hậu quả người công nhân chết là do hành vi của Q gây ra (đốt xưởng). Q đốt
xưởng của N nhằm thiêu rụi xưởng và máy móc của N nhưng do không cẩn thận kiểm
tra xưởng trước khi đốt nên không biết trong xưởng còn có công nhân say rượu ngủ
quên nên đã dẫn đến hậu quả là làm cho người công nhân chết. Mặc dù, Q không có
ý định giết người nhưng chính hành vi hủy hoại tài sản bằng cách phóng lửa đốt
xưởng đã khiến H – say rượu, đang ngủ trong xưởng chết. Nếu
Q không đốt xưởng thì người công nhân không chết.
- Mặt chủ quan của tội
phạm: Lỗi của Q là lỗi vô ý. Trong trường hợp này, hành
vi của Q là vô ý vì cẩu thả, Q không thấy trước được hậu quả chết người xảy ra
mà hành vi của mình gây ra mặc dù Q cần phải thấy trước và có đủ điều kiện thấy
trước hậu quả chết người đó.
Từ những căn cứ nêu trên có thể thấy Q phải chịu
TNHS về cái chết của H với tội danh vô ý làm chết người được quy định tại
khoản 1 điều 98 BLHS: “1. Người nào vô ý
làm chết người thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.
Vì
vậy, Q
phải chịu TNHS về cái chết của H với hành vi làm chết người với lỗi vô ý được
quy định tại khoản 1 điều 98 BLHS.
Xét
toàn tình huống, hành vi đốt xưởng của Q làm thiệt hại về vật chất lên đến 350
triệu đồng, lại gây chết người với lỗi vô ý, nên Q sẽ bị truy cứu TNHS về hai
tội: Hủy hoại tài sản (khoản 3 điều 143) và Vô ý làm chết người (khoản 1 điều
98 BLHS).
3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản
án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm
tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm nguy hiểm
Hành
vi của Q trong trường hợp nêu trên là tái phạm nguy hiểm được quy định tại
khoản 2 điều 49 BLHS: “2. Những trường hợp
sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a. Đã bị kết án về tội
rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b. Đã tái phạm, chưa được
xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.”
Trước
tiên, ta thấy, Q vừa chấp hành xong bản án (chưa được xóa án tích) về tội cướp
tài sản với mức án 3 năm tù, tức là Tòa án đã xử Q theo khoản 1 điều 133 BLHS –
Tội cướp tài sản: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dung vũ lực….thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười năm”, ở đây, mức cao nhất của khung hình phạt là mười năm tù, căn
cứ khoản 3 điều 8 BLHS “…tội phạm nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
mười lăm năm tù…”. Từ đó, ta thấy, tội phạm mà Q thực hiện là tội rất
nghiêm trọng. Mặt khác, tội cướp tài sản là tội có lỗi cố ý trông mọi trường hợp.
Vì vậy, tội phạm mà trước đấy Q vi phạm (tội cướp tài sản) là tội rất
nghiêm trọng với lỗi cố ý.
Tiếp theo, ta thấy, trong lần vi phạm lần này,
tội của Q được xác định là tội hủy hoại tài sản được quy định tại khoản 3 điều
143 BLHS: “3. Phạm tội thuộc một trong
các trường hơp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a. Gây thiệt hại cho
tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
b. Gây hậu quả rất
nghiêm trọng”.
Ta
thấy, mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 143 là phạt tù
đến mười lăm năm. Mặt khác, khoản 3 điều 8 BLHS quy định “…tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù”.
Qua đó, ta thấy, tội phạm mà Q đã thực hiện là tội rất nghiêm trọng.
Vì
vậy, căn cứ vào khoản 1 điều 133, khoản 3 điều 143, khoản 3 điều 8, khoản 2 điều
49 BLHS ta khẳng định hành vi của Q trong tình huống nêu trên là
tái phạm nguy hiểm.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1.
P và Q phải chịu TNHS về tội hủy hoại tài sản được quy định tại khoản 3 điều
143 BLHS.
2.
Q phải chịu TNHS về cái chết của H với hành vi làm chết người với lỗi vô ý được
quy định tại khoản 1 điều 98 BLHS.
3.
Hành vi của Q trong tình huống nêu
trên là tái phạm nguy hiểm.