Hiện nay, hình thức đầu
tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC) đang ngày càng phổ biến, vì
dễ tiến hành, thích hợp với các dự án cần triển khai nhanh mà thời hạn đầu tư
ngắn. Tuy nhiên, hình thức đầu tư này cũng có những hạn chế nhất định. Do đó,
nhà đầu tư cần phải tìm hiểu thật kỹ những ưu điểm, hạn chế nhằm đảm bảo cho dự
án đầu tư đem lại lợi nhuận cao nhất và rủi ro thấp nhất. Thực tế hiện nay, cũng có
nhiều sự nhầm lẫn giữa hợp đồng BCC và hợp đồng liên doanh trong pháp luật đầu
tư.
Do đó, trong phạm vi
bài tập lớn học kỳ, em sẽ tập trung “Phân tích những ưu điểm và hạn chế của hình thức đầu tư
theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân biệt hợp đồng hợp tác kinh doanh với hợp
đồng liên doanh”.
Khoản 9 Điều 3
Luật Đầu tư 2014 quy định: “Hợp
đồng hợp tác kinh doanh
(sau đây gọi là hợp đồng BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp
tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức
kinh tế”.
Theo đó, hợp đồng BCC có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng gồm hai bên hoặc nhiều bên, trong đó bên Việt
Nam có thể là một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh
tế hoặc là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
Thứ hai, nội dung hợp đồng chứa đựng sự hợp tác kinh doanh tại Việt Nam
cũng như chứa đựng sự phân chia trách nhiệm và lợi nhuận;
Thứ ba, các bên tham gia quan hệ hợp đồng không bị ràng buộc về mặt tổ chức,
cụ thể, việc ký kết hợp đồng này không dẫn đến thành lập pháp nhân mới.
Luật Đầu tư 2014 không có giải thích về hợp đồng liên doanh. Tuy
nhiên, căn cứ vào các văn bản trước đây, có thể hiểu: “Hợp đồng liên doanh” là
văn bản ký giữa hai bên hoặc nhiều bên về việc thành lập công ty liên doanh, hoặc
là văn bản ký giữa công ty liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thành lập
công ty liên doanh mới tại Việt Nam[1].
Thứ nhất,
dễ tiến hành, thủ tục đơn giản, giúp nhà đầu tư tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí do không phải thành lập một
pháp nhân mới trước khi triển khai dự án đầu tư và tiến hành hoạt động kinh
doanh, cũng như không phải làm thủ tục giải thể doanh nghiệp sau khi kết thúc dự
án đầu tư kết thúc.
Do đó, hình thức đầu tư
này giúp sớm thu được lợi nhuận, thích hợp với các dự án cần triển khai nhanh,
thời hạn đầu tư ngắn. Vì các nhà đầu tư không mất nhiều thời gian xây dựng cơ sở
sản xuất mới, quy mô dự án có thể linh hoạt.
Thứ hai,
các bên trong hợp đồng có thể hỗ trợ những thiếu sót, yếu điểm lẫn nhau trong
quá trình sản xuất, kinh doanh. Ví dụ như đối với những thị trường đầu tư còn mới
mẻ, nhà đầu tư nước ngoài sẽ dễ dàng tiếp cận thông qua những đối tác trong nước
am hiểu thị trường. Còn các nhà đầu tư trong nước thì có thể được các đối tác
nước ngoài hỗ trợ về vốn, nhân lực, công nghệ hiện đại[2].
Thứ ba,
trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý độc lập
của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Do đó, nhà đầu tư sẽ
rất linh hoạt, độc lập, ít lệ thuộc vào đối tác khi quyết định các vấn đề của dự
án đầu tư. Đối với hình thức đầu tư này, nhà đầu tư có thể linh hoạt trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng do không có sự ràng
buộc về tổ chức bằng một pháp nhân chung của các tổ chức, cá nhân có quan hệ đầu
tư với nhau. Do đó, hình thức đầu tư này đã góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu và
sự lựa chọn của nhiều nhà đầu tư khác nhau[3].
Thứ tư,
việc tiến hành đầu tư theo hợp đồng BCC còn giúp các nhà đầu tư khi ký kết được
lựa chọn phương án góp vốn, phân chia kết quả kinh doanh sao cho phù hợp với mức
độ đóng góp của các bên tham gia. Do đó, hợp đồng BCC khá phù hợp so với tình
hình thực tế ở nước ta, doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế hơn trong hiểu biết về
văn hóa tiêu dùng trong nước, về lực lượng lao động, địa bàn,... còn các doanh
nghiệp nước ngoài thường có lợi thế về vốn, công nghệ và trình độ quản lý tiên
tiến.
Thứ nhất,
vì không thành lập doanh nghiệp mới, nên dự án đầu tư sẽ gặp khó khăn khi thực
hiện các hợp đồng phục vụ cho hợp đồng hợp tác kinh doanh. Vì không có doanh
nghiệp liên doanh mới ra đời giữa các nhà đầu tư, do đó, sẽ không có con dấu
riêng, từ đó, các nhà đầu tư sẽ phải thỏa thuận lựa chọn một con dấu của các
nhà đầu tư để phục vụ cho các hoạt động của dự án đầu tư. Việc không phải thành
lập pháp nhân mới trong nhiều trường hợp nếu các nhà đầu tư không nghiên cứu kỹ,
lựa chọn sai hình thức đầu tư thì lại trở thành một hạn chế rất lớn, gây ra nhiều
rủi ro mà các nhà đầu tư không lường trước được. Vì không có doanh nghiệp mới
ra đời, do đó, quyền quản lý dự án đầu tư sẽ được chia đều cho tất cả các nhà đầu
tư, như vậy không công bằng với các nhà đầu tư bỏ nhiều vốn hơn[4].
Thứ hai,
pháp luật chưa có các quy định cụ thể về
trách nhiệm của các bên và bên thứ ba khi một bên giao kết hợp đồng với bên
thứ ba trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC.
Đây cũng là một hạn chế cần phải chú ý tới nếu các bên lựa chọn hình thức
đầu tư này3.
Văn hóa kinh doanh, nhận thức của một
số doanh nghiệp còn kém, tâm lý lo ngại, thiếu tin tưởng, cũng khiến cho quan hệ
hợp tác không vững chắc.
Thứ ba,
Khó thu hút đầu tư đối với những lĩnh vực
còn khó khăn và cần phát triển lâu dài.Vì mục đích lợi nhuận, các nhà đầu
tư chỉ thực hiện đầu tư vào một số lĩnh vực dễ sinh lợi và sinh lợi nhanh. Hình
thức này thường được áp dụng để thực hiện một dự án cụ thể, nên việc quản lý,
kinh doanh đối với dự án lâu dài là không phù hợp khi lựa chọn hình thức đầu tư
theo hợp đồng BCC.
Thứ tư, việc phê duyệt dự án phải có tất cả các bên góp vốn (hợp doanh)
cùng phê duyệt cũng là một trở ngại gây chậm quá trình thực hiện dự án. Nhiều vấn
đề quan trọng trong hợp đồng phải được Đại hội cổ đông hoặc Hội đồng quản trị,
Hội đồng thành viên của các bên thông qua, nên việc thực hiện hợp đồng có thể bị
chậm hơn so với dự kiến.
Hợp đồng BCC và hợp đồng
liên doanh đều có mục đích và nội dung chung là hướng đến sự thỏa thuận phân
chia quyền lợi, trách nhiệm trong quá trình hoạt động đầu tư, kinh doanh. Tuy
nhiên, có một vài sự khác biệt giữa 2 loại hợp đồng này, cụ thể:
Tiêu chí
|
Hợp đồng BCC
|
Hợp đồng liên doanh
|
Chủ
thể ký kết hợp đồng
|
Không giới hạn các
nhà đầu tư, có thể là nhà đầu tư trong nước kí kết hợp tác kinh
doanh với nhà đầu tư nước ngoài hoặc các nhà đầu tư trong nước kí
kết hợp đồng với nhau.
|
Bắt buộc phải có sự
tham gia của một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước với một hoặc nhiều
nhà đầu tư nước ngoài.
|
Bản
chất hợp đồng
|
Là sự thỏa thuận
của các bên để tiến hành hợp tác kinh doanh với nhau và là
một hình thức đầu tư, tồn tại độc lập với các hình thức
đầu tư khác.
|
Không được coi là
hình thức đầu tư, chỉ là cơ sở pháp lí ghi
nhận quan hệ đầu tư. Là văn bản bắt buộc phải có trong hồ sơ đề
nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư.
|
Hình
thành pháp nhân mới
|
Không hình thành tổ chức kinh tế mới.
Không có
tư cách pháp nhân, không có con dấu riêng, các nhà đầu tư phải thỏa thuận việc
dùng dấu và danh nghĩa của một bên tiến hành giao dịch;
|
Hình thành doanh nghiệp mới; tổ chức, hoạt động theo quy định của
Luật Doanh nghiệp;
Có tư
cách pháp nhân, có con dấu riêng, nhân danh chính doanh nghiệp mới thành lập
trong các giao dịch.
|
Nội
dung hợp đồng
|
Việc kí kết hợp
đồng không dẫn đến thành lập một pháp nhân mới. Do đó, trong hợp
đồng, các bên chủ yếu thỏa thuận những nội dung liên quan đến: thể
thức góp vốn, quản lý, phân chia lợi nhuận, kết quả kinh doanh,…
|
Việc kí kết hợp
đồng dẫn đến thành lập pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp nên nội dung
thỏa thuận phải có: loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh, điều kiện chấm dứt và giải thể doanh nghiệp,…
|
Thực
hiện hợp đồng
|
Các nhà đầu tư
phải tự tiến hành hoạt động đầu tư với quy chế do chính họ đặt ra
và thỏa thuận trong hợp đồng.
|
Việc thực hiện hợp đồng
sẽ được phản ánh qua tình hình hoạt động của doanh nghiệp liên
doanh đó.
|
Quyền
quản lý
|
Các
bên có quyền quản lý điều hành ngang nhau, không phụ thuộc vào số vốn 2 bên
đóng góp, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
|
Bên
nào có lượng vốn góp lớn hơn thường chiếm nhiều quyền quản lý điều hành hơn,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
|
Phân
chia lợi nhuận và rủi ro
|
Theo
sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng BCC.
|
Theo
thỏa thuận trong hợp đồng liên doanh và theo
Điều lệ của pháp nhân mới thành lập.
|
Tính
minh bạch trong hoạt động
|
Do
không có pháp nhân riêng nên khó kiểm soát được hoạt động của mỗi bên trong
kinh doanh, vì 2 bên sử dụng 2 con dấu. Đặc biệt là trong việc hạch toán chi
phí.
|
Pháp
nhân mới thành lập có quy chế tổ chức, hoạt động chặt chẽ, nên dễ dàng kiểm
soát trong vấn đề quản lý điều hành, hạch toán chi phí.
|
Tính
linh hoạt
|
Do
không phải thành lập pháp nhân mới nên tham gia các hoạt động kinh doanh, đầu
tư rất nhanh chóng và tốn ít chi phí.
|
Phải
đăng kí thành lập pháp nhân mới nên rất tốn chi phí và thời gian. Sau khi chấm
dứt đầu tư, kinh doanh phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp.
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật
Đầu tư 2014.
2. Nghị định số 118/2015/NĐ – CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư.
3. Nghị
định của Chính phủ số 194/2013/NĐ – CP ngày 21/11/2013 quy định việc đăng kí lại,
chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và đổi giấy phép đầu tư theo
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
4. Trường
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Đầu
tư, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009 (Chương IV – Đầu tư trực tiếp theo hợp đồng).
5. TS.
Nguyễn Thị Dung, Một số nội dung mới
trong pháp luật Việt Nam về hợp đồng hợp tác kinh doanh, Tạp chí luật học số
11/2008.
6. Tìm hiểu về hình thức đầu tư theo loại hình hợp đồng hợp tác kinh
doanh – Nguyễn Phương
Anh - Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp;
7. Trang web: moj.gov.vn
[1]
Tham khảo: Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996
[2]
Tham khảo: Tìm
hiểu về hình thức đầu tư theo loại hình hợp đồng hợp tác kinh doanh – Nguyễn
Phương Anh - Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp.
[3] Tham khảo: TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - Những vấn đề
pháp lý cơ bản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008.
[4]
Tham khảo: Tìm
hiểu về hình thức đầu tư theo loại hình hợp đồng hợp tác kinh doanh – Nguyễn
Phương Anh - Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp.