BIỆN PHÁP BẢO LÃNH, NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BLDS 2015 SO VỚI BLDS 2005


Để bảo đảm quyền lợi cho bên có quyền khi giao kết hợp đồng trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, pháp luật cho phép người thứ ba đứng ra cam kết trước người có quyền về việc thực hiện thay nghĩa vụ của người có nghĩa vụ. Đó là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được pháp luật dân sự quy định – biện pháp bảo lãnh.
Để làm rõ hơn quy định của pháp luật về biện pháp bảo lãnh, em chọn đề tài: “Biện pháp bảo lãnh: So sánh quy định của BLDS 2005 và 2015; phân tích, đánh giá những điểm mới trong BLDS 2015 và cho ví dụ minh họa” để làm bài tập học kỳ.

Điều 361 BLDS 2005 và Điều 335 BLDS 2015 đều quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Bảo lãnh là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, do đó, bảo lãnh mang những đặc điểm chung:
- Chỉ phát sinh trên cơ sở có sự thỏa thuận của các bên chủ thể.
-  Biện pháp bảo lãnh  được coi là hợp đồng phụ, không tồn tại độc lập, luôn được xác lập cùng một hợp đồng hoặc thỏa thuận khác (hợp đồng chính) với mục đích để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong một hợp đồng được xác định (hợp đồng chính).
-  Lợi ích vật chất là đối tượng chủ yếu của các biện pháp bảo đảm.
-  Mục đích: bảo đảm việc thực hiện hợp đồng chính, có tính chất dự phòng, chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy ra.
-  Phạm vi của các biện pháp bảo đảm: không vượt quá phạm vi của nghĩa vụ được bảo đảm. Nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì phạm vi là toàn bộ nghĩa vụ chính.
-  Bảo lãnh vừa mang tính chất pháp định, vừa mang tính chất ước định (thỏa thuận).
Ngoài những đặc điểm chung trên thì bảo lãnh có những đặc điểm riêng:
-  Bảo lãnh là biện pháp mang tính đối nhân.
-  Bên bảo đảm trong bảo lãnh bao giờ cũng là người thứ ba. Người thứ ba dung tài sản của mình hoặc cam kết thực hiện thay nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ chính nếu bên có nghĩa vụ có hành vi vi phạm hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh).
-  Nghĩa vụ giữa những người cùng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh là nghĩa vụ liên đới, trừ khi có thỏa thuận khác[1].
Hiện có hai quan điểm khác nhau về chủ thể của quan hệ bảo lãnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng quan hệ bảo lãnh chỉ là quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, quan hệ bảo lãnh là quan hệ ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
Tuy nhiên, khi xem xét chủ thể xác lập, thực hiện quan hệ bảo lãnh thì chủ thể của quan hệ bảo lãnh chỉ gồm bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.Người được bảo lãnh có thể biết hoặc không biết cam kết bảo lãnh giữa hai bên và sự đồng ý hay không đồng ý của người được bảo lãnh không làm ảnh hưởng đến quan hệ bảo lãnh[2].
-  Bên bảo lãnh: Là bên cam kết trước bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm trong việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ đó nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ.
-  Bên nhận bảo lãnh: Là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh.
Thứ nhất, về phạm vi bảo lãnh. Theo Điều 363 BLDS 2005 và Khoản 1, Khoản 2 Điều 336 BLDS 2015 thì bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Thứ hai, về thù lao. Theo quy định tại Điều 364 BLDS 2005 và Điều 337 BLDS 2015 thì bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có thỏa thuận.
Thứ ba, về việc liên đới thực hiện việc bảo lãnh. Điều 365 BLDS 2005 và Điều 338 BLDS 2015 đều quy định, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì họ phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.
Thứ tư, về việc chấm dứt bảo lãnh. Cả BLDS 2005 và BLDS 2015 đều quy định các trường hợp chấm dứt quan hệ bảo lãnh gồm: Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt; Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; Theo thỏa thuận của các bên[3].
Thứ năm, về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Điều 366 BLDS 2005 và Điều 339 BLDS 2015 đều quy định: Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn. Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.
Thứ nhất, về hình thức bảo lãnh. BLDS 2015 không quy định về hình thức bảo lãnh. Trong khi đó, Điều 362 BLDS 2005 quy định bắt buộc việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực.
Đây là điểm mới rất tích cực của BLDS 2015 so với BLDS 2005. Bởi lẽ, việc không quy định về hình thức bảo lãnh sẽ giúp các bên linh hoạt hơn, chủ động hơn trong việc thiết lập quan hệ bảo lãnh. Các bên có thể tự do lựa chọn hình thức là văn bản, bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể[4], trừ trường hợp pháp luật bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.
Tuy nhiên, do không được lập thành văn bản, nên, nếu trường hợp bên bảo lãnh từ chối thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì đây sẽ là một vướng mắc lớn. Rõ ràng, bên nhận bảo lãnh không có chứng cứ hay tài liệu nào để chứng minh bên bảo lãnh đã đứng ra bảo lãnh, do đó, quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh của bên nhận bảo lãnh sẽ không thể thực hiện được.
Thứ hai, điểm mới về phạm vi bảo lãnh. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, BLDS 2015 có mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền chậm trả” so với quy định chỉ có “tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác” ở BLDS 2005[5]. Mặt khác, tại Khoản 3 Điều 336 BLDS 2015 cũng quy định thêm việc các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Với quy định trên, việc BLDS 2015 mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền chậm trả” nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh. Rõ ràng, khi bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh chậm trả nợ cho bên nhận bảo lãnh, thì bên nhận bảo lãnh không thể sử dụng khoản tiền đáng ra là của họ để thực hiện công việc khác, do đó, pháp luật đã bổ sung thêm quy định này với mục đích bảo đảm lợi ích đáng ra bên nhận bảo lãnh sẽ được hưởng, nếu không có hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia.
Ví dụ: M vay N số tiền 100 triệu đồng, thời hạn 3 tháng, lãi suất 1% /tháng. K bão lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của M. Sau 3 tháng, nếu M không có khả năng thanh toán, thì K phải thực hiện nghĩa vụ đó thay M. BLDS 2015 quy định rằng, K sẽ phải thay M trả số tiền 100 triệu đồng cho N, cùng với đó là số tiền lãi 3 triệu đồng (1% /tháng) và số tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có). Giả sử, 1 tháng sau đó, K mới trả 100 triệu cho N, thì K buộc phải thanh toán cho N thêm lãi trên số tiền chậm trả (100 triệu đồng) trong 1 tháng đó theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, Khoản 4 Điều 336 BLDS 2015 cũng quy định trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
Thứ ba, về quyền yêu cầu của bên bảo lãnh. Điều 340 BLDS 2015 quy định rằng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện. So với quy định bên bảo lãnh chỉ được yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ tại Điều 367 BLDS 2005.
Với quy định này, bên bảo lãnh có thể yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình ngay cả khi bên bảo lãnh chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh trong phạm vi nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đã thực hiện. Hay nói cách khác, bên bảo lãnh, họ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đến đâu (trong phạm vi bảo lãnh) thì họ có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh phải hoàn trả lại cho họ đến đó. Rõ ràng, thời điểm bên bảo lãnh có quyền yêu cầu theo quy định của BLDS 2015 là sớm hơn so với quy định bên bảo lãnh chỉ được quyền yêu cầu bên được bảo lãnh hoàn trả lại nghĩa vụ mà họ đã thực hiện thay khi họ đã hoàn thành nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh.
Ví dụ: C vay D số tiền 300 triệu đồng, thời hạn vay là 6 tháng. E bảo lãnh toàn bộ khoản vay trên của C. Theo quy định của BLDS 2015, khi hết thời hạn, nếu C không có khả năng thanh toán đầy đủ cho D, thì E phải thực hiện nghĩa vụ đó. Giả sử, E thỏa thuận với D sẽ thanh toán trước cho D 200 triệu đồng, số tiền còn lại sẽ thanh toán tiếp trong vòng 1 tháng và được D chấp thuận. Thì trong tình huống này, sau khi E thánh toán trước cho D 200 triệu đồng, thì E có quyền yêu cầu C hoàn trả số tiền 200 triệu đồng mà E đã thực hiện nghĩa vụ thay cho C, chứ không cần phải đợi đến khi E trả đủ số tiền 300 triệu đồng cho D.
Thứ tư, về việc miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều 368 BLDS 2005 quy định rằng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác, thì mặc dù bên nhận bảo lãnh đã miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, nhưng bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đó.
So với BLDS 2005, BLDS 2015, tại Điều 341 nhà làm luật đã có một tư duy rất mới khi quy định rằng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, nếu bên nhận bảo lãnh đã miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh cũng không còn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh nữa.
Với quy định mới này, có thể thấy rằng, nhà làm luật đã hướng đến việc coi nghĩa vụ của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một. Hay nói cách khác, nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đáng ra phải thực hiện và nghĩa vụ đương nhiên của bên được bảo lãnh là một. Từ đó, nếu bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, cũng đồng thời với việc họ miễn luôn nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Ví dụ: A bảo lãnh cho B toàn bộ khoản vay 2 tỷ đồng của C. Theo quy định của BLDS 2015, nếu hết thời hạn vay, B không có khả năng trả nợ, thì A phải thực nghĩa hiện nghĩa vụ trả nợ đó. Tuy nhiên, nếu C miễn việc thực hiện nghĩa vụ đó cho A, thì đồng thời, B cũng không phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ này nữa. Đó là một quy định rất mới, bởi, nếu theo BLDS 2005, thì mặc dù C miễn cho A, nhưng B vẫn tiếp tục phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ này.
Thứ năm, về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh. Tại Điều 342 BLDS 2015 có quy định: “1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó. 2. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại”.
Đây là điểm mới đáng chú ý so với quy định trong BLDS 2005. Cụ thể, BLDS 2005, tại Điều 369 có nói đến việc bên bảo lãnh phải đưa tài sản của thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Với điểm mới này, pháp luật đã quy định cụ thể hơn, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh khi bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh, thông qua việc trao cho họ quyền được yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ và buộc bên bảo lãnh phải bồi thường thiệt hại (nếu có) do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây ra. Thiệt hại là có thể là thiệt hại thực tế do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây ra, hoặc có thể là khoản lợi mà bên nhận bảo lãnh đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm đó.
Ví dụ: A vay B số tiền 1 tỷ đồng trong thời hạn 12 tháng, với lãi xuất 1% /tháng. D đứng ra bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả tiền của A. Hết 12 tháng, A không trả được số tiền 1 tỷ đồng cho B. Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 342 BLDS 2015, thì D có nghĩa vụ phải trả nợ thay A. Nếu D không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, thì B có quyền yêu cầu D phải thanh toán số tiền gốc, cộng lãi và phải bồi thường thiệt hại (nếu có).
Thứ sáu, về việc hủy bỏ việc bảo lãnh. BLDS 2005 tại Điều 370 có quy định: Việc bảo lãnh có thể được hủy bỏ nếu được bên nhận bảo lãnh đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, BLDS 2015 không có điều khoản quy định việc hủy bỏ việc bảo lãnh.
Việc BLDS 2015 không quy định trường hợp, cũng như điều kiện hủy bỏ việc bảo lãnh là để quy định ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ của bên bảo lãnh đối với nghĩa vụ bảo lãnh. Mặc dù BLDS 2015 không có quy định, tuy nhiên, việc bảo lãnh có thể được hủy bỏ nếu bên nhận bảo lãnh đồng ý, điề này thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận của các bên, bởi suy cho cùng, biện pháp này phát sinh từ thỏa thuận của hai bên, thì việc hủy bỏ cũng phải do hai bên cùng thống nhất.
Ví dụ: A vay B số tiền 100 triệu đồng, C đứng ra bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho A. Trong trường hợp này, C có thể được hủy bỏ việc bảo lãnh, nếu được B đồng ý.

KẾT LUẬN

Từ những quy định mới của BLDS 2015 về biện pháp bảo lãnh, có thể thấy, pháp luật đã có những hướng quy định tích cực bảo vệ quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh, cũng như những quy định về trách nhiệm của bên bảo lãnh đối với việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Bộ luật Dân sự năm 2015;
2.  Bộ luật Dân sự năm 2005;
3.  Nghị định số 163/2006/NĐ – CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm;
4.  Nghị định số 11/2012/NĐ – CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ – CP ngày 29/12/2006 về Giao dịch bảo đảm;
5.  Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1 – 2, Nxb. CAND, Hà Nội, 2015;
6.  Vũ Đức Long, Hỏi đáp pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm, Nxb. Tư pháp, 2012;
7.  TS. Phạm Văn Tuyết – TS. Lê Kim Giang, Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Nxb. Dân trí, 2015;


[1] Tham khảo: Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, TS. Phạm Văn Tuyết – TS. Lê Kim Giang (Đồng chủ biên), Nxb. Dân Trí, 2015, Tr. 156.
[2] Tham khảo: Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, TS. Phạm Văn Tuyết – TS. Lê Kim Giang (Đồng chủ biên), Nxb. Dân Trí, 2015, Tr. 157.
[3] Tham khảo: Điều 371 BLDS 2005 và Điều 343 BLDS 2015.
[4] Điều 124 BLDS 2005 và Điều 119 BLDS 2015.
[5] Tham khảo: Điều 336 BLDS 2015 và Điều 363 BLDS 2005.

Related Post

Previous
Next Post »