Các quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (sau đây gọi là ASEAN) – Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Vương quốc
Căm-pu-chia, Cộng hòa In-đô-nê-xi-a, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
Ma-lai-xi-a, Cộng hòa Liên bang Mi-an-ma, Cộng hòa Phi-lip-pin, Cộng hòa
Xinh-ga-po, Vương quốc Thái Lan và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sau đây
gọi riêng là “Bên” và gọi chung là “các Bên”;
THỪA NHẬN rằng hành vi buôn bán người vi phạm các
quyền con người và xâm phạm nhân phẩm của con người.
NHẮC LẠI các nguyên tắc và mục tiêu của Hiến chương Liên
hợp quốc, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền, Hiến chương Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (“Hiến chương ASEAN”) và Tuyên bố nhân quyền ASEAN, Công ước của
Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và trong trường hợp
có thể áp dụng, Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, cùng các điều ước quốc tế và các nghị
quyết có liên quan của Liên hợp quốc về xóa bỏ nạn buôn bán người, thúc đẩy và
bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản, đối xử công bằng, pháp quyền
và quyền được xét xử công bằng, nhanh chóng.
NHẤN MẠNH cam kết ghi nhận trong
Hiến chương ASEAN về mục đích đối phó hữu hiệu với tất cả các mối đe dọa, các
loại tội phạm xuyên quốc gia và các thách thức xuyên biên giới, phù hợp với
nguyên tắc an ninh toàn diện;
KHẲNG ĐỊNH LẠI cam kết ghi nhận trong Tuyên bố ASEAN về
chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2004; các hoạt động tư
pháp hình sự của ASEAN đối phó với nạn buôn bán người: Chấm dứt việc miễn trừng
phạt các đối tượng buôn bán người và bảo đảm công lý cho nạn nhân năm 2007
(“Hướng dẫn ASEAN cho cán bộ hoạt động thực tiễn”); Tuyên bố chung của các lãnh
đạo ASEAN trong việc tăng cường hợp tác chống buôn bán người ở khu vực Đông Nam
Á năm 2011; và các nỗ lực của ASEAN trong việc thúc đẩy quyền con người, bao
gồm Tuyên ngôn của ASEAN về quyền con người được thông qua năm 2012;
NHẤN MẠNH HƠN NỮA cam kết trong việc hợp
tác khu vực và quốc tế chặt chẽ và hiệu quả hơn chống hành vi buôn bán người có
tính chất xuyên quốc gia, bao gồm nhưng không giới hạn các tội phạm được thực
hiện bởi các nhóm phạm tội có tổ chức;
GHI NHẬN việc hợp tác là yếu tố quan trọng để điều tra,
truy tố thành công và xóa bỏ nơi ẩn náu của những kẻ phạm tội buôn bán người và
đồng phạm, đồng thời, để bảo vệ và hỗ trợ hiệu quả các nạn nhân bị buôn bán;
GHI NHẬN rằng nguyên nhân của buôn bán người bao gồm sự
kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó có tham nhũng trong khu vực công, sự nghèo
đói, kinh tế bất ổn định, hệ thống pháp luật kém hiệu quả, phạm tội có tổ chức,
các yếu tố gia tăng các hình thức bóc lột con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ
em, gây nên nạn buôn bán người, là những vấn đề phải được giải quyết hiệu quả;
THỪA NHẬN rằng tất cả các quốc gia thành viên ASEAN
không phân biệt là quốc gia nguồn, quốc gia quá cảnh hay quốc gia đích đều chia
sẻ trách nhiệm và một mục tiêu chung là phòng ngừa, truy cứu trách nhiệm hình
sự và trừng trị các đối tượng buôn bán người và bảo vệ, hỗ trợ các nạn nhân bị
buôn bán;
CÓ TÍNH ĐẾN sự gần gũi và nối tiếp
của biên giới các quốc gia thành viên và phù hợp với tinh thần của khu vực
ASEAN;
NHẬN THỨC sự cần thiết xây dựng
một văn kiện của khu vực quy định riêng về buôn bán người với tính chất là một
khung khổ pháp lý cho các hành động của khu vực trong phòng, chống buôn bán
người, bao gồm việc bảo vệ và hỗ trợ các nạn nhân bị buôn bán;
GHI NHẬN vai trò quan trọng của việc kịp thời xây dựng
một công cụ có giá trị pháp lý về chống buôn bán người để có thể hỗ trợ các
quốc gia thành viên ASEAN là quốc gia nguồn, quốc gia quá cảnh hoặc quốc gia
đích giải quyết những thách thức, ưu tiên và chiến lược đa dạng của quốc gia
mình trong chống buôn bán người;
Đã thống nhất như sau:
Chương I - Quy định chung
Điều 1: Mục đích
1. Mục đích của văn kiện pháp lý khu vực này là:
a. Phòng, chống có hiệu quả nạn buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em và bảo đảm các hình phạt thích đáng và hiệu quả
đối với những đối tượng có hành vi buôn bán người;
b. Bảo vệ và hỗ trợ các nạn nhân bị buôn bán một
cách hiệu quả, với việc tôn trọng đầy đủ quyền con người của họ;
c. Thúc đẩy hợp tác có hiệu quả giữa các quốc
gia thành viên để đạt được mục đích này.
2. Các bên thống nhất rằng các biện pháp được
quy định tại Công ước này phải được giải thích và áp dụng phù hợp với các
nguyên tắc quốc tế và khu vực đã được công nhận về nguyên tắc không phân biệt
đối xử, đặc biệt là không phân biệt đối xử với nạn nhân bị buôn bán.
Điều 2: Sử dụng các thuật ngữ
Vì mục đích của Công ước này:
a. “Buôn bán người” là việc tuyển dụng, vận
chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng
cách sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt
cóc, gian lận, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay
bằng việc đưa hay nhận tiền hoặc lợi ích để đạt được sự đồng ý của người có
quyền kiểm soát người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ở mức tối thiểu, việc
bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các
hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô
lệ, khổ sai hoặc việc lấy các bộ phận cơ thể;
b. Việc một nạn nhân bị buôn
bán chấp nhận sự bóc lột có chủ ý được quy định tại điểm (a) của Điều này sẽ là
không thích hợp nếu bất kỳ cách thức nào quy định tại điểm (a) đã được sử dụng;
c. Việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao,
chứa chấp hoặc tiếp nhận trẻ em nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là “buôn bán
người” ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ cách thức
nào được quy định tại điểm (a) của Điều này;
d. “Trẻ em” là bất kỳ người nào dưới mười tám
(18) tuổi;
e. “Nạn nhân” là bất kỳ người nào là đối tượng
của hành vi buôn bán người được định nghĩa trong Công ước này;
f. “Nhóm tội phạm có tổ chức” là một nhóm có cơ
cấu gồm từ ba (3) người trở lên tồn tại trong một thời gian và phối hợp hoạt
động để thực hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm trọng hoặc các hành vi phạm tội
được quy định trong Công ước này, nhằm có được, trực tiếp hay gián tiếp, lợi
ích về tài chính hay vật chất khác;
g. “Tội phạm nghiêm trọng”, như được
quy định tại khoản (f) của Điều này, là hành vi cấu thành tội phạm có thể bị
trừng phạt với khung hình phạt tước tự do tối đa là ít nhất bốn năm hoặc hình
phạt khác nặng hơn;
h. “Tội phạm xuyên quốc gia” là một hành vi phạm
tội có tính chất xuyên quốc gia. Một hành vi phạm tội có tính chất xuyên quốc
gia nếu:
(i)
hành vi đó được thực hiện ở nhiều quốc gia;
(ii)
hành vi đó được thực hiện ở một quốc gia nhưng phần chủ yếu của việc chuẩn bị,
lên kế hoạch, chỉ đạo hoặc điều khiển nó lại diễn ra ở một quốc gia khác;
(iii)
hành vi đó được thực hiện ở một quốc gia nhưng liên quan đến một nhóm tội phạm
có tổ chức tham gia các hoạt động phạm tội ở nhiều quốc gia; hoặc
(iv)
hành vi đó được thực hiện ở một quốc gia nhưng có ảnh hưởng lớn ở một quốc gia
khác.
i. “Công chức” có nghĩa là:
(i) bất kỳ người nào giữ chức vụ về lập pháp,
hành pháp, hành chính hoặc tư pháp của một Bên do được bầu hay bổ nhiệm, làm
việc không thời hạn hoặc có thời hạn, được trả lương hay không được trả lương,
bất kể cấp bậc của người đó;
(ii) bất kỳ người nào thực hiện chức năng nhà
nước, kể cả cho cơ quan hay doanh nghiệp nhà nước, hoặc cung cấp một dịch vụ
công, theo quy định trong pháp luật quốc gia của một Bên và được áp dụng trong
lĩnh vực pháp luật liên quan của Bên đó;
(iii) bất kỳ người nào được định nghĩa là “công
chức” trong pháp luật quốc gia của Bên đó.
j) "Tài sản" là mọi loại của cải, dù
là vật chất hay phi vật chất, động sản hay bất động sản, hữu hình hay vô hình
và các văn bản hay văn kiện pháp lý là bằng chứng cho quyền sở hữu hoặc lợi ích
đối với những của cải đó;
k) "Tài sản do phạm tội mà có" là bất
cứ tài sản nào bắt nguồn hay có được một cách trực tiếp hay gián tiếp từ việc
phạm tội;
l) "Phong toả" hoặc "tạm
giữ" là việc tạm thời cấm chuyển giao, chuyển đổi, chuyển nhượng hay
chuyển dịch tài sản hoặc việc tạm thời giám sát hay kiểm soát tài sản theo lệnh
của toà án hay một cơ quan có thẩm quyền khác;
m) "Tịch thu", bao gồm cả việc tước
đoạt, là việc tước bỏ vĩnh viễn quyền sở hữu tài sản theo lệnh của toà án hoặc
cơ quan có thẩm quyền khác;
n) "Hành vi phạm tội nguồn" là bất kỳ
một hành vi phạm tội nào dẫn đến việc làm phát sinh những tài sản có thể trở
thành đối tượng của hành vi phạm tội được quy định trong Điều 7 của Công ước
này.
Điều 3: Phạm vi áp dụng
Công ước này được áp dụng để phòng ngừa, điều
tra và truy tố các tội phạm được quy định tại Điều 5 của Công ước, khi các hành
vi phạm tội có tính chất xuyên quốc gia và liên quan đến những nhóm tội phạm có
tổ chức cũng như cho việc bảo vệ và hỗ trợ các nạn nhân bị buôn bán.
Điều 4 : Bảo vệ chủ quyền
1.
Các bên thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định của Công ước này phù hợp
với những nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia
và nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
2.
Không quy định nào trong Công ước này cho phép một Bên được tiến hành trên lãnh
thổ của một Bên khác các hoạt động thực thi quyền tài phán và thi hành các chức
năng chỉ dành riêng cho những cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó theo pháp
luật trong nước của họ.
Chương II - Hình sự hóa
Điều 5: Hình sự hóa hành vi buôn bán người
1. Mỗi Bên sẽ áp dụng những biện pháp lập pháp
và các biện pháp khác khi cần thiết để quy định những hành vi nêu tại Điều 2
của Công ước này là tội phạm theo pháp luật của Bên đó khi những hành vi này
được thực hiện có chủ ý.
2. Mỗi Bên cũng sẽ thông qua biện pháp lập pháp
và các biện pháp khác khi cần thiết để quy định là tội phạm:
a. Hành vi phạm tội chưa đạt được quy định theo
Khoản 1 của Điều này, phù hợp với các khái niệm cơ bản của hệ thống pháp luật
của mình;
b. Tham gia với vai trò là đồng phạm trong việc
thực hiện tội phạm được quy định tại Khoản 1 của Điều này;
c. Tổ chức hoặc chỉ đạo người khác thực hiện một
tội phạm được quy định theo Khoản 1 của Điều này.
3. Mỗi Bên sẽ áp dụng các biện pháp lập pháp và
các biện pháp khác khi thích hợp để những người có hành vi phạm tội phải chịu
mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với trường hợp phạm tội thông thường nếu có
một trong các tình tiết tăng nặng sau:
a. Khi tội phạm gây tổn thương nghiêm trọng hoặc
cái chết cho nạn nhân hay người khác, bao gồm trường hợp người đó chết do tự
sát;
b. Khi tội phạm liên quan đến nạn nhân là người
đặc biệt dễ bị tổn thương như trẻ em hoặc người không có đủ khả năng tự chăm
sóc hoặc bảo vệ bản thân vì khuyết tật hoặc điều kiện về thể chất hoặc tâm
thần;
c. Tội phạm làm cho nạn nhân nhiễm các bệnh nguy
hiểm đến tính mạng, kể cả bệnh HIV/AIDS;
d. Phạm tội với nhiều nạn nhân;
e. Khi tội phạm được thực hiện là một phần hoạt
động của nhóm tội phạm có tổ chức;
f. Khi người phạm tội đã từng bị kết án về cùng
tội danh hoặc tội phạm tương tự;
g. Khi người phạm tội là công chức lạm dụng chức
vụ hoặc quyền hạn để phạm tội.
Điều 6: Hình sự hóa việc tham gia vào một nhóm tội phạm có tổ chức
1. Mỗi Bên sẽ, liên quan đến các tội phạm thuộc
phạm vi điều chỉnh của Công ước này theo quy định tại Điều 3, ban hành pháp
luật và các biện pháp khác khi cần thiết để coi các hành vi sau là tội phạm khi
hành vi buôn bán người được thực hiện một cách cố ý:
a) Một hoặc cả hai hành vi dưới đây mà không
phải là những hành vi phạm tội chưa đạt hoặc phạm tội hoàn thành:
(i) Thỏa thuận với một hoặc nhiều người khác để
thực hiện một tội phạm nghiêm trọng nhằm mục đích liên quan trực tiếp hay gián
tiếp đến việc đạt được lợi ích tài chính hoặc vật chất khác, và liên quan đến
hành vi của thành viên để thực hiện thoả thuận đó hoặc liên quan đến một nhóm
tội phạm có tổ chức, nếu pháp luật trong nước quy định như vậy;
(ii) Hành vi của một người nhận thức được hoặc
mục đích và hành vi phạm tội nói chung của một nhóm tội phạm có tổ chức hoặc ý
định phạm tội của nhóm đó nhưng tham gia tích cực trong:
a. Những hoạt động phạm tội của nhóm tội phạm có
tổ chức đó;
b. Những hoạt động khác của nhóm tội phạm có tổ
chức đó với nhận thức rằng việc tham gia của họ sẽ đóng góp vào việc đạt được
mục đích phạm tội nói trên;
b) Việc tổ chức, chỉ đạo, hỗ trợ, khuyến khích,
tạo điều kiện hoặc xúi giục việc thực hiện tội phạm nghiêm trọng liên quan đến
nhóm tội phạm có tổ chức.
2. Sự nhận thức, ý định, mục đích, mục tiêu hoặc
thoả thuận được đề cập tại khoản 1 của Điều này có thể được suy ra từ hoàn cảnh
khách quan cụ thể.
Điều 7: Hình sự hóa hành vi hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có
Phù hợp với những nguyên tắc cơ bản trong pháp
luật trong nước của mình, mỗi Bên sẽ ban hành pháp luật hoặc những biện pháp
cần thiết khác để coi các hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước này
theo quy định tại Điều 3, là tội phạm khi được thực hiện một cách cố ý:
a. (i) Chuyển đổi hay chuyển giao tài sản, dù
biết rằng những tài sản này do phạm tội mà có, nhằm che đậy hoặc che dấu nguồn
gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc nhằm giúp đỡ bất cứ người nào liên quan đến
việc thực hiện một hành vi phạm tội nguồn lẩn tránh những hậu quả pháp lý do
hành vi của người đó gây ra;
(ii) Che đậy hoặc che dấu bản chất thực sự,
nguồn gốc, địa điểm, việc chuyển nhượng, chuyển dịch hoặc quyền sở hữu hay
những quyền đối với tài sản, dù biết rằng tài sản này do phạm tội mà có;
b. Tuỳ theo những khái niệm cơ bản của hệ thống
pháp lý của quốc gia:
(i) Giành được, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, dù
tại thời điểm nhận được tài sản, biết rằng đó là tài sản do phạm tội mà có;
(ii) Tham gia, liên kết hay thông đồng thực
hiện, chuẩn bị thực thực hiện và hỗ trợ, xúi giục, tạo điều kiện và hướng dẫn
thực hiện bất kỳ một hành vi phạm tội nào theo quy định của Điều này.
Điều 8: Hình sự hóa hành vi tham nhũng
1.
Mỗi Bên sẽ ban hành pháp luật và các biện pháp cần thiết khác để quy định các
hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước này như được quy định tại Điều 3,
là tội phạm khi được thực hiện một cách cố ý:
a.
Hứa hẹn, đề nghị hay mang đến một cách trực tiếp hay gián tiếp cho công chức
một lợi ích không chính đáng dành cho người đó hay người hoặc thực thể khác để
công chức đó hành động hoặc không hành động trong khi thực hiện các nhiệm vụ
chính thức của mình;
b.
Gợi ý hoặc chấp nhận một cách trực tiếp hay gián tiếp của công chức nhà nước
đối với một lợi ích không chính đáng dành cho người đó hay người hoặc thực thể
khác để công chức đó hành động hoặc không hành động trong khi thực hiện các
nhiệm vụ chính thức của mình.
2.
Mỗi Bên sẽ xem xét việc quy định trách nhiệm hình sự đối với những hình thức
tham nhũng khác.
3.
Mỗi Bên cũng sẽ ban hành những biện pháp cần thiết nêu trên để quy định sự tham
gia với tư cách là đồng phạm trong việc thực hiện một hành vi phạm tội được quy
định tại Điều này là tội phạm.
Điều 9: Hình sự hóa hành vi cản trở hoạt động tư pháp
Mỗi
Bên sẽ ban hành pháp luật hay các biện pháp cần thiết khác để quy định là tội
phạm đối với các hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước này theo quy
định tại Điều 3 được thực hiện cố ý:
a.
Việc sử dụng vũ lực, đe doạ hoặc hăm doạ hoặc hứa hẹn, đề nghị hoặc cung cấp
một mối lợi không chính đáng để người bị thẩm vấn khai sai sự thật hoặc để can
thiệp vào việc đưa ra lời khai hay đưa ra chứng cứ trong một vụ án liên quan
đến các hành vi phạm tội được điều chỉnh bởi Công ước này;
b.
Việc sử dụng vũ lực, đe doạ hoặc hăm doạ sử dụng vũ lực nhằm can thiệp vào việc
thực hiện các nhiệm vụ chính thức của một nhân viên tư pháp hoặc nhân viên thực
thi pháp luật liên quan đến các hành vi phạm tội được điều chỉnh bởi Công ước
này. Không một quy định nào trong đoạn này làm phương hại tới quyền của các bên
ban hành các quy định pháp luật để bảo vệ các loại công chức khác.
Điều 10: Quyền tài phán
1.
Mỗi Bên sẽ thông qua các những biện pháp cần thiết để thiết lập quyền tài phán
của mình đối với những hành vi phạm tội quy định theo Điều 5, Điều 6, Điều 7,
Điều 8 và Điều 9 của Công ước này khi:
a.
Hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ của Bên đó; hoặc
b.
Hành vi phạm tội được thực hiện trên boong tàu mang cờ của Bên đó hoặc trên máy
bay đăng ký theo luật của Bên đó vào thời điểm xảy ra hành vi phạm tội.
2.
Theo quy định tại Điều 4 Công ước này, một Bên cũng sẽ thiết lập quyền tài phán
của mình đối với bất kỳ hành vi phạm tội nào khi:
a.
Hành vi phạm tội được thực hiện nhằm chống lại một công dân của Bên đó;
b.
Hành vi phạm tội được thực hiện bởi một công dân của Bên đó hay một người không
quốc tịch thường trú trên lãnh thổ của Bên đó; hoặc
c.
Hành vi phạm tội là:
(i)
Một trong những hành vi được quy định tại Khoản 1 Điều 6 của Công ước này và
được thực hiện bên ngoài lãnh thổ của Bên đó nhằm thực hiện một tội phạm nghiêm
trọng trong lãnh thổ của Bên đó;
(ii)
Một trong những hành vi được quy định tại Điểm (b) (ii) Điều 7 Công ước này và
được thực hiện bên ngoài lãnh thổ của quốc gia đó nhằm thực hiện một hành vi
phạm tội theo quy định tại Điểm (a) (i) hoặc (ii) hay điểm (b) (i) Điều 7 Công
ước này trong lãnh thổ của Bên đó.
3.
Vì mục đích của Điều 19 của Công ước này, mỗi Bên sẽ thông qua những biện pháp
cần thiết để thiết lập quyền tài phán của mình đối với những hành vi phạm tội
được Công ước này điều chỉnh khi người bị tình nghi là tội phạm có mặt trên
lãnh thổ của Bên đó và Bên đó không dẫn độ người này với lý do họ là công dân
của Bên đó.
4.
Mỗi Bên cũng sẽ thông qua những biện pháp cần thiết để thiết lập quyền tài phán
của mình đối với những hành vi phạm tội được Công ước này điều chỉnh khi người
bị tình nghi là tội phạm có mặt trên lãnh thổ của Bên đó và Bên đó không dẫn độ
người này.
5.
Nếu một Bên thực hiện quyền tài phán của mình theo Khoản 1 hoặc 2 của Điều này
đã được thông báo hoặc bằng một cách khác biết được rằng một hay nhiều Bên khác
đang tiến hành việc điều tra, truy tố hay xét xử đối với cùng hành vi đó, các
cơ quan có thẩm quyền của những Bên này sẽ, khi thích hợp, tham khảo với nhau
để phối hợp hoạt động.
6.
Không làm phương hại đến các chuẩn mực của luật pháp quốc tế chung, Công ước
này không loại bỏ việc thực hiện quyền tài phán hình sự của một Bên thành viên
phù hợp với pháp luật trong nước của Bên đó.
Chương III - Phòng ngừa
Điều 11: Phòng ngừa buôn bán người
1. Các Bên sẽ đề ra các chính sách tổng thể,
chương trình và các biện pháp khác để:
a. Ngăn ngừa và chống việc buôn bán người; và
b. Bảo vệ các nạn nhân của việc buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, không bị trở thành nạn nhân của việc buôn bán
người một lần nữa.
2. Các Bên sẽ nỗ lực thực thi các biện pháp như
nghiên cứu, thông tin và chiến dịch tuyên truyền và các sáng kiến kinh tế và xã
hội để ngăn ngừa và chống hành vi buôn bán người.
3. Các chính sách, chương trình và các biện pháp
khác được đề ra theo Điều này, khi thích hợp, sẽ bao gồm việc hợp tác với các
tổ chức phi chính phủ, các tổ chức liên quan khác và các nhân tố khác của xã
hội dân sự.
4. Các Bên sẽ thực hiện và tăng cường các biện
pháp, trong đó có thể bao gồm cả hợp tác song phương hoặc đa phương, để xoá bỏ
các nhân tố làm cho những người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, trở nên dễ bị
tổn thương bởi việc buôn bán, chẳng hạn như nghèo đói, kém phát triển và không
được hưởng cơ hội bình đẳng.
5. Các Bên sẽ áp dụng hay tăng cường các biện
pháp lập pháp hay các biện pháp khác, chẳng hạn như các biện pháp giáo dục, xã
hội hay văn hoá, trong đó có thể bao gồm cả hợp tác song phương và đa phương để
giảm bớt những nhu cầu dẫn đến việc thúc đẩy các hình thức bóc lột con người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, dẫn đến việc buôn bán người.
Điều 12: Lĩnh vực hợp tác
Lĩnh vực hợp tác về phòng chống buôn bán người
theo Công ước này, phù hợp với nội luật của các Bên liên quan, có thể bao gồm
các biện pháp phù hợp, cùng với các quy định khác, trong đó:
a. Giảm thiểu nhu cầu dẫn đến việc thúc đẩy các
hình thức bóc lột con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, dẫn đến việc buôn
bán người;
b. Áp dụng hoặc tăng cường các biện
pháp, khi phù hợp, như việc thông qua hợp tác song phương, đa phương hoặc hợp
tác khu vực để phòng ngừa và chống buôn bán người bằng cách giảm các yếu tố làm
cho mọi người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em dễ bị mua bán, như đói nghèo, kém
phát triển, thiếu giáo dục và cơ hội bình đẳng;
c. Tăng cường các chính sách và chương trình để
phòng ngừa buôn bán người thông qua nghiên cứu, thông tin, tăng cường nhận thức
và các chiến dịch giáo dục, các sáng kiến kinh tế và xã hội và các chương trình
đào tạo, đặc biệt là cho những người dễ bị buôn bán;
d. Tăng cường hơn nữa hợp tác khu vực trong điều
tra và truy tố các vụ án buôn bán người;
e. Để tạo điều kiện cho quyền tự do di chuyển
được thực hiện hợp pháp và để đảm bảo rằng các yêu cầu nhập cảnh được tuân thủ
thông qua việc phổ biến các thông tin chính xác về điều kiện cho phép nhập
cảnh, xuất cảnh và ở lại hợp pháp trên lãnh thổ có liên quan;
f. Trao đổi và chia sẻ thông tin về các biện
pháp để giảm thiểu tổn thương cho trẻ em bị mua bán, để họ được lớn lên và sinh
sống trong một môi trường an toàn;
g. Tăng cường xây dựng năng lực, bao gồm hợp tác
đào tạo, kỹ thuật và tổ chức các hội nghị điều phối khu vực;
h. Đảm bảo rằng bất kỳ người phạm tội hoặc hỗ
trợ tội phạm buôn bán người sẽ bị xét xử.
Điều 13: Hợp tác, kiểm soát xuyên biên giới và hiệu lực của các giấy tờ
1. Các bên sẽ nỗ lực để thực hiện việc hợp tác
xuyên biên giới một cách phù hợp giữa các cơ quan kiểm soát biên giới nhằm
phòng ngừa và phát hiện tội phạm buôn bán người, cùng với những phương thức
khác:
a. Thiết lập và duy trì các kênh liên lạc trực
tiếp;
b. Tăng cường trao đổi thông tin nghiệp vụ và
chia sẻ thông tin bao gồm thông qua việc thiết lập, xây dựng hoặc sử dụng các
cơ sở dữ liệu phù hợp;
2. Các bên sẽ ngăn chặn sự di chuyển của những
người có hành vi buôn bán và các nạn nhân bị buôn bán bằng việc kiểm soát hiệu
quả biên giới và kiểm soát việc cấp giấy tờ căn cước và thông hành, thông qua
các biện pháp hiệu quả để phòng ngừa việc giả mạo, làm giả hoặc sử dụng gian
dối các giấy tờ căn cước và thông hành.
Chương IV - Bảo vệ
Điều 14: Bảo vệ nạn nhân bị buôn bán
1. Mỗi Bên sẽ ban hành hướng dẫn hoặc thủ tục
quốc gia để xác định đúng nạn nhân của hành vi buôn bán người và khi thích hợp,
có thể phối hợp với các tổ chức ngoài công lập hỗ trợ nạn nhân có liên quan.
2. Trường hợp việc buôn bán người xảy ra ở hai
hay nhiều Bên, mỗi Bên phải tôn trọng và công nhận việc xác định nạn nhân của
hành vi buôn bán người do các cơ quan có thẩm quyền của Bên nhận tiến hành;
3. Trừ khi nạn nhân có thông báo khác, việc xác
định nạn nhân phải được Bên nhận thông báo cho Bên gốc mà không chậm trễ bất
hợp lý.
4. Mỗi Bên sẽ xem xét thông qua các biện pháp
lập pháp hoặc các biện pháp thích hợp khác cho phép nạn nhân bị buôn bán được ở
lại trong lãnh thổ của mình, tạm thời hoặc vĩnh viễn, tùy từng trường hợp cụ
thể. Mỗi Bên sẽ có sự cân nhắc thích đáng với các nhân tố nhân đạo và trắc ẩn.
5. Mỗi Bên phải đảm bảo an toàn thân thể cho các
nạn nhân bị buôn bán khi họ ở trong lãnh thổ của Bên đó.
6. Trong các trường hợp thích hợp và trong phạm
vi được luật pháp nước mình cho phép, mỗi Bên có trách nhiệm bảo vệ sự riêng tư
và nhân dạng của nạn nhân bị buôn bán, cùng với các quy định khác, bao gồm quy
định bảo mật với các thủ tục pháp lý liên quan đến vụ việc buôn bán người.
7. Mỗi Bên, phù hợp với quy định, quy chế, pháp
luật và chính sách của quốc gia, trong từng trường hợp cụ thể, cân nhắc không
áp dụng hình phạt hoặc trách nhiệm hành chính đối với nạn nhân bị buôn bán vì
hành vi trái pháp luật của người này nếu những hành vi trái pháp luật đó là hệ
quả trực tiếp của hành vi buôn bán người.
8. Mỗi Bên sẽ không giam giữ những người được cơ
quan có thẩm quyền trong nước mình xác định là nạn nhân bị buôn bán, tại các
trung tâm giam giữ, trại giam vào bất kỳ thời điểm nào trước, trong hoặc sau khi
hoàn tất các thủ tục pháp lý hành chính, dân sự, hình sự để xử lý vụ việc buôn
bán người.
9. Mỗi Bên sẽ thông tin cho các nạn nhân bị buôn
bán đã được xác định trong thời gian phù hợp, các thông tin về bản chất của sự
bảo vệ, hỗ trợ và giúp đỡ mà họ được hưởng theo pháp luật quốc gia, và theo
Công ước này;
10. Mỗi Bên phải, khi phù hợp, chăm sóc và hỗ
trợ cho nạn nhân bị buôn bán trong các tình huống thích hợp, hợp tác với các tổ
chức ngoài công lập có liên quan hoặc các tổ chức, các nhân tố khác của xã hội,
bao gồm:
a. Chỗ lưu trú phù hợp;
b. Tư vấn và thông tin, đặc biệt là liên quan
đến quyền hợp pháp của nạn nhân, bằng ngôn ngữ mà nạn nhân bị buôn bán có thể
hiểu;
c. Hỗ trợ y tế, tâm lý và vật chất; và
d. Các cơ hội có việc làm, giáo dục và đào tạo.
11. Mỗi quốc gia nỗ lực tốt nhất để hỗ trợ cho
nạn nhân bị buôn bán trong việc tái hòa nhập xã hội nơi quốc gia mà nạn nhân đã
rời đi.
12. Mỗi Bên, khi áp dụng các quy định của Điều
này, phải tính đến tuổi, giới tính và nhu cầu đặc biệt của nạn nhân bị buôn bán,
nhất là nhu cầu đặc biệt của trẻ em.
13. Mỗi Bên phải đảm bảo rằng hệ thống pháp luật
trong nước có các biện pháp cho phép nạn nhân bị buôn bán có khả năng được bồi
thường vì các thiệt hại phải gánh chịu.
14. Mỗi Bên sẽ quy định về việc phân phối
phù hợp các quỹ, bao gồm cả việc thành lập quỹ tín thác quốc gia để phục vụ
việc chăm sóc và hỗ trợ cho nạn nhân bị buôn bán.
Điều 15: Hồi hương và nhận trở lại nạn nhân
1. Bên mà một nạn nhân của việc buôn bán người
là công dân hay tại đó người này có quyền của một người cư trú vĩnh viễn vào
thời điểm vào lãnh thổ của Bên nhận sẽ tạo điều kiện và chấp nhận việc trở lại
của người đó không bị cản trở thái quá hoặc bất hợp lý nào, có cân nhắc đầy đủ
đến sự an toàn của người đó.
2. Khi một Bên trả nạn nhân cho một Bên khác
theo Khoản 1 của Điều này, việc trao trả phải quan tâm thích đáng tới an toàn
của người đó và vị thế trong bất kỳ thủ tục pháp lý liên quan đến thực tế người
này là nạn nhân của việc buôn bán người.
3. Phù hợp với Khoản 1 và Khoản 2 Điều này, theo
yêu cầu của Bên nhận, Bên được yêu cầu phải kiểm tra một cách nhanh chóng và
không trì hoãn bất hợp lý, người đó có phải là công dân của mình không hoặc có
quyền thường trú trong lãnh thổ của mình tại thời điểm nhập cảnh vào lãnh thổ
của Bên nhận.
4. Để tạo điều kiện cho việc nhận trở lại của
một nạn nhân của việc buôn bán người không có giấy tờ đầy đủ, Bên mà người đó
là công dân hoặc có quyền thường trú tại thời điểm nhập cảnh vào lãnh thổ của
Bên nhận, theo yêu cầu của Bên nhận, sẽ đồng ý cấp giấy tờ thông hành hoặc giấy
phép khác có thể cần thiết để cho phép người đó đi lại và nhập cảnh lại lãnh
thổ của Bên đó.
5. Mỗi Bên sẽ quy định các biện pháp lập pháp
hoặc các biện pháp cần thiết khác để thiết lập chương trình hồi hương, khi
thích hợp và trong trường hợp cần thiết, có sự tham của của các cơ quan quốc
gia và quốc tế và các tổ chức phi chính phủ có liên quan.
6. Điều này sẽ không ảnh hưởng đến bất kỳ quyền
nào dành cho nạn nhân bị buôn bán theo luật pháp quốc gia của Bên nhận.
7. Điều này sẽ không ảnh hưởng đến bất cứ quy
định nào của hiệp định song phương hoặc đa phương hoặc các thỏa thuận về nhập
cư có quy định về quyền và quyền ưu tiên thuận lợi hơn cho các nạn nhân bị buôn
bán.
Chương V - Thực thi pháp luật
Điều 16: Thực thi pháp luật và truy tố
1. Mỗi Bên sẽ thông qua các biện pháp cần thiết
để bảo đảm người có thẩm quyền xử lý vụ án phạm tội buôn bán người được trang
bị kỹ năng hoặc kiến thức phù hợp trong việc chống buôn bán người và bảo vệ nạn
nhân, khi phù hợp, xác định đơn vị hoặc người có thẩm quyền chuyên trách thực
hiện nhiệm vụ này.
2. Mỗi Bên phải chủ động tiến hành các thủ tục
hữu hiệu để phát hiện, ngăn chặn và trừng phạt hành vi tham nhũng, rửa tiền,
tham gia vào nhóm phạm tội có tổ chức và cản trở hoạt động tư pháp có liên quan
đến buôn bán người.
3. Mỗi Bên phải bảo đảm hệ thống pháp luật trong
nước hữu hiệu để giải quyết các vụ án buôn bán người.
4. Mỗi Bên thông qua các biện pháp cần thiết để
bảo đảm sự phối hợp giữa chính sách và hoạt động của các cơ quan thuộc chính
phủ và các cơ quan thực hiện chức năng nhà nước trong việc chống buôn bán
người, khi phù hợp, thông qua việc thành lập cơ quan điều phối để chống tội
phạm có tổ chức đối với hành vi buôn bán người, rửa tiền và cản trở hoạt động
tư pháp.
5. Mỗi Bên, phù hợp với luật pháp trong nước của
Bên gốc và Bên tiếp nhận, thông qua hợp tác ngoài tư pháp hoặc tương trợ tư
pháp khi phù hợp, khuyến khích nạn nhân bị buôn bán tự nguyện nhập cảnh và lưu
trú tạm thời trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận vì mục đích cung cấp lời khai
hoặc hoạt động hợp tác khác trong truy tố đối tượng có hành vi phạm tội, có cân
nhắc đầy đủ sự an toàn của nạn nhân.
6. Mỗi Bên phải cung cấp hoặc tăng cường tập
huấn cho cán bộ có liên quan trong việc phòng ngừa và chống buôn bán người, tập
trung vào các phương pháp được sử dụng trong phòng ngừa buôn bán người, điều
tra và truy tố người phạm tội buôn bán người và bảo vệ quyền của nạn nhân, có
thể bao gồm bảo vệ nạn nhân khỏi đối tượng có hành vi buôn bán người và bí mật
đời tư của nạn nhân bị buôn bán.
7. Mỗi Bên phải tiến hành mọi thủ tục cần thiết
bảo đảm tính liêm chính của các thủ tục tư pháp hình sự trong đó có bảo vệ nạn
nhân và người làm chứng khỏi sự hăm dọa hoặc sách nhiễu, khi phù hợp, trừng
phạt người thực hiện những hành vi này trong các vụ việc cần thiết.
8. Mỗi Bên, nếu thích hợp, sẽ quy định
trong nội luật một khung thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự dài để truy cứu
trách nhiệm hình sự bất cứ hành vi phạm tội nào được Công ước này điều chỉnh và
một thời hạn dài hơn nếu người bị tình nghi phạm tội lẩn tránh việc thực thi
công lý.
9. Không có quy định nào trong Công ước này ảnh
hưởng đến nguyên tắc pháp luật trong nước của các Bên quy định các hành vi phạm
tội theo Công ước này và việc bào chữa theo pháp luật hiện hành và các nguyên
tắc pháp lý khác xác định tính hợp pháp của hành vi và những hành vi phạm tội
như vậy sẽ bị truy tố và trừng trị theo luật đó.
Điều 17: Tịch thu và tạm giữ
1.
Mỗi Bên sẽ áp dụng hết mức có thể trong phạm vi hệ thống pháp luật trong nước
những biện pháp cần thiết để cho phép tịch thu:
a.
Tài sản do phạm tội mà có bắt nguồn từ những hành vi phạm tội được Công ước này
điều chỉnh hay những tài sản có giá trị tương đương với giá trị của tài sản do
phạm tội mà có;
b.
Tài sản, trang thiết bị và các công cụ khác được sử dụng hay được dự định sử
dụng khi thực hiện hành vi phạm tội được Công ước này điều chỉnh.
2.
Mỗi Bên sẽ thông qua những biện pháp cần thiết để cho phép xác định, truy
nguyên, phong toả hay tạm giữ bất kỳ mục nào được đề cập đến tại Khoản 1 của
Điều này nhằm thực hiện được việc tịch thu.
3.
Nếu những tài sản do phạm tội mà có được biến đổi hoặc chuyển đổi, một phần hay
toàn bộ, thành một tài sản khác thì tài sản này sẽ phải chịu những biện pháp
được đề cập đến trong Điều này thay cho những tài sản do phạm tội mà có.
4.
Nếu những tài sản do phạm tội mà có đã được gộp với những tài sản có nguồn gốc
hợp pháp thì những tài sản này, không cản trở đến bất cứ quyền phong tỏa hay
tạm giữ nào, sẽ bị tịch thu theo giá trị tương đương số tài sản đã được gộp
trước đó.
5.
Thu nhập hay lợi nhuận khác thu được từ tài sản do phạm tội mà có, từ những tài
sản do vật hoặc tiền do phạm tội mà có biến đổi hay chuyển đổi thành hay từ tài
sản mà vật hoặc tiền do phạm tội mà có được gộp vào, cũng sẽ phải chịu những
biện pháp được đề cập trong Điều này theo cùng phương thức và mức độ áp dụng
đối với tài sản do phạm tội mà có.
6.
Vì mục đích của Điều này và Điều 21 của Công ước này, mỗi Bên sẽ trao cho các
toà án của mình hay các cơ quan có thẩm quyền khác quyền lực để ra lệnh nộp hay
thu giữ các tài liệu về ngân hàng, tài chính, thương mại. Mỗi Bên sẽ không
không từ chối thực hiện các quy định của khoản này vì lý do đảm bảo bí mật ngân
hàng.
7.
Mỗi Bên có thể xem xét khả năng yêu cầu bị cáo chứng minh nguồn gốc hợp pháp
của tài sản bị nghi là do phạm tội mà có hoặc những tài sản sẽ bị tịch thu
khác, trong chừng mực phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật trong nước và
với tính chất của các trình tự xét xử và thủ tục tố tụng khác.
8.
Các quy định của Điều này sẽ không được giải thích làm phương hại đến quyền của
bên thứ ba ngay tình.
9.
Không quy định nào trong Điều này ảnh hưởng đến nguyên tắc việc xác định và áp
dụng các biện pháp quy định tại Điều này phải phù hợp và tuân theo các quy định
pháp luật trong nước của một Bên.
Chương VI - Hợp tác quốc tế
Điều 18: Tương trợ tư pháp về hình sự
1. Để chống tội phạm buôn bán người có tính chất
xuyên quốc gia, các Bên sẽ, phù hợp với pháp luật quốc gia của mình, tiến hành
các biện pháp tương trợ với mức độ tối đa trong việc điều tra hoặc thực hiện
các thủ tục tố tụng hình sự đối với các tội phạm được quy định trong Điều 5 của
Công ước này.
2. Các Bên sẽ, thực hiện nghĩa vụ của mình theo
quy định tại Khoản 1 của Điều này phù hợp với Hiệp định tương trợ tư pháp về
hình sự giữa các quốc gia thành viên ASEAN.
Điều 19: Dẫn độ
1.
Mỗi hành vi phạm tội được quy định tại Điều 5 của Công ước này cũng sẽ được coi
là hành vi phạm tội có thể bị dẫn độ trong bất cứ điều ước dẫn độ tội phạm nào
đã có giữa các Bên. Các Bên phải quy định những hành vi phạm tội này là những
hành vi phạm tội có thể dẫn độ được trong mọi điều ước quốc tế về dẫn độ sẽ
được ký kết giữa họ.
2.
Nếu một Bên dẫn độ theo điều ước nhận được yêu cầu dẫn độ từ một Bên khác mà
giữa họ chưa có điều ước về dẫn độ nào, thì Bên này có thể coi Công ước này như
là cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ đối với bất cứ hành vi phạm tội nào được quy
định tại Điều 5 của Công ước này áp dụng.
3.
Nếu Bên được yêu cầu nhận thấy hoàn cảnh đòi hỏi và cấp thiết thì, theo đề nghị
Bên yêu cầu và phù hợp với các quy định pháp luật trong nước cũng như các điều
ước về dẫn độ của mình, có thể bắt giữ người cần được dẫn độ mà hiện đang có
mặt trên lãnh thổ quốc gia mình hoặc tiến hành những biện pháp thích hợp khác
để đảm bảo sự có mặt của người đó khi tiến hành thủ tục dẫn độ.
4.
Trường hợp phát hiện người bị tình nghi phạm tội đang có mặt ở lãnh thổ của một
Bên, nếu Bên này không dẫn độ người đó do phạm tội quy định tại Điều 5 của Công
ước này chỉ vì lý do người này là công dân của mình thì khi nhận được đề nghị
của Bên yêu cầu, sẽ phải chuyển ngay vụ việc này cho các cơ quan có thẩm quyền
truy tố. Cơ quan có thẩm quyền đó sẽ đưa ra quyết định của họ và tiến hành tố
tụng theo một trình tự thủ tục giống như đối với những hành vi phạm tội khác có
cùng mức độ nghiêm trọng phù hợp với pháp luật trong nước của Bên đó. Các Bên
hữu quan sẽ hợp tác với nhau trong quá trình tố tụng và về chứng cứ, để đảm bảo
tính hiệu quả của việc truy tố.
5. Vì mục đích của Điều này, mỗi Bên sẽ chỉ định
một cơ quan trung ương và thông báo cho cơ quan lưu chiểu của Công ước này.
Điều 20: Hợp tác thi hành pháp luật
1.
Phù hợp với hệ thống pháp luật và hành chính của nước mình, các Bên sẽ hợp tác
một cách chặt chẽ với Bên khác để tăng cường hiệu quả của hoạt động thi hành
pháp luật nhằm đấu tranh chống các hành vi phạm tội được Công ước này điều
chỉnh. Đặc biệt, mỗi Bên sẽ áp dụng các biện pháp hiệu quả để:
a.
Tăng cường và nếu cần thiết, thiết lập và sử dụng các kênh thông tin sẵn có
giữa các cơ quan, tổ chức và ngành có thẩm quyền của nước mình nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc trao đổi nhanh chóng và an toàn các thông tin liên quan
tới mọi khía cạnh của các hành vi phạm tội được Công ước này điều chỉnh, bao
gồm các mối liên hệ với những hoạt động phạm tội khác, nếu các Bên thấy thích
hợp;
b.
Hợp tác với các Bên khác trong việc thực hiện điều tra các hành vi phạm tội
được Công ước này điều chỉnh liên quan đến:
(i)
Nhận dạng, chỗ ở và các hoạt động của những người bị tình nghi có liên quan các
hành vi phạm tội nói trên hoặc chỗ ở của những người khác liên quan;
(ii)
Việc chuyển dịch tài sản do phạm tội mà có hoặc tài sản có nguồn gốc từ việc
thực hiện các hành vi phạm tội nói trên;
(iii)
Việc chuyển dịch tài sản, thiết bị hay các phương tiện khác được sử dụng hoặc
dự định được sử dụng để thực hiện các hành vi phạm tội nói trên;
c.
Cung cấp, nếu thích hợp, các thiết bị hoặc các đồ dùng cần thiết cho các mục
đích phân tích hoặc điều tra;
d.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác có hiệu quả giữa các cơ quan có thẩm
quyền, các tổ chức và dịch vụ của nước mình và tăng cường trao đổi nhân sự và
các chuyên gia khác, bao gồm việc bố trí các sĩ quan liên lạc, theo các hiệp
định hoặc thoả thuận song phương giữa các Bên liên quan;
e.
Trao đổi thông tin với các Bên khác về các biện pháp và phương thức cụ thể được
các đối tượng phạm tội sử dụng, bao gồm lộ trình, phương tiện vận chuyển và
việc sử dụng các thẻ căn cước giả, các tài liệu bị thay đổi hoặc làm giả hoặc
các phương thức khác để che dấu các hoạt động phạm tội đó, nếu có thể.
f.
Trao đổi thông tin và phối hợp các biện pháp hành chính và các biện pháp khác
phù hợp để xác định các tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước này.
2.
Nhằm đem lại hiệu quả cho Công ước này, các Bên thành viên sẽ xem xét ký kết
các hiệp định hoặc thoả thuận song phương về hợp tác trực tiếp giữa các cơ quan
thi hành pháp luật của các nước đó và sửa đổi các hiệp định và thoả thuận nói
trên nếu chúng đã được ký kết. Nếu không có các hiệp định hoặc thoả thuận như
vậy giữa các Bên liên quan thì các Bên có thể coi Công ước này là cơ sở cho việc
hợp tác thi hành pháp luật liên quan đến những hành vi phạm tội được Công ước
này điều chỉnh. Bất kỳ khi nào thích hợp, các Bên sẽ tận dụng tối đa các hiệp
định hoặc thoả thuận này, bao gồm cả các tổ chức quốc tế và khu vực, nhằm tăng
cường hợp tác giữa các cơ quan thi hành pháp luật của họ.
3.
Các Bên sẽ nỗ lực hợp tác trong phạm vi khả năng của mình để chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia có sử dụng kỹ thuật hiện đại.
Điều 21: Hợp tác quốc tế trong việc tịch thu tài sản
1.
Một Bên khi nhận được yêu cầu của Bên khác có quyền tài phán đối với một hành
vi phạm tội được Công ước này điều chỉnh về việc tịch thu tài sản do phạm tội
mà có, tài sản, trang thiết bị và các công cụ khác được quy định tại Khoản 1
Điều 17 của Công ước này nằm trên lãnh thổ của nước đó, sẽ cố gắng hết mức có
thể trong phạm vi hệ thống pháp luật trong nước cho phép:
a.
Chuyển yêu cầu này đến các cơ quan có thẩm quyền trong nước để phát lệnh tịch
thu và, nếu lệnh này được ban hành, thực hiện lệnh đó; hoặc
b.
Chuyển lệnh tịch thu của toà án quốc gia yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền để
thực hiện phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 17 của Công ước này nếu lệnh
tịch thu đó liên quan đến tài sản do phạm tội mà có, tài sản, trang thiết bị và
các công cụ khác nêu trong Khoản 1 Điều 17 đang nằm trên lãnh thổ của Bên được
yêu cầu.
2.
Khi thực hiện yêu cầu của một Bên khác có quyền tài phán đối với hành vi phạm
tội được Công ước này điều chỉnh, Bên được yêu cầu sẽ tiến hành các biện pháp
xác định, truy nguyên và niêm phong hay tạm giữ tài sản do phạm tội mà có, tài
sản, trang thiết bị và các công cụ khác được nêu trong Khoản 1 Điều 17 của Công
ước này nhằm thực hiện lệnh tịch thu do Bên yêu cầu hoặc Bên được yêu cầu đưa
ra căn cứ theo lời yêu cầu quy định tại Khoản 1 của Điều này.
3.
Các quy định của Điều 18 của Công ước này được áp dụng cho Điều này với những
sửa đổi cần thiết. Ngoài những thông tin được quy định tại Điều 18, các yêu cầu
được đưa ra theo Điều này phải bao gồm:
a.
Một bản mô tả về tài sản sẽ bị tịch thu và một bản trình bày về các cơ sở làm
căn cứ cho Bên yêu cầu, để Bên được yêu cầu có đủ cơ sở phát lệnh tịch thu theo
quy định pháp luật trong nước của họ, trong trường hợp yêu cầu đó thuộc Khoản 1
(a) Điều này;
b.
Một bản sao lệnh tịch thu được chấp nhận là có giá trị pháp lý mà căn cứ vào đó
Bên yêu cầu, một bản trình bày về các tình tiết và thông tin liên quan đến việc
thực hiện lệnh tịch thu, trong trường hợp yêu cầu đó thuộc Khoản 1 (b) Điều
này;
c.
Một bản trình bày về các cơ sở làm căn cứ cho Bên yêu cầu và một bản trình bày
về các hoạt động cần thực hiện, trong trường hợp yêu cầu thuộc Khoản 2 Điều
này.
4.
Các quyết định hay hoạt động theo quy định tại các khoản 1 và 2 của Điều này sẽ
được Bên được yêu cầu thực hiện, phù hợp và tuân theo các quy định pháp luật
trong nước quốc gia đó và các nguyên tắc về thủ tục của họ hay bất cứ điều ước,
hiệp định, thoả thuận song phương hay đa phương về tương trợ tư pháp mà Bên đó
có thể phải tuân theo trong quan hệ với Bên yêu cầu và Hiệp định tương trợ tư
pháp về hình sự giữa các quốc gia thành viên ASEAN.
5.
Nếu một Bên quyết định tiến hành các biện pháp quy định tại các khoản 1 và 2
của Điều này với điều kiện phải có điều ước quốc tế liên quan điều chỉnh, Bên
đó sẽ coi Công ước này là cơ sở cần và đủ cho điều kiện nói trên.
6.
Các quy định của Điều này sẽ không được giải thích làm phương hại đến quyền của
bên thứ ba ngay tình.
7.
Các Bên sẽ cân nhắc việc ký kết các điều ước, hiệp định hay thoả thuận song
phương và đa phương để tăng cường tính hiệu quả của hợp tác quốc tế được thực
hiện theo quy định của Điều này.
Điều 22: Xử lý tài sản do phạm tội mà có bị tịch thu
hoặc tài sản bị tịch thu
1.
Tài sản do phạm tội mà có hay tài sản mà một Bên tịch thu theo Điều 17 hoặc
Khoản 1 Điều 21 của Công ước này sẽ do Bên đó xử lý phù hợp với pháp luật trong
nước và các thủ tục hành chính của quốc gia này.
2.
Khi thực hiện yêu cầu của một Bên khác theo Điều 21 của Công ước này, các Bên,
trong phạm vi pháp luật trong nước cho phép và nếu được đề nghị, sẽ ưu tiên xem
xét việc trả lại tài sản do phạm tội mà có hay tài sản cho Bên yêu cầu để họ có
thể đền bù và hỗ trợ cho các nạn nhân bị buôn bán hoặc trả lại những tài sản đó
cho chủ sở hữu hợp pháp của nó.
3.
Khi thực hiện yêu cầu của một Bên khác theo quy định tại Điều 17 và Điều 21 của
Công ước này, một Bên có thể chú trọng xem xét ký kết các hiệp định hay thoả
thuận về việc chia sẻ với các Bên khác, trên cơ sở thường xuyên hoặc theo từng
vụ việc, tài sản do phạm tội mà có hay tài sản hoặc tiền của từ việc bán chúng
phù hợp với quy định của pháp luật trong nước và các thủ tục hành chính của
quốc gia đó.
Chương VII - Điều khoản cuối cùng
Điều 23: Thành lập cơ chế phối hợp
Mỗi Bên sẽ cân nhắc thành lập cơ chế phối hợp để
chống tội phạm buôn bán người, trong đó có việc tăng cường hợp tác trong các
lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước này.
Điều 24: Theo dõi, đánh giá và báo cáo
1. Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN về tội phạm
xuyên quốc gia (SOMTC) sẽ chịu trách nhiệm về việc thúc đẩy, theo dõi, đánh giá
và định kỳ báo cáo Hội nghị cấp Bộ trưởng ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia
(AMMTC) về việc thực thi có hiệu quả Công ước này.
2. Ban thư ký ASEAN sẽ cung cấp những hỗ trợ cho
việc giám sát và phối hợp thực hiện Công ước này và hỗ trợ SOMTC trong các vấn
đề có liên quan.
Điều 25: Bảo mật tài liệu, hồ sơ và thông tin
1. Mỗi Bên phải áp dụng biện pháp bảo mật và bảo
đảm bí mật tài liệu, hồ sơ và các thông tin khác nhận được từ bất kỳ Bên nào
khác, kể cả các nguồn thông tin đó.
2. Không một tài liệu, hồ sơ hoặc thông tin khác
có được theo Công ước này được tiết lộ hoặc chia sẻ với bất kỳ Bên nào khác
hoặc Nhà nước hoặc người khác trừ trường hợp được sự chấp thuận trước bằng văn
bản của Bên cung cấp tài liệu, hồ sơ hoặc thông tin đó.
Điều 26: Mối quan hệ với các văn kiện quốc tế khác
Công ước này sẽ không làm tổn hại đến các nghĩa
vụ đang tồn tại giữa các Bên theo quy định của điều ước quốc tế khác và khi các
Bên đồng ý, cũng không ngăn cản các Bên hỗ trợ cho Bên kia theo điều ước quốc
tế khác hoặc quy định của pháp luật trong nước của mình.
Điều 27: Giải quyết bất đồng
Bất cứ sự khác biệt hoặc bất đồng nào phát sinh
từ việc giải thích hoặc áp dụng các quy định của Công ước này sẽ được giải
quyết một cách thân thiện thông qua hội đàm và thương lượng giữa các Bên thông
qua kênh ngoại giao hoặc các biện pháp hòa bình khác nhằm đạt được thỏa thuận
giữa các bên.
Điều 28: Phê chuẩn, phê duyệt và lưu chiểu
1. Công ước này phải được phê chuẩn hoặc phê
duyệt phù hợp với các thủ tục trong nước của các Bên.
2. Các văn kiện phê chuẩn hoặc thông qua sẽ được
nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký ASEAN. Tổng thư ký ASEAN sẽ kịp thời thông báo
cho các Bên về văn kiện lưu chiểu đó.
Điều 29: Hiệu lực và sửa đổi
1. Công ước này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ ba
mươi (30) sau ngày nhận được văn kiện lưu chiểu thứ sáu (06) được gửi tới Tổng
thư ký ASEAN về việc các Bên phê chuẩn, phê duyệt Công ước này.
2. Đối với bất kỳ Bên nào phê chuẩn hoặc phê
duyệt Công ước này sau thời điểm nhận được văn kiện lưu chiểu thứ sáu (06) về
việc phê chuẩn, phê duyệt nhưng trước ngày Công ước này có hiệu lực,
Công ước này cũng áp dụng đối với Bên đó vào ngày Công ước có hiệu lực. Đối với
một Bên phê chuẩn hoặc phê duyệt Công ước này sau khi có hiệu lực theo quy định
tại Khoản 1, Công ước này sẽ có hiệu lực đối với bên đó vào ngày văn kiện phê
chuẩn hoặc phê duyệt được gửi lưu chiểu.
3. Công ước này sẽ có thể được sửa đổi hoặc điều
chỉnh bất cứ lúc nào theo thỏa thuận chung bằng văn bản của các bên. Sự điều
chỉnh hoặc sửa đổi sẽ có hiệu lực vào ngày do các bên thỏa thuận và sẽ là một
phần của Công ước này.
4. Bất kỳ sửa đổi hoặc điều chỉnh nào sẽ không
ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh hoặc dựa trên quy định
của Công ước này trước khi điều chỉnh, sửa đổi đó có hiệu lực.
Điều 30: Rút khỏi Công ước
1. Mỗi Bên có thể rút khỏi Công ước này bất cứ
lúc nào kể sau ngày Công ước này có hiêu lực đối với bên đó.
2. Việc rút khỏi Công ước này sẽ được thông báo
bằng một văn kiện gửi tới Tổng thư ký ASEAN.
3. Việc rút khỏi Công ước sẽ có hiệu lực sau một
trăm tám mươi (180) ngày kể từ ngày Tổng thư ký ASEAN nhận được văn bản thông
báo rút khỏi Công ước.
4. Tổng thư ký ASEAN sẽ kịp thời thông báo cho
tất cả các Bên khác về bất kỳ sự rút khỏi Công ước nào.
Điều 31: Đăng ký
Công ước này sẽ được Tổng thư ký ASEAN đăng ký
với Ban thư ký Liên hợp quốc theo Điều 102 của Hiến chương Liên hợp quốc.
Hoàn thành tại Cu-a-la Lăm-pơ, Ma-lai-xi-a, ngày
hai mươi mốt tháng mười một năm hai nghìn không trăm mười lăm, một bản gốc duy
nhất bằng tiếng Anh.