Thực trạng về đảm bảo tiếp cận giao thông công cộng (đối với phương tiện tầu hỏa, máy bay) ở Việt Nam

Để đảm vảo quyền tiếp cận giao thông công cộng, Luật Người khuyết tật 2010 đã có những quy định về việc tham gia giao thông đối với người khuyết tật (Điều 41) và những yêu cầu đối với phương tiện giao thông công cộng (Điều 42). Ngoài ra, các văn bản pháp luật liên quan cũng đã có những quy định về vấn đề này, cụ thể:
Về mặt thiết kế, phương tiện giao thông công cộng nói chung, phương tiện tầu hỏa, máy bay nói riêng, để người khuyết tật tiếp cận sử dụng phải đáp ứng quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về giao thông tiếp cận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Chẳng hạn trong lĩnh vực đường sắt, các toa xe khách có xét đến việc tiếp cận sử dụng cho người khuyết tật phải đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật được quy định tại Thông tư số 67/2011/TT – BGTVT của Bộ Giao thông vận tải[1], ví dụ: phải có thiết bị đưa xe lăn lên xuống toa xe khách; các toa xe ghế ngồi phải có hệ thống đai an toàn... Nhìn chung, các phương tiện giao thông phải có chỗ ưu tiên cho người khuyết tật, có công cụ hỗ trợ lên, xuống thuận tiện hoặc sự trợ giúp phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật (Điều 42 khoản 1, 2 Luật người khuyết tật).[2]
Về trách nhiệm của các chủ thể đối với người khuyết tật trong giao thông, ở từng hình thức hoặc phương tiện giao thông, pháp luật đều có những quy định cụ thể. Trong lĩnh vực đường sắt, doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách có nghĩa vụ tổ chức lực lượng phục vụ hành khách là người khuyết tật vào ga, lên tàu, xuống tàu thuận lợi (Điểm c Khoản 2 Điều 97 Luật đường sắt năm 2005). Đối với các hãng hàng không, hành khách là người khuyết tật phải được quan tâm chăm sóc trong quá trình vận chuyển (Điều 145 Khoản 2 Luật hàng không dân dụng năm 2006).Người khai thác phải xây dựng phương thức vận chuyển hành khách có khả năng di chuyển bị hạn chế.[3]
Ngoài ra, khi sử dụng các phương tiện giao thông công cộng, người khuyết tật được ưu tiên mua vé, được giúp đỡ, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện. Người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng được miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao thông bằng một số phương tiện giao thông công cộng theo quy định của Chính phủ (Điều 41 Khoản 3, 4 Luật người khuyết tật).[4]
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá đầy đủ và toàn diện nhằm đảm bảo quyền tiếp cận giao thông công cộng nói chung và đối với phương tiện tầu hỏa, máy bay nói riêng, phù hợp với Công ước LHQ về quyền của người khuyết tật.
Trong báo cáo mới nhất về dịch vụ hành khách là người khuyết tật gửi Cục Hàng không Việt Nam, Tổng giám đốc Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) – ông Lê Mạnh Hùng  cho biết, hiện tại tất cả các cảng hàng không đều đã bố trí chỗ ngồi riêng cho người già yếu, phụ nữ có thai, người khuyết tật. Tại hầu hết các cảng đều có bố trí ram dốc cho người khuyết tật tại điểm tiếp cận, bố trí ghế chờ với số lượng không nhỏ hơn 5% tổng số ghế. Tương tự, nhà vệ sinh cho người khuyết tật cũng đảm bảo chiếm ít nhất là 5% tổng số phòng vệ sinh.Tuy nhiên, về hệ thống giao thông và khu vực vệ sinh cho người khuyết tật mới chỉ có các cảng được xây dựng và sửa chữa trong khoảng 5 năm trở lại đây như: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Pleiku, Phú Bài, Phù Cát, Thọ Xuân, Cát Bi, Vinh… là có đầy đủ. Những càng hàng không chưa đáp ứng yêu cầu trên sẽ được lên kế hoạch sửa chữa trước năm 2020, đảm bảo phục vụ tốt người khuyết tật.
Liên quan đến trang thiết bị phục vụ người khuyết tật, ông Hùng thừa nhận hiện chỉ 5/21 sân bay tại Việt Nam gồm Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Phú Quốc, Liên Khương có xe nâng phục vụ người khuyết tật.[5]
Sự việc hãng hàng không Vietjet từ chối phục vụ một hành khách người khuyết tật đã khiến nhiều người bày tỏ thái độ không đồng tình.Đồng thời cũng là một lời cảnh báo việc thực thi quy định của pháp luật trên thực tế còn nhiều hạn chế.
Theo bà Nguyễn Hồng Hà, Giám đốc Chương trình sống độc lập và Trung tâm sống độc lập Hà Nội, sự chênh lệch giữa văn bản và trên thực tế còn rất lớn.Thực tế hiện nay, dịch vụ hàng không chỉ hỗ trợ tốt cho những người đi lại được như người khiếm thị, người khuyết tật vận động nhẹ. Người khiếm thính không có đủ thông tin như những thay đổi về cổng ra máy bay, việc phục vụ trong chuyến bay... Bên cạnh đó, nhiều quy định về dịch vụ không thân thiện đối với người khuyết tật.Nhân viên phục vụ không hiểu dịch vụ và thiết bị hỗ trợ không chuyên nghiệp.
Đại diện Cục Hàng không Việt Nam cũng thừa nhận hiện nay hạ tầng nhiều cảng hàng không, đặc biệt là các cảng hàng không địa phương còn hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ cho người khuyết tật.Công tác trợ giúp hành khách của các hãng hàng không Việt Nam còn thiếu sót. Đội ngũ nhân viên đại diện cho các hãng hàng không làm việc trực tiếp với hành khách, đặc biệt khách là người khuyết tật chưa nắm rõ về quy trình phục vụ của hãng, thông tin hướng dẫn hành khách chưa được truyền tải rõ ràng, đầy đủ…[6]
Đối với phương tiện tầu hỏa, một cuộc khảo sát cho thấy, trên các toa đều chưa có vị trí hay toa ưu tiên dành riêng cho người khuyết tật. Cửa tàu hẹp, chỉ rộng 72cm nên xe lăn không thể tiếp cận. Toa tàu có 3 bậc lên xuống, các bậc lên xuống cao, bậc đầu tiên là 45cm, các bậc tiếp theo là 30cm gây khó khăn rất lớn cho người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật vận động.
Hành lang đi lại giữa hai hàng ghế trong toa chỉ rộng 60cm, khoảng không gian trên các toa giường nằm hẹp, không có chỗ cho xe lăn di chuyển. Mặc dù có hệ thống âm thanh thông báo tên ga sắp đến, nhưng đa số các tầu không có hệ thống bảng thông tin điện tử nên người khiếm thính sẽ gặp khó khăn trong việc nhận biết điểm đến. Khu vệ sinh thiết kế không phù hợp với người khuyết tật, do chật chội và do độ lắc của tầu.
Các nhà ga hành khách hiện nay đều có nhà chờ rộng rãi, trang bị nhiều ghế ngồi. Tuy nhiên, các nhà ga không có đường dốc đúng tiêu chuẩn cho xe lăn lên xuống gây khó khăn cho việc di chuyển của người khuyết tật vận động, không có hệ thống dẫn đường, gờ cảnh báo trước đường ga, vị trí lên tầu, gây khó khăn cho người khiếm thị…[7]
Thứ nhất, cần nhanh chóng rà soát hệ thống văn bản chuyên ngành tiến tới sửa đổi bổ sung, thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch thực hiện cải tạo, sửa chữa cơ sở hạ tầng để NKT tiếp cận giao thông theo các quy chuẩn, hướng dẫn tại các văn bản đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Thứ hai, cần có những biện pháp kiểm tra, giám sát, xử phạt đối với tổ chức, cá nhân vi phạm những quy định về bảo đảm tiếp cận phương tiện giao thông công cộng nhằm đảm bảo quyền lợi cho người khuyết tật, tránh để xảy ra những trường hợp như vụ việc của hãng Vietjet Air.
Thứ ba, tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về nhu cầu và quyền được bảo đảm tiếp cận và tham gia giao thông công cộng.
Thứ tư, đảm bảo nguồn tài chính, huy động nguồn xã hội hóa để đẩy nhanh tiến trình cải tạo cơ sở hạ tầng, sửa chữa, thay thế các phương tiện để phù hợp, đảm bảo cho người khuyết tật có thể tiếp cận các phương tiện giao thông công cộng, trong đó có tầu hỏa và máy bay.



[1] Thay thế cho Quyết định 21/2006/QĐ – BGTVT;
[2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011, tr. 172;
[3]Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011, tr. 173;
[4] Sđd, tr.173;
[5]http://www.tapchigiaothong.vn/nam-2020-moi-du-xe-nang-phuc-vu-nguoi-khuyet-tat-tai-san-bay-d2216.html
[6] http://voh.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/giup-nguoi-khuyet-tat-tiep-can-giao-thong-hang-khong-136233.html
[7]Viện Xã hội học, Tạp chí Xã hội học số 1 (117), 2012.

Related Post

Previous
Next Post »