NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Trong TTDS, ngoài người đại diện, đương sự còn có thể nhờ (yêu cầu) người khác tham gia tố tụng để BVQLIHP của mình. Người tham gia tố tụng này được gọi là NBVQLIHP.
Trong phạm vi bài tập nhóm, nhóm đã chọn đề tài: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự”, qua đó làm rõ hơn các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định này và những điểm mới của BLTTDS 2015 về vấn đề này.

Khoản 1 Điều 63 BLTTDS 2004 quy định: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
Tại khoản 2 Điều 63 quy định NBVQLIHP bao gồm: Luật sư tham gia TTDS theo quy định của pháp luật về luật sư; Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý; Công dân Việt Nam khi đáp ứng các điều kiện của pháp luật TTDS.
BLTTDS năm 2015 tại Khoản 1 Điều 75 quy định: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Tại Khoản 2, luật đã quy định thêm trường hợp đại diện của tập thể lao động cũng là NBVQLIHP của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động, công đoàn. Đây là những điểm mới của BLTTDS 2015 so với BLTTDS 2004.

2. Đặc điểm

Thứ nhất, NBVQLIHP là người am hiểu pháp luật. Bởi, có sự am hiểu nhất định về pháp luật thì NBVQLIHP mới có thể bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình một cách tốt nhất, thành công nhất;
Thứ hai, NBVQLIHP phải có đủ điều kiện tham gia TTDS theo quy định của Khoản 1 Điều 18 Nghị quyết số 03/2012/NQ – HĐTP hướng dẫn thi hành“Những quy định chung” của BLTTDS.
Thứ ba, sự có mặt của NBVQLIHP phụ thuộc vào đương sự. Điều này thể hiện ở việc NBVQLIHP xuất hiện từ khi đương sự nhờ và được tòa án chấp nhận (Khoản 2, 3, 4 Điều 18 Nghị quyết 03/2012/NQ – HĐTP);
Thứ tư, mục đích tham gia tố tụng để BVQLIHP cho đương sự. NBVQLIHP có thể BVQLIHP của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của những người đó không đối lập nhau. Nhiều NBVQLIHP có thể cùng BVQLIHP của một đương sự trong vụ án;

3. Ý nghĩa

Thứ nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án.
NBVQLIHP giúp đương sự nhận thức đúng quyền, nghĩa vụ của mình và bảo vệ các quyền và lợi ích đó trước Tòa án khi có sự vi phạm. Đó là nhờ các quyền được pháp luật TTDS quy định cho NBVQLIHP: quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án; giúp đương sự trình bày về yêu cầu của họ và cung cấp các tài liệu; tham gia hỏi tại phiên tòa,...
Thứ hai, đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. NBVQLIHP có sự am hiểu pháp luật chuyên sâu, vì vậy, những chứng cứ họ đưa ra sẽ dễ dàng được chấp nhận, giúp cho quá trình giải quyết vụ việc được nhanh chóng; bảo vệ được lợi ích của đương sự. Mặt khác, với sự tham gia của NBVQLIHP, quá trình xét xử vụ án của Tòa án được công minh hơn, làm cho người THTT phải khách quan, tôn trọng pháp luật hơn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS[1] thì: “đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Theo quy định tại Điều 63 BLTTDS 2004, những người có thể tham gia tố tụng với tư cách NBVQLIHP gồm: Luật sư, Bào chữa viên nhân dân và người khác được Toà án chấp nhận. Để được công nhận là NBVQLIHP thì người đó phải xuất trình các giấy tờ theo quy định tại Điều 18 Nghị quyết 03/2012:
-  Luật sư thì phải xuất trình cho Tòa án giấy giới thiệu của Văn phòng Luật sư nơi họ là thành viên hoặc có hợp đồng làm việc cử họ tham gia tố tụng tại Tòa án và thẻ Luật sư;
-  Trợ giúp viên pháp lý, người tham gia trợ giúp pháp lý thì phải xuất trình cho Tòa án giấy giới thiệu của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử họ tham gia tố tụng và thẻ Trợ giúp viên pháp lý hoặc thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý;
-  Đối với người khác thì phải xuất trình cho Tòa án văn bản có nội dung thể hiện ý chí của đương sự nhờ BVQLIHP cho đương sự; văn bản của UBND xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú hoặc của cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc xác nhận họ không có tiền án, không đang bị khởi tố về hình sự, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an; một trong các loại giấy tờ tuỳ thân (như chứng minh nhân dân, hộ chiếu, sổ hộ khẩu,..)
Bên cạnh đó, theo quy định tại Khoản 4 Điều 18 Nghị quyết 03/2012 quy định:“Tại phiên toà đương sự mới nhờ NBVQLIHP, thì Hội đồng xét xử chấp nhận, nếu người được đương sự nhờ làm NBVQLIHP đáp ứng các điều kiện được hướng dẫn tại khoản 1 Điều này và việc chấp nhận đó không gây cản trở cho Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án”.
Như vậy, NBVQLIHP được tham gia tố tụng không chỉ sau khi Tòa án đã cấp giấy chứng nhận NBVQLIHP như theo quy định của Điều 63 BLTTDS, mà họ được tham gia khi đáp ứng đủ điều kiện được hướng dẫn tại khoản 4 Điều 18 Nghị quyết 03/2012/NQ – HĐTP.
Đến BLTTDS năm 2015, ngay tại Khoản 1, luật đã bỏ cụm từ “được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng”. Ngoài ra, luật quy định Tòa án phải vào sổ đăng ký NBVQLIHP và xác nhận vào giấy yêu cầu NBVQLIHP khi đã kiểm tra các giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm NBVQLIHP. Trường hợp Tòa án từ chối đăng ký thì phải thông báo bằng văn bản và thông báo lý do cho người đề nghị. BLTTDS 2015 quy định như vậy nhằm hạn chế nhiều trường hợp NBVQLIHP đã xuất trình đầy đủ các giấy tờ, tài liệu theo luật định nhưng Tòa án vẫn từ chối hoặc kéo dài thời gian cấp giấy chứng nhận, gây khó khăn cản trở cho NBVQLIHP trong thực tiễn.
Ngoài ra, tại điểm c Khoản 1 Điều 75 BLTTDS năm 2015, luật đã quy định cho đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động là NBVQLIHP của người lao động theo pháp luật về lao động, công đoàn. Quan hệ lao động là quan hệ mua bán, trao đổi sức lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động nên khó tránh khỏi sự lạm dụng, bóc lột. Do vậy, sự tham gia của tổ chức đại diện lao động – tổ chức công đoàn nhằm tạo ra tương quan để BVQLIHP của người lao động là hết sức cần thiết.
Tại điểm c Khoản 4 Điều 75 BLTTDS 2015, luật cũng đã quy định điều kiện để được công nhận là NBVQLIHP của người này là phải xuất trình văn bản của tổ chức cử mình tham gia BVQLIHP cho người lao động, tập thể lao động.
2.1.          Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
NBVQLIHP có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình TTDS (Điều 64, BLTTDS 2004 và Điều 76 BLTTDS 2015). Vai trò và hoạt động của NBVQLIHP được thể hiện trong ba giai đoạn của quá trình tố tụng là: giai đoạn trước khi mở phiên tòa, giai đoạn mở phiên tòa và giai đoạn sau khi phiên tòa kết thúc.
a.   Giai đoạn trước khi mở phiên tòa
-       Quyền thu thập chứng cứ.
Khoản 2 Điều 64 BLTTDS 2004 quy định: NBVQLIHP có quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Việc xác minh, thu thập chứng cứ là vô cùng quan trọng và cần thiết, nó góp phần làm sáng tỏ sự thật vụ việc dân sự, BVQLIHP của đương sự. Tuy nhiên việc xác minh, thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật, chứng cứ thu thập phải đảm bảo tính khách quan và liên quan với nhau, phải lựa chọn thời điểm thích hợp để cung cấp cho tòa án, có thể trước khi xét xử hoặc trong quá trình xét xử. Khi nghiên cứu hồ sơ, có yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu chứng cứ thì NBVQLIHP phải làm đơn gửi Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc đó.
Quy định về việc thu thập tài liệu, chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, khoản 2 Điều 76 BLTTDS 2015 có bổ sung như sau: “NBVQLIHP có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này”. Đó là những tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Toà án không công khai nội dung tài liệu, chứng cứ này theo yêu cầu chính đáng của đương sự nhưng phải thông báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng cứ không được công khai.
BLTTDS 2004 không quy định cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên tại Nghị quyết số 03/2012/NQ – HĐTP, tại Điều 19 và Điều 17 có quy định các tài liệu, chứng cứ mà Toà án cung cấp không liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư. Có thể thấy rằng các quy định này không được cụ thể và đầy đủ như quy định của BLTTDS 2015.
-       Quyền tham gia hòa giải[2].
Theo quy định của BLTTDS có những vụ việc bắt buộc phải tiến hành hòa giải và bắt buộc hòa giải tại tòa án cấp sơ thẩm mà không bắt buộc ở cấp phúc thẩm. Luật TTDS quy định cho NBVQLIHP được tham gia phiên hòa giải cùng đương sự, nếu không tham gia được thì NBVQLIHP có thể gửi văn bản BVQLIHP tới phiên hòa giải.
Trước khi tham gia hòa giải, NBVQLIHP tư vấn cho đương sự dựa trên cơ sở pháp luật về nội dung chuẩn bị hòa giải, dự liệu cho đương sự những thuận lợi và khó khăn trong vụ việc cần giải quyết. Ngoài ra, NBVQLIHP cần phải chuẩn bị các tình huống dự phòng khác nhau cho phiên hòa giải. Trong trường hợp hòa giải không thành, NBVQLIHP phải tiếp tục củng cố chứng cứ và lập luận để chuẩn bị cho phiên xét xử. Cũng thông qua phiên hòa giải không thành, các thông tin mà Tòa án có được trong quá trình hòa giải sẽ giúpTòa án áp dụng luật giải quyết tranh chấp một cách rõ ràng.
-       Quyền thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác[3].
NBVQLIHP có quyền thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người THTT, người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật (khoản 4 Điều 64 BLTTDS 2004). Đây là quyền phái sinh từ quyền của đương sự, mục đích là bảo vệ quyền lợi của đương sự một cách chính đáng nhất.
b.   Giai đoạn mở phiên tòa
Trong giai đoạn mở phiên toà, việc BVQLIHP được thực hiện ở thủ tục hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa.
-       Thủ tục hỏi.
NBVQLIHP của nguyên đơn trình bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. NBVQLIHP của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. NBVQLIHP của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn, yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp (Điều 221 BLTTDS năm 2004).
BLTTDS 2015 tại Điều 248 cơ bản vẫn giữ nguyên các quy định so với Điều 221 BLTTDS 2004. Tuy nhiên, ngay ở tên của điều luật, nhà làm luật đã khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của NBVQLIHP khi quy định “Điều 248. Trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Ngoài ra, BLTTDS 2015 cũng đã đưa nội dung này sang phần tranh tụng tại phiên hòa. Đây là điểm mới đáng chú ý, thể hiện rõ nét nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được quy định tại Điều 24.
-       Thủ tục tranh luận.
NBVQLIHP có quyền tranh luận tại phiên toà theo quy định tại khoản 6 Điều 64, điểm m khoản 2 Điều 58 BLTTDS 2004.
Theo Điều 232 BLTTDS 2004, NBVQLIHP của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan phát biểu ý kiến, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích liên quan có quyền bổ sung ý kiến. Khi tranh luận, trình bày quan điểm của mình, NBVQLIHP cần nhận định các tình tiết quan trọng của vụ việc, trình bày quá trình đánh giá chứng cứ, khẳng định lại giá trị chứng minh của chứng cứ kết hợp với căn cứ của pháp luật để làm căn cứ pháp lý, NBVQLIHP cần phải tôn trọng sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa và phải tập trung làm sáng tỏ các tình tiết cần chứng minh trên cơ sở đó có thể BVQLIHP của đương sự một cách tốt nhất. Nếu thấy đã tranh luận về các vẫn đề nhưng vẫn chưa rõ hoặc chưa khẳng định được những tình tiết của vụ việc thì NBVQLIHP có thể đề nghị Hội đồng xét xử quay lại thủ tục hỏi.
c.   Giai đoạn sau khi phiên tòa kết thúc
Nếu NBVQLIHP bảo vệ cho đương sự từ cấp sơ thẩm thì tùy thuộc vào diễn biến của phiên tòa mà bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể giúp đương sự kháng cáo ngay khi Tòa sơ thẩm tuyên án. Nếu sau phiên tòa sơ thẩm, đương sự mới nhờ người bảo vệ, thì tùy thuộc vào yêu cầu của đương sự và thực tiễn bản án so với các tình tiết khách quan của vụ án mà NBVQLIHP nghiên cứu lại hồ sơ vụ việc, có thể giúp đương sự chuẩn bị tài liệu, chứng cứ mới để kháng cáo một phần hay toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
2.2.          Nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
a. Nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Cùng với những quyền TTDS được quy định tại điều 64 BLTTDS 2004 và các văn bản pháp luật khác thì NBVQLIHP có những nghĩa vụ do pháp luật quy định như các quy định tại các điểm q và r khoản 2 điều 58 của BLTTDS.Theo đó họ cần phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án, cũng như tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy tại phiên tòa. Việc này cho thấy trách nhiệm của người bảo vệ là rất lớn, không những đảm bảo được tiến độ của vụ án mà còn thể hiện được tinh thần, trách nhiệm của người thi hành pháp luật. Ví dụ, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án: vấn đề sao chép, ghi, chụp lại những tài liệu cần thiết cho vụ án không phải lúc nào cũng có thể được thược hiện, đòi hỏi người bảo vệ phải có mặt ngay khi cần thiết để không bỏ sót một chi tiết quan trọng nào. Sự tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của Tòa án thể hiện rõ ràng thái độ cũng như trình độ hiểu biết pháp luật của người bảo vệ. Từ đó, tạo sự tin tưởng vào luật pháp của người dân.
Ngoài ra, NBVQLIHP có nghĩa vụ giúp đỡ đương sự về mặt pháp lý trong quá trình họ tham gia tố tụng. Do đó, họ có trách nhiệm hướng dẫn, giải thích, cố vấn các quy định của pháp luật liên quan tới từng vụ việc, khía cạnh cụ thể cho đương sự hiểu họ có quyền, nghĩa vụ gì, lợi ích họ đạt được là gì ... Bởi vậy việc giúp đỡ đương sự về mặt pháp lý là một nghĩa vụ của NBVQLIHP. Việc pháp luật quy định nghĩa vụ này của họ là cần thiết, phù hợp với mục đích tham gia tố tụng của NBVQLIHP.
b. Nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa
NBVQLIHP còn có nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, họ là những người đại diện cho pháp luật, thực thi pháp luật để bảo vệ trật tự, an ninh xã hội. Khi tham gia tố tụng, NBVQLIHP phải có trách nhiệm giúp CQTHTT, người THTT, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giám sát hoạt động của CQTHTT, người THTT, bảo vệ sự nghiêm minh của hoạt động tố tụng. NBVQLIHP không được chỉ quan tâm tới lợi ích của khách hàng mà bất chấp sự thật, bất chấp pháp luật, thiếu sự cộng tác, tư vấn gây khó khăn cho CQTHTT trong việc giải quyết vụ án. Quan tâm tới lợi ích của khách hàng nhằm giữ chữ tín, tạo thương hiệu là điều quan trọng, nhưng nếu đi ngược lại với những quy định của pháp luật thì vô tình đã gây ra sự đối lập, phản kháng lại quy định của pháp luật.

III. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về NBVQLIHP của đương sự

1.   Kết quả đạt được

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường kéo theo các vấn về khác nhau của xã hội, đặc biệt là trong nhận thức của con người. Do vậy, một số lượng lớn người dân khi tham gia tố tụng đã nhờ người khác bảo vệ quyền lợi của mình trong những năm qua.
Theo như thực tế hiện nay thì trong các vụ án dân sự, NBVQLIHP thường là luật sư.Với sự tham gia của luật sư, quyền và lợi ích của đương sự sẽ được đảm bảo chắc chắn hơn, đặc biệt là thể hiện được vai trò cũng như tầm quan trọng của luật sư trong các vụ án. Còn trước kia, NBVQLIHP (ngoại trừ luật sư)  thường là những người thậm chí chưa hề qua một lớp đào tạo nào về luật mà họ hoạt động nhờ kinh nghiệm và sự học hỏi thực tế. Vì vậy, mà chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân và sự tin tưởng của tòa án. Nhưng với năng lực hiện nay của NBVQLIHP, vấn đề đó đã được khắc phục. Đương sự dần tìm đến các luật sư bởi sự vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ và mối quan hệ tốt với tòa án.Thực tiễn đạt được đó là: Trong hoạt động tham gia tố tụng, giai đoạn 2005 – 2010, đội ngũ luật sư đã tham gia hơn 53.000 vụ việc về dân sự, giai đoạn 2009 – 2015 đội ngũ luật sư cũng đã tham gia gần 65.236 vụ án dân sự, góp phần quan trọng trong việc BVQLIHP.[4]
Thứ nhất, về số lượng và chất lượng của Luật sư chưa cao. Tính đến năm 2014, tổng số Luật sư của cả nước là 8.928 luật sư trên số dân 90.5 triệu người (tức là cứ 10.000 người thì mới có 1 luật sư). Ngoài ra, số lượng luật sư phân bố không đồng đều giữa các tỉnh, thành, số lượng lớn tập trung ở: Hà Nội (2.379 luật sư) và TP. Hồ Chí Minh (3.756 luật sư)[5]. Trong số những người tham gia tố tụng để BVQLIHP vẫn có một phần trong số đó khả năng bảo vệ đương sự còn yếu thậm chí nhiều khi còn gây bất lợi cho chính bản thân do cách bảo vệ vi phạm pháp luật[6]. Mặt khác, chất lượng luật sư chưa cao, còn hạn chế ở trình độ, trong 8.928 luật sư thì số người đủ tiêu chuẩn tham gia giải quyết tranh chấp quốc tế còn ít. Mặc dù nước ta có cơ sở đào tạo Luật sư nhưng chất lượng đào tạo không thể đảm bảo để người học có thể hành nghề được sau khi tốt nghiệp. Bên cạnh đó, một số luật sư khi tham gia BVQLIHP không những không làm tròn nghĩa vụ mà còn vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp như sử dụng biện pháp bất hợp pháp để bảo vệ khách hàng hoặc giao kết hợp đồng với khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Điều này đã gây bất lợi cho đương sự được bảo vệ và nhiều khi chính luật sư cũng bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, tại các phiên tòa chưa có một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo an toàn cho NBVQLIHP. Ví dụ như vụ bị đơn Nguyễn Bích Thúy cầm guốc xông vào đánh  Luật sư Trần Đình Triển ngay trước mặt Chủ tọa, Thẩm phán, đại diện Viện kiểm sát và những người tham dự phiên tòa trong phòng xử án TAND TP. Hà Nội ngày 01/4/2008[7]. Ngoài ra, còn nhiều khó khăn cho NBVQLIHP như: Thủ tục cấp giấy chứng nhận bảo chữa, thu thấp chứng cứ, tài liệu, nhiều trường hợp bị tòa gây khó khăn với nhiều lý do cho việc tiếp cận hồ sơ để nghiện cứu.
Nguyên nhân của bất cập này là do quy định của pháp luật còn thiếu và chưa hợp lý như:
-  Một số tòa căn cứ vào điều 63 BLTTDS 2005 đã gây cản trở cho NBVQLIHP tham gia tố tụng (như đã nêu ở phần II.1).
-  Điều 90 BLTTDS 2005 chỉ quy định cho thẩm phán có quyền trưng cầu giám định, tuy nhiên các thẩm phán thường không chủ động mà chờ khi có đơn yêu cầu của đương sự. Trong khi đó luật lại không quy định cho đương sự và NBVQLIHP được trưng cầu giám định mà phải làm đơn tới thẩm phán thụ lý vụ việc. Điều này gây cản trở tới việc xác minh, thu thập chứng cứ của đương sự và NBVQLIHP, đặc biệt là trong những vụ việc mà kết luận giám định là chứng cứ quan trọng nếu thiếu sẽ không giải quyết được vụ việc.
-  Điều 64 BLTTDS 2005 quy định “NBVQLIHP được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nếu tòa án xét thấy cần thiết”. Như vậy chỉ khi nào tòa án xét thấy cần thiết thì mới cho NBVQLIHP tham gia thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên trên thực tế rất khó có khả năng này bởi đây là một thủ tục đặc biệt, nhiều khi không cần thiết thì tòa án không triệu tập đương sự đến. Vì vậy quy định này tạo cho tòa án quyền hạn rất lớn trong việc xác định thế nào là cần thiết và là nguyên nhân hạn chế hầu hết sự tham gia giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm của NBVQLIHP.
Thứ ba, những quy định của BLTTDS về tranh luận tại phiên tòa nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Một số Thẩm phán quá coi nhẹ sự có mặt của NBVQLIHP, nhiều bản án không hề ghi nhận quá trình tranh luận tại phiên tòa và trong nhiều trường hợp yêu cầu của họ cũng không được chấp nhận do tòa cho rằng không có căn cứ và cũng không có giải thích gì thêm.
Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự khách quan, chưa thể tạo điều kiện thuận lợi nhất để NBVQLIHP được thực hiện đầy đủ quyền trong quá trình tố tụng. Cụ thể là còn một số cán bộ, thẩm phán thiếu trách nhiệm, sa sút về phẩm chất, ý thức rèn luyện, không hoàn thành nhiệm vụ, thậm chí vi phạm pháp luật.
Thứ nhất, cần đào tạo nhiều luật sư hơn cũng như nâng cao chuyên môn cho luật sư. Chất lượng đào tạo của nước ta chưa thực sự tốt, điều kiện để trở thành luật sư tương đối cao và thời gian đào tạo cũng khá dài tuy nhiên cũng chưa đào tạo ra được nhiều luật sư giỏi. Đ nâng cao chuyên môn cho lut sư, nht là các lut sư tr, Liên đoàn Lut sư Vit Nam cần phi hp vi B Tư pháp sm thành lp Trung tâm đào to lut sư hi nhp kinh tế quc tế đ có các chương trình đào to, theo hc kp thi.[8]
Nước ta là một nước đông dân, nhu cầu sử dụng luật sư ngày càng tăng lên nhưng đội ngũ luật sư của ta vẫn còn thiếu. Do đó cần có sự quan tâm của nhà nước đến vấn đề này như dành các ưu đãi để thu hút nhiều người hơn nữa theo học nghề luật sư.
Theo Chiến lược phát trin ngh lut sư đến năm 2020 được Th tướng Chính ph phê duyt, đến năm 2020 c nước phn đu có khong 20.000 lut sư hành ngh chuyên sâu, đt t l s lut sư trên s dân là 1/4.500, ti mi đa phương khó khăn v kinh tế xã hi có 30 – 50 lut sư. Ngoài ra, c nước phn đu phát trin được khong 30 t chc hành ngh lut sư có quy mô 50 – 100 lut sư và t 100 lut sư tr lên hat đng chuyên sâu trong lĩnh vc đu tư, kinh doanh, thương mi có yếu t nước ngoài.[9]
Thứ hai, cần tạo điều kiện hơn cho NBVQLIHP khi tham gia tố tụng.
-  Cần có cơ chế chặt chẽ hơn để bảo đảm an toàn cho NBVQLIHP đặc biệt là trong những vụ án dân sự có tranh chấp lớn. Bên cạnh đó cũng cần có sự nghiêm minh, xử lý kịp thời những tình huống phát sinh tại phiên tòa của chủ tọa phiên tòa. Tránh tình trạng lơ là hay cố tình làm ngơ dẫn đến việc phát sinh những hậu quả đáng tiếc như trọng vụ bị cáo Nguyễn Bích Thúy cầm guốc xông vào đánh Luật sư Trần Đình Triển.
-  Cần quy định thêm cho NBVQLIHP quyền yêu cầu giám định khi họ cho rằng việc giám định là cần thiết để thu thập chứng cứ giải quyết vụ việc.
Trong BLTTDS 2015 vấn đề yêu cầu giám định được quy định tại điều 102. Theo đó đã quy định thêm cho đương sự quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Đây là một cách giải quyết bởi khi đó nếu cảm thấy cần yêu cầu giám định thì NBVQLIHP có thể tư vấn để đương sự tự mình yêu cầu giám định. Tuy nhiên đương sự chỉ có thể tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự dó đó có thể nói để có thể yêu cầu giám định vẫn còn khá phức tạp, gây cản trở cho quá trình thu thập chứng cứ trong khi đó NBVQLIHP sẽ là người hiểu rõ nhất trường hợp nào cần phải trưng cầu giám định để thu thập chứng cứ BVQLIHP của đương sự lại không được quy định trực tiếp quyền yêu cầu trưng cầu giám định.
-  Việc quy định chỉ khi nào tòa án xét thấy cần thiết thì mới cho NBVQLIHP tham gia thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dẫn đến họ đôi khi bị thụ động trong việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Do đó cần mở rộng quyên của NBVQLIHP ngang bằng với đương sự, đương sự được tham gia giai đoạn nào thì người bảo vệ phải được tham gia vào gia đoạn đó, như vậy mới đảm bảo cho việc bảo vệ quyền lợi của đương sự được thuận lợi. Tiếc rằng, BLTTDS 2015 vẫn tiếp tục bỏ ngỏ vấn đề này[10].
Thứ ba, nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ làm việc trong hệ thống các CQTHTT về tầm quan trọng của sự tham gia của NBVQLIHP. Sự tham gia của họ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên cần được chú trọng và tạo điều kiện.


Việc tham gia tố tụng vào vụ việc dân sự của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không những có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án mà còn có ý nghĩa cả với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4.   Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
5.   Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004;
6.   Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS.;
7.   Luật Luật sư năm 2012;
8.   Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2015;
9.   Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007;
10.             Trường Đại học Luật Hà Nội, Câu hỏi và bài tập về luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2003.




[1] Cả Điều 9 BLTTDS năm 2004 và Điều 9 BLTTDS năm 2015.
[2] Khoản 3 Điều 64 BLTTDS 2004 và Khoản 3 Điều 76 BLTTDS 2015.
[3] Khoản 4 Điều 64 BLTTDS 2004 và Khoản 4 Điều 76 BLTTDS 2015.
[4]  http://chutunganh.blogspot.com/2015/06/nguoi-bao-ve-quyen-va-loi-ich-hop-phap.html
[5] http://www.tienphong.vn/Phap-Luat/viet-nam-co-bao-nhieu-luat-su-849781.tpo
[6] http://www.tienphong.vn/Pháp-luat/117205/luat-su-va-nha-bao-bi-danh-ngay-tai-toa_html
[7] http://www.tienphong.vn/Pháp-luat/117205/luat-su-va-nha-bao-bi-danh-ngay-tai-toa_html
[10] Khoản 2 Điều 338 BLTTDS 2015 tiếp tục quy định “trường hợp xét thấy cần thiết”.

Related Post

Previous
Next Post »