About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Pháp luật Người khuyết tật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Pháp luật Người khuyết tật. Hiển thị tất cả bài đăng

Nội dung chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam

Nội dung chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam

I. Khái quát chung về chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật

1. Khái niệm

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật”.
CSSK NKT là sự chăm sóc toàn diện, đặt trong mối liên hệ chặt chẽ và tác động giữa các yếu tố môi trường bên ngoài (thức ăn, nước uống,…) và các yếu tố môi trường bên trong (di truyền, gen, tế bào,…) giữa các hoạt động đề phòng sự phát sinh ra bệnh tật, phát hiện sớm bệnh tật… đến việc điều trị kịp thời và phục hồi sức khoẻ cho NKT. Bao gồm: chăm sóc y tế (chăm sóc do ngành y tế đảm nhiệm: chăm sóc về phòng bệnh; khám bệnh, chữa bệnh; điều dưỡng, phục hồi chức năng…) và chăm sóc ngoài y tế (do các ngành khác đảm nhiệm: tập luyện thể dục thể thao; chăm sóc về dinh dưỡng; nước uống, vệ sinh môi trường; nhà ở;...).
Chế độ CSSK NKT: là tổng hợp các quy định về quyền của NKT được nhà nước, cộng đồng xã hội thực hiện trong các hoạt động phòng bệnh, khám chữa bệnh, chỉnh hình, phục hồi chức năng nhằm giúp NKT ổn định sức khỏe, vượt qua nỗi khó khăn bệnh tật, vươn lên hòa nhập cộng đồng.

2. Ý nghĩa

Ý nghĩa xã hội và nhân văn:thể hiện sự chia sẻ, cảm thông của cộng đồng với những rủi ro của NKT. Từ đó giúp NKT khắc phục các bất lợi, khó khăn, vượt qua mặc cảm, tự ti về ngoại hình, về tật, vươn lên khẳng định bản thân.
Ý nghĩa pháp lý: bảo đảm quyền được CSSK của NKT được đề cập trong Tuyên ngôn về quyền con người của Liên hợp quốc:“mỗi người đều có quyền… hưởng mức sống bao gồm cơm ăn, áo mặc, nhà ở, chăm sóc y tế và phục vụ xã hội để duy trì sức khoẻ và thoả mãn nhu cầu của chính bản thân và gia đình”, trong đó đã bao hàm quyền được CSSK. Đồng thời, thể hiện trách nhiệm của cộng đồng xã hội trong CSSKNKT.
Ý nghĩa kinh tế: tạo điều kiện cho NKT tham gia các quan hệ lao động, việc làm và để sống độc lập. NKT luôn được đánh giá cao về lòng tận tụy và ý chí vươn lên trong công việc, khi sức khoẻ được đảm bảo, NKT sẽ có cơ hội tham gia các hoạt động xã hội khác, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ công dân, có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

3. Các nguyên tắc cơ bản của chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật

Đa dạng hóa các hoạt động CSSKNKT: thể hiện ở việc lồng ghép chế độ CSSKNKT với chương trình kinh tế, xã hội; thực hiện đồng bộ chăm sóc y tế và ngoài y tế; đa dạng hóa các loại hình, cơ sở CSSK cùng với khai thác nguồn đầu tư tài chính; phát huy sáng kiến ứng dụng khoa học kỹ thuật thích nghi với mọi dạng tật.
Xã hội hóa các hoạt động CSSK người khuyết tật: ngoài việc nhà nước thống nhất quản lý và thực hiện bằng nguồn ngân sách nhà nước, còn huy động thêm sự tham gia của cả cộng đồng cũng như chính bản thân NKT.
Ưu tiên hợp lý trong hoạt động CSSK NKT: ưu tiên cho các đối tượng theo mức độ và dạng tật theo hướng ưu tiên nhiều hơn cho những người có khuyết tật nặng hơn, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ có thai khuyết tật, người khuyết tật có công với cách mạng như miễn giảm phí y tế, ưu tiên thứ tự cấp thuốc, ưu tiên điều trị nội trú.

II. Nội dung chế độ chăm sóc sức khỏe NKT

1. Chăm sóc sức khỏe ban đầu cho NKT

Theo WHO,CSSK ban đầu là những chăm sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên những phương pháp kỹ thuật thực hành đưa đến tận cá nhân và từng gia đình, được mọi người chấp nhận thông qua sự tham gia đầy đủ của họ, với giá thành mà họ có thể chấp nhận được nhằm đạt được sức khỏe cao nhất.
Ở Việt Nam, CSSK ban đầu được thực hiện đối với mọi công dân, trong đó có NKT,cụ thể được quy định tại Điều 21 Luật NKT. Theo đó, việc CSSK ban đầu đối với NKT thuộc trách nhiệm của cơ sở y tế cấp xã, thực hiện các hoạt động: tuyên truyền, giáo dục kiến thức phổ thông về CSSK, các biện pháp phòng ngừa khuyết tật; lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe NKT; các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện phù hợp trong phạm vi chuyên môn.
Theo quy định của Luật NKT, CSSK ban đầu đối với NKT gồm các nội dung sau đây[1]:
Giáo dục sức khoẻ: thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về CSSK bằng các hình thức, biện pháp phong phú như: tổ chức lớp học, thông tin qua hệ thống truyền thông ở địa phương hoặc lồng ghép vào các hoạt động văn hoá xã hội khác ở địa phương.., nhằm mục đích tăng cường kiến thức và hiểu biết của NKT về việc tự bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Từ đó sẽ giúp NKT loại bỏ dần những lối sống, thói quen và phong tục tập quán có hại cho sức khoẻ.
Nội dung giáo dục sức khoẻ gồm: cải thiện điều kiện dinh dưỡng và ăn uống hợp lí, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, các hoạt động về công tác phòng bệnh… Đối với trẻ em khuyết tật, giáo dục sức khoẻ còn thể hiện ở chương trình giáo dục đặc biệt, đó là giáo dục hoà nhập hoặc giáo dục chuyên biệt tùy thuộc vào mức độ khuyết tật cũng như khả năng phục hồi sức khoẻ của trẻ em.
Thực hiện các biện pháp phòng ngừa:hoạt động phòng ngừa được thực hiện rất đa dạng, phong phú: phòng ngừa dựa vào dạng tật, phòng ngừa dựa vào khả năng thực tế của địa phương, hoàn cảnh gia đình, phòng ngừa dựa vào nhu cầu của người khuyết tật, ... Tuy nhiên, có thể khái quát hoạt động phòng ngừa khuyết tật bao gồm:
Hoạt động phòng ngừa không để xảy ra khuyết tật:là hoạt động phòng ngừa từ xa, nhằm loại bỏ tận gốc nguyên nhân gây ra bệnh tật. Để thực hiện hoạt động này, mỗi NKTphải có kiến thức hiểu biết về vệ sinh, rèn luyện thân thể, có lối sống lành mạnh để tăng cường sức đề kháng của cơ thể, chống lại bệnh tật. Cần chăm sóc tốt sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, thực hiện mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con, tư vấn sức khoẻ sinh sản cho đối tượng có nguy cơ sinh con khuyết tật, thực hiện khám thai cho tất cả phụ nữ ít nhất 5 lần theo quy định của WHO, giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng cho bà mẹ trong thời kì mang thai và trẻ em,... Ngoài ra, việc thực hiện phòng ngừa khuyết tật còn thể hiện qua các nội dung tiêm chủng phòng chống các bệnh nhiễm trùng phổ biến của trẻ em, phòng chống các bệnh dịch lưu hành phổ biến ở địa phương. Đây là các biện pháp phòng bệnh tích cực, chủ động, mang lại hiệu quả cao trong việc phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật.
Hoạt động phòng ngừa để ngăn ngừa tình trạng ốm đau, tai nạn, rủi ro trở thành khuyết tật: khi ốm đau, tai nạn, rủi ro nào đó xảy ra, ai cũng mong muốn được cứu sống, phục hồi sức khoẻ, không bị tàn tật. Vì thế, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động này là phát hiện sớm, chẩn đoán sớm bệnh tật.Từ đó, có biện pháp xử lí kịp thời và điều trị phù hợp, hạn chế các rủi ro trở thành khuyết tật.
Đối với hoạt động phòng ngừa để ngăn ngừa khuyết tật gây nên hậu quả nặng hơn:là hoạt động ngăn ngừa những tái phát gây ra thường thấy ở những người mắc bệnh, tật không được chữa khỏi hoặc không chữa khỏi được. Sự tái phát bệnh, tật có thể làm cho tình trạng suy giảm chức năng trở nên nặng hơn.Vì thế, phát hiện sớm tình trạng tái phát bệnh, tật để điều trị kịp thời đồng thời phục hồi nhanh chóng chức năng bị suy giảm để ngăn ngừa hậu quả xấu do khuyết tật gây ra.
Quản lí sức khoẻ: mục tiêu lâu dài mà ngành y tế đặt ra là quản lí sức khoẻ cho toàn dân, trước mắt là thực hiện quản lí sức khoẻ cho các đối tượng ưu tiên như trẻ em dưới 1 tuổi, trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, các đối tượng có công với cách mạng và NKT. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 LuậtNKT, trạm y tế cấp xã có trách nhiệm lập hồ sơ theo dõi, quản lí sức khoẻ NKT. Mục đích của chế độ này nhằm quản lí theo dõi tình trạng khuyết tật ở địa phương, từ đó giúp cơ quan chức năng đưa ra các giải pháp hợp lí để chăm sóc sức khoẻ hiệu quả hơn. Quản lí sức khoẻ NKT cũng được coi là nội dung quan trọng trong CSSKban đầu đối với NKT.

2. Khám bệnh, chữa bệnh

Điều 2 Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009 quy định: “Khám bệnh là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể, khi cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng để chẩn đoán và chỉ định phương pháp điều trị phù hợp đã được công nhận”. “Chữa bệnh được hiểu là việc sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật đã được công nhận và thuốc đã được phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức năng cho người bệnh”.
Theo đó, khám bệnh, chữa bệnh là quyền cơ bản của tất cả mọi người trong xã hội khi có nhu cầu, cụ thể nó bao gồm các quyền được quy định từ Điều 7 đến Điều 13 Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009. Bên cạnh những quyền được quy định tại luật chung là Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009 thì Luật NKT cũng có những quy định riêng về quyền được khám chữa bệnh cho NKT, theo đó Nhà nước phải đảm bảo để NKT được khám bệnh, chữa bệnh và sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp (khoản 1 Điều 22 Luật NKT) và các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cần thực hiện những biện pháp khám bệnh, chữa bệnh phù hợp cho NKT (khoản 1 Điều 23 Luật NKT).
NKT là đối tượng yếu thế, chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống nhưng NKT là trẻ em, phụ nữ có thai, người cao tuổi, người có công với cách mạng và NKT nặng, đặc biệt nặng còn chịu nhiều khó khăn, thiệt thòi trong cuộc sống hơn nữa. Vì vậy, bên cạnh quyền được khám chữa bệnh thì nhóm đối tượng NKT trên còn được hưởng những quyền ưu tiên trong khám chữa bệnh nhằm hỗ trợ, giúp đỡ họ trong việc CSSKthông qua các hình thức như: miễn, giảm viện phí; hỗ trợ sinh hoạt phí; chi phí đi lại; chi phí điều trị…. Cụ thể, một trong những nguyên tắc hành nghề khám chữa bệnh được quy định tại Điều 3.4 Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009 đó là ưu tiên khám chữa bệnh đối với trường hợp cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, NKT nặng, người từ đủ 80 tuổi trở lên, người có công với cách mạng, phụ nữ có thai.
Bên cạnh đó quyền ưu tiên khám chữa bệnh cũng được quy định trong một số văn bản pháp luật khác, cụ thể: tại Điều 12 Luật người cao tuổi hay tại Điều 41.1 Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân:“Người cao tuổi, thương binh, bệnh binh và người tàn tật được ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khỏe của mình”. Tuy nhiên, việc ưu tiên khám chữa bệnh trên thực tế cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, chẳng hạn như:“Người từ đủ 80 tuổi trở lên được ưu tiên khám trước người bệnh khác trừ bệnh nhân cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, NKT”, như vậy, cần phải dựa vào những yếu tố khác như tình trạng nguy cấp của bệnh nhân, mức độ khuyết tật, độ tuổi… để xác định đối tượng ưu tiên trong trường hợp phải lựa chọn giữa nhiều đối tượng đều thuộc đối tượng được ưu tiên khám, chữa bệnh.
Ngoài ra, khi khám, chữa bệnh, NKTđược bảo hiểm y tế thanh toán chi phí y tế theo quy định của pháp luật bảo hiểm y tế. Nếu họ tham gia loại hình bảo hiểm khác thì cũng sẽ được thanh toán quyền lợi theo quy định hoặc theo thỏa thuận.

3. Phục hồi chức năng

Phục hồi chức năng đối với NKT không chỉ bó hẹp trong phạm vi các biện pháp y học như trước đây (còn gọi là phục hồi chức năng truyền thống), mà đã mở rộng phạm vi phục hồi chức năng đến các lĩnh vực giáo dục, xã hội, hướng nghiệp v.v.. (còn gọi là phục hồi chức năng hiện đại hay phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng). Trong đó, không chỉ có sự tham gia của thầy thuốc tại các cơ sở y tế, mà còn có sự tham gia của chính quyền địa phương, cộng đồng, gia đình và chính bản thân NKT vào quá trình chăm sóc sức khoẻ NKT.
Theo quy định của pháp luật về NKT, cụ thể tại Điều 24 và Điều 25 Luật NKT 2010 quy định nội dung phục hồi chức năng NKT bao gồm: Phục hồi chức năng thông qua các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Theo đó:
- Phục hồi chức năng thông qua các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng.
Căn cứ vào loại hình của cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng, có cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng công lập và ngoài công lập.
Khác với trước đây, việc thực hiện chỉnh hình, phục hồi chức năng cho NKT chủ yếu được tiến hành tại các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng của Nhà nước,hiện nay, với việc quy định đa dạng các loại hình, phong phú các hình thức, mở rộng phạm vi hoạt động của các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng, pháp luật không chỉ đảm bảo quyền hiến định, mà thể hiện trách nhiệm sâu sắc của Nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc chăm sóc sức khoẻ cho những người kém may mắn trong xã hội, đảm bảo mục đích an sinh xã hội.
- Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.
Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là biện pháp thực hiện tại nơi, với những người mà NKT cùng sinh sống, nhằm chuyển giao kiến thức về vấn đề khuyết tật, kĩ năng phục hồi và thái độ tích cực đến NKT, gia đình của họ và cộng đồng, tạo sự bình đẳng về cơ hội và hoà nhập cộng đồng cho NKT.
Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng hình thành trên cơ sở hợp nhất các dịch vụ y tế vào các dịch vụ xã hội.Trước đây, hoạt động phục hồi chức năng chỉ được thực hiện tại các cơ sở y tế, do những người có chuyên môn và sử dụng thiết bị do ngành y tế cung cấp, không đạt được hiệu quả như mong muốn, lại tốn kém thời gian, tiền bạc, không phù hợp với nhu cầu và đời sống của NKT. Cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội, ngành y học đã luôn đổi mới về phương pháp phục hồi chức năng, tăng cường các hoạt động chăm sóc tại nhà hoặc để NKT tự chăm sóc dưới sự hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Hiệu quả của phương pháp này cao hơn rất nhiều trong việc giúp NKT vượt qua những khó khăn của khuyết tật trong môi trường xã hội bình thường[2].

III. Thực tiễn thực hiện CSSK NKT ở Việt Nam

CSSKban đầu là việc làm vô cùng quan trọng trong xã hội hiện nay khi mà nhận thức của người dân về chăm lo sức khỏe cho bản thân ngày càng tăng cao, đặc biệt là đối với NKT. Việc CSSKban đầu cho NKT được quy định tạiĐiều 21 Luật NKT 2010. Theo đó tổ chức có trách nhiệm trong tuyến đầu này thuộc về trạm ý tế cấp xã.
Hiện nay, Nhà nước ta ngày càng chú trọng hơn đến việc đầu tư về số lượng cũng như chất lượng tại các cơ sở khám chữa bệnh ở địa phương.Từ năm 2012 – 2015, có đến 70% trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật[3]. Theo thống kê, y tế cơ sở nước ta hiện phát triển thành một mạng lưới rộng khắp trong cả nước, trong đó có 88% thôn, ấp, bản, tổ dân phố có nhân viên y tế hoạt động; 100% số xã, phường, thị trấn (11.161) có cán bộ y tế với 49.627 giường; 78% trạm y tế xã có bác sĩ làm việc.[4]
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì nó vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: hầu hết các cơ sở y tế cấp xã hiện nay thiếu người có chuyên môn, kinh nghiệm về khám, chữa bệnh cho NKT. Đa số là y tá, số lượng bác sĩ thì cực kì hiếm. Thêm vào đó rất ít trạm y tế xã thực hiện việc lập hồ sơ quản lý đối tượng, theo dõi tình hình sức khỏe của NKT theo quy định.NKT, nhất là NKT vận động, người khiếm thị ở các vùng nông thôn vốn đi lại đã khó khăn, trong khi các cơ sở y tế xã lại thiếu sự quan tâm.Cơ sở vật chất thì vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng được hết các nhu cầu hiện nay.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên một phần là do điều kiện kinh tế tài chính còn hạn chế nên không thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội, đặc biệt là đối với bộ phận NKT. Một nguyên nhân khác nữa là những người có trình độ chuyên môn cao thường không về làm trong các cơ sở ý tế ở địa phương. Do đó dẫn đến tình trạng “thừa chỗ nọ mà thiếu chỗ kia”. Hơn nữa, giai đoạn này lại rất cần thiết cho việc phòng ngừa, phát hiện kịp thời, nhưng cũng phải hết sức chính xác để mà có phương án chữa trị đạt hiệu quả cao. Do đó, yếu tố trình độ chuyên môn giữ một vai trò vô cùng quan trọng, tiếp đến là các trang thiết bị.
Do đó, cần có giải pháp để khắc phục tình trạng trên. Giải pháp bao quát nhất là kiện toàn mạng lưới y tế địa phương, cụ thể là: thứ nhất, có những chính sách thu hút nhân tài về làm việc tại các cơ sở y tế địa phương(chủ yếu đánh vào nguồn thu chính là tăng lương). Thứ hai, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ y tế ở địa phương. Thứ ba, chú trọng đầu tư các trang thiết bị hiện đại mà thiết thực nhất đối với mỗi cơ sở ý tế. Có như vậy mới phát huy được một cách tối đa vai trò của công tác CSSKban đầu đối với NKT nói riêng và với toàn thể nhân dân nói chung.

2. Thực tiễn khám bệnh, chữa bệnh ở Việt Nam

Ghi nhận quy định của các tổ chức quốc tế, các nước, pháp luật Việt Nam đã quy định về chính sách khám bệnh, chữa bệnh của NKT khá đầy đủ. Do đó, trong thời gian qua công tác khám bệnh, chữa bệnh cho NKT đạt được những kết quả nổi bật, cụ thể:
Thứ nhất,NKT khi ốm đau, bệnh tật được khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám, chữa bệnh nơi họ cư trú.Trong trường hợp bệnh, tật diễn biến xấu hơn, NKT được giới thiệu lên y tế tuyến trên để được tiếp tục theo dõi, chăm sóc, điều trị theo quy định của Luật Khám, chữa bệnh và Luật Bảo hiểm y tế, khi đó, sẽ được bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo quy định. Theo báo cáo ở các địa phương tính đến nay, có 50,35% số hộ có NKT được hưởng các chính sách hỗ trợ về y tế, trong đó, 38,17% được khám, chữa bệnh miễn phí và 45,43% được cấp thẻ bảo hiểm y tế[5].
Thứ hai,theo Bộ Y tế, hiện ở nước ta mạng lưới phục hồi chức năng được củng cố và hoàn thiện. Các bệnh viện, khoa và các cơ sở phục hồi chức năng từng bước hiện đại hóa để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người bệnh. Công tác phòng ngừa, phát hiện sớm và can thiệp sớm, phục hồi chức năng cho NKT được đẩy mạnh, nâng cao chất lượng trên cơ sở cung cấp đa dạng các hình thức phục hồi chức năng, thay đổi tích cực nhận thức của cộng đồng đối với NKT để họ không cảm thấy mặc cảm.
Thứ ba, việc ra đời của Luật Bảo hiểm y tế đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước dành cho cộng đồng. Với 25/52 Điều được sửa đổi, bổ sung, Luật có một số điểm mới mang tính đột phá mạnh mẽ, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Bảo hiểm y tế hiện hành, tạo cơ chế pháp lý bảo đảm quyền lợi của người tham gia nhằm thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thì công tác khám bệnh, chữa bệnh cho NKT còn những hạn chế nhất định, đó là:
Thứ nhất, thiếu nhân lực và kinh phí cho khám bệnh, chữa bệnh cho NKT. Tại các địa phương, việc triển khai công tác này hiện đang rất thiếu nhân lực và không có kinh phí hoạt động vì kinh phí chủ yếu vẫn do ngành y tế cấp. Bên cạnh đó, hệ thống mạng lưới khám bệnh, chữa bệnh mỏng, thiếu cán bộ; mô hình tổ chức các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Cũng theo kết quả khảo sát, hầu hết cơ sở y tế cấp xã thiếu người có chuyên môn, kinh nghiệm về khám, chữa bệnh cho NKT. Rất ít trạm y tế xã thực hiện việc lập hồ sơ quản lý đối tượng, theo dõi tình hình sức khỏe của NKT theo quy định.Đây là thiệt thòi rất lớn đối với họ.
Theo bà Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS), các dịch vụ chăm sóc y tế, đặc biệt là vùng nông thôn, miền núi còn nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc chữa bệnh cho NKT. Thực tế cho thấy, đến nay phần lớn NKT tại nước ta chưa được tạo điều kiện để khắc phục những khó khăn liên quan đến chức năng cơ thể để phát huy năng lực, chủ động tham gia vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội.Chính việc nhận thức chưa đầy đủ, sự kỳ thị phân biệt đối xử với NKT là một trong những nguyên nhân của tình trạng này[6].
Thứhai, tỷ lệ NKT sử dụng thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện đi khám bệnh tại các cơ sở y tế không cao, khoảng 70%; hoặc đối tượng không thực hài lòng với chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm.Việc triển khai chính sách này trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Một số rào cản trong sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đối với NKT là phải khám theo đúng tuyến mà trạm y tế xã chưa có đủ trang thiết bị và nhân lực đảm bảo chất lượng cho công việc này; thủ tục sử dụng dịch vụ còn phức tạp; thời gian chờ đợi lâu, mất thời gian.Việc nhân viên y tế không nhiệt tình hay chất lượng trang thiết bị và loại thuốc được bảo hiểm chi trả nghèo nàn cũng là những nguyên nhân khiến NKT tật không sử dụng thẻ bảo hiểm y tế.
Thứ ba, nhiều NKT chưa biết quyền được khám bệnh, chữa bệnh hoặc biết nhưng không thể tiếp cận với dịch vụ này do hoạt động truyền thông chưa sâu rộng, phương pháp truyền thông chưa phù hợp với các dạng tật khác nhau nên thông tin chưa đến được với đông đảo NKT.

3. Thực tiễn phục hồi chức năng ở Việt Nam

Để CSSKcho NKT, Bộ Y tế đã triển khai chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho NKT. Đến năm 2010, chương trình trải rộng khắp 51 tỉnh, thành phố, tới 337 quận, huyện, 4.604 xã, phường trong cả nước. Thông qua chương trình, đã có 170.000 NKT được chăm sóc sức khỏe, 23,2% NKT có nhu cầu được phục hồi chức năng… Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Y tế, hiện mới chỉ có khoảng 10% số NKT được tham gia vào các chương trình phục hồi chức năng.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1109/QĐ–TTg, phê duyệt đề án hỗ trợ NKT giai đoạn 2012 – 2020. Theo đó, giai đoạn 2012 – 2015, phấn đấu mỗi năm có 70% NKT được tiếp cận các dịch vụ y tế dưới các hình thức khác nhau; 70% trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển, được can thiệp sớm các dạng khuyết tật; khoảng 60.000 trẻ em và NKT được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng, cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp… Giai đoạn 2016–2020, tiếp tục thực hiện các nội dung của giai đoạn 2012–2015 với chỉ tiêu cao hơn cho từng lĩnh vực như tiếp cận y tế là 90%,  90% trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật; khoảng 70.000 trẻ em và người khuyết tật được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp…[7]
Từ số liệu trên có thể thấy, nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ phục hồi chức năng cho NKT.Tuy nhiên, tỷ lệ NKT được tiếp cận các chương trình phục hồi chức năng còn tương đối thấp. Do đó, đòi hỏi cần phải tích cực hơn nữa trong việc thực hiện các chính sách nhằm giúp cho NKT hòa nhập với cộng đồng xã hội.



[1]Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011.
[2]Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011.
[3] http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Xa-hoi/560984/tro-giup-y-te-doi-voi-nguoi-khuyet-tat-
[4] http://laodong.com.vn/suc-khoe/y-te-co-so-dang-bi-coi-nhe-377105.bld
[5] http://www.baomoi.com/phuc-hoi-chuc-nang-cho-nguoi-khuyet-tat-co-hoi-tai-hoa-nhap-cong-dong/c/8038286.epi
[6] http://www.baomoi.com/phuc-hoi-chuc-nang-cho-nguoi-khuyet-tat-co-hoi-tai-hoa-nhap-cong-dong/c/8038286.epi
[7] http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Xa-hoi/560984/tro-giup-y-te-doi-voi-nguoi-khuyet-tat-
Chi tiết...

Thực trạng về đảm bảo tiếp cận giao thông công cộng (đối với phương tiện tầu hỏa, máy bay) ở Việt Nam

Thực trạng về đảm bảo tiếp cận giao thông công cộng (đối với phương tiện tầu hỏa, máy bay) ở Việt Nam
Để đảm vảo quyền tiếp cận giao thông công cộng, Luật Người khuyết tật 2010 đã có những quy định về việc tham gia giao thông đối với người khuyết tật (Điều 41) và những yêu cầu đối với phương tiện giao thông công cộng (Điều 42). Ngoài ra, các văn bản pháp luật liên quan cũng đã có những quy định về vấn đề này, cụ thể:
Về mặt thiết kế, phương tiện giao thông công cộng nói chung, phương tiện tầu hỏa, máy bay nói riêng, để người khuyết tật tiếp cận sử dụng phải đáp ứng quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về giao thông tiếp cận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Chẳng hạn trong lĩnh vực đường sắt, các toa xe khách có xét đến việc tiếp cận sử dụng cho người khuyết tật phải đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật được quy định tại Thông tư số 67/2011/TT – BGTVT của Bộ Giao thông vận tải[1], ví dụ: phải có thiết bị đưa xe lăn lên xuống toa xe khách; các toa xe ghế ngồi phải có hệ thống đai an toàn... Nhìn chung, các phương tiện giao thông phải có chỗ ưu tiên cho người khuyết tật, có công cụ hỗ trợ lên, xuống thuận tiện hoặc sự trợ giúp phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật (Điều 42 khoản 1, 2 Luật người khuyết tật).[2]
Về trách nhiệm của các chủ thể đối với người khuyết tật trong giao thông, ở từng hình thức hoặc phương tiện giao thông, pháp luật đều có những quy định cụ thể. Trong lĩnh vực đường sắt, doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách có nghĩa vụ tổ chức lực lượng phục vụ hành khách là người khuyết tật vào ga, lên tàu, xuống tàu thuận lợi (Điểm c Khoản 2 Điều 97 Luật đường sắt năm 2005). Đối với các hãng hàng không, hành khách là người khuyết tật phải được quan tâm chăm sóc trong quá trình vận chuyển (Điều 145 Khoản 2 Luật hàng không dân dụng năm 2006).Người khai thác phải xây dựng phương thức vận chuyển hành khách có khả năng di chuyển bị hạn chế.[3]
Ngoài ra, khi sử dụng các phương tiện giao thông công cộng, người khuyết tật được ưu tiên mua vé, được giúp đỡ, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện. Người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng được miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao thông bằng một số phương tiện giao thông công cộng theo quy định của Chính phủ (Điều 41 Khoản 3, 4 Luật người khuyết tật).[4]
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá đầy đủ và toàn diện nhằm đảm bảo quyền tiếp cận giao thông công cộng nói chung và đối với phương tiện tầu hỏa, máy bay nói riêng, phù hợp với Công ước LHQ về quyền của người khuyết tật.
Trong báo cáo mới nhất về dịch vụ hành khách là người khuyết tật gửi Cục Hàng không Việt Nam, Tổng giám đốc Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) – ông Lê Mạnh Hùng  cho biết, hiện tại tất cả các cảng hàng không đều đã bố trí chỗ ngồi riêng cho người già yếu, phụ nữ có thai, người khuyết tật. Tại hầu hết các cảng đều có bố trí ram dốc cho người khuyết tật tại điểm tiếp cận, bố trí ghế chờ với số lượng không nhỏ hơn 5% tổng số ghế. Tương tự, nhà vệ sinh cho người khuyết tật cũng đảm bảo chiếm ít nhất là 5% tổng số phòng vệ sinh.Tuy nhiên, về hệ thống giao thông và khu vực vệ sinh cho người khuyết tật mới chỉ có các cảng được xây dựng và sửa chữa trong khoảng 5 năm trở lại đây như: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Pleiku, Phú Bài, Phù Cát, Thọ Xuân, Cát Bi, Vinh… là có đầy đủ. Những càng hàng không chưa đáp ứng yêu cầu trên sẽ được lên kế hoạch sửa chữa trước năm 2020, đảm bảo phục vụ tốt người khuyết tật.
Liên quan đến trang thiết bị phục vụ người khuyết tật, ông Hùng thừa nhận hiện chỉ 5/21 sân bay tại Việt Nam gồm Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Phú Quốc, Liên Khương có xe nâng phục vụ người khuyết tật.[5]
Sự việc hãng hàng không Vietjet từ chối phục vụ một hành khách người khuyết tật đã khiến nhiều người bày tỏ thái độ không đồng tình.Đồng thời cũng là một lời cảnh báo việc thực thi quy định của pháp luật trên thực tế còn nhiều hạn chế.
Theo bà Nguyễn Hồng Hà, Giám đốc Chương trình sống độc lập và Trung tâm sống độc lập Hà Nội, sự chênh lệch giữa văn bản và trên thực tế còn rất lớn.Thực tế hiện nay, dịch vụ hàng không chỉ hỗ trợ tốt cho những người đi lại được như người khiếm thị, người khuyết tật vận động nhẹ. Người khiếm thính không có đủ thông tin như những thay đổi về cổng ra máy bay, việc phục vụ trong chuyến bay... Bên cạnh đó, nhiều quy định về dịch vụ không thân thiện đối với người khuyết tật.Nhân viên phục vụ không hiểu dịch vụ và thiết bị hỗ trợ không chuyên nghiệp.
Đại diện Cục Hàng không Việt Nam cũng thừa nhận hiện nay hạ tầng nhiều cảng hàng không, đặc biệt là các cảng hàng không địa phương còn hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ cho người khuyết tật.Công tác trợ giúp hành khách của các hãng hàng không Việt Nam còn thiếu sót. Đội ngũ nhân viên đại diện cho các hãng hàng không làm việc trực tiếp với hành khách, đặc biệt khách là người khuyết tật chưa nắm rõ về quy trình phục vụ của hãng, thông tin hướng dẫn hành khách chưa được truyền tải rõ ràng, đầy đủ…[6]
Đối với phương tiện tầu hỏa, một cuộc khảo sát cho thấy, trên các toa đều chưa có vị trí hay toa ưu tiên dành riêng cho người khuyết tật. Cửa tàu hẹp, chỉ rộng 72cm nên xe lăn không thể tiếp cận. Toa tàu có 3 bậc lên xuống, các bậc lên xuống cao, bậc đầu tiên là 45cm, các bậc tiếp theo là 30cm gây khó khăn rất lớn cho người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật vận động.
Hành lang đi lại giữa hai hàng ghế trong toa chỉ rộng 60cm, khoảng không gian trên các toa giường nằm hẹp, không có chỗ cho xe lăn di chuyển. Mặc dù có hệ thống âm thanh thông báo tên ga sắp đến, nhưng đa số các tầu không có hệ thống bảng thông tin điện tử nên người khiếm thính sẽ gặp khó khăn trong việc nhận biết điểm đến. Khu vệ sinh thiết kế không phù hợp với người khuyết tật, do chật chội và do độ lắc của tầu.
Các nhà ga hành khách hiện nay đều có nhà chờ rộng rãi, trang bị nhiều ghế ngồi. Tuy nhiên, các nhà ga không có đường dốc đúng tiêu chuẩn cho xe lăn lên xuống gây khó khăn cho việc di chuyển của người khuyết tật vận động, không có hệ thống dẫn đường, gờ cảnh báo trước đường ga, vị trí lên tầu, gây khó khăn cho người khiếm thị…[7]
Thứ nhất, cần nhanh chóng rà soát hệ thống văn bản chuyên ngành tiến tới sửa đổi bổ sung, thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch thực hiện cải tạo, sửa chữa cơ sở hạ tầng để NKT tiếp cận giao thông theo các quy chuẩn, hướng dẫn tại các văn bản đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Thứ hai, cần có những biện pháp kiểm tra, giám sát, xử phạt đối với tổ chức, cá nhân vi phạm những quy định về bảo đảm tiếp cận phương tiện giao thông công cộng nhằm đảm bảo quyền lợi cho người khuyết tật, tránh để xảy ra những trường hợp như vụ việc của hãng Vietjet Air.
Thứ ba, tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về nhu cầu và quyền được bảo đảm tiếp cận và tham gia giao thông công cộng.
Thứ tư, đảm bảo nguồn tài chính, huy động nguồn xã hội hóa để đẩy nhanh tiến trình cải tạo cơ sở hạ tầng, sửa chữa, thay thế các phương tiện để phù hợp, đảm bảo cho người khuyết tật có thể tiếp cận các phương tiện giao thông công cộng, trong đó có tầu hỏa và máy bay.



[1] Thay thế cho Quyết định 21/2006/QĐ – BGTVT;
[2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011, tr. 172;
[3]Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011, tr. 173;
[4] Sđd, tr.173;
[5]http://www.tapchigiaothong.vn/nam-2020-moi-du-xe-nang-phuc-vu-nguoi-khuyet-tat-tai-san-bay-d2216.html
[6] http://voh.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/giup-nguoi-khuyet-tat-tiep-can-giao-thong-hang-khong-136233.html
[7]Viện Xã hội học, Tạp chí Xã hội học số 1 (117), 2012.
Chi tiết...

Quá trình biến đổi cách tiếp cận của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực người khuyết tật

Quá trình biến đổi cách tiếp cận của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực người khuyết tật
Người khuyết tật chiếm tỷ lệ khá lớn trong xã hội, ước tính có khoảng 10% dân số thế giới (hơn 650 triệu người) phải sống chung với những khuyết tật. Khuyết tật là nguyên nhân khiến nhiều người phải đối mặt với nguy cơ bị vi phạm nghiêm trọng các quyền và nhân phẩm.Vì vậy, để thay đổi cuộc sống người khuyết tật trước tiên cần bắt đầu từ thay đổi trong nhận thức của xã hội.[1]
Trong thế kỷ trước, người ta đã chứng kiến một cuộc cách mạng lớn về vấn đề người khuyết tật, qua đó thay đổi cách đề cập, nhìn nhận, tương tác và hỗ trợ đối với họ, cụ thể:
Trong giai đoạn này, người khuyết tật mới chỉ được coi là đối tượng của tình thương; theo đó một quan niệm phổ biến là người khuyết tật cần được hỗ trợ, chăm sóc và họ không thể và không đủ khả năng chăm lo cho cuộc sống của mình. Việc bảo vệ, hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên cách tiếp cận của lòng nhân đạo chứ không bắt nguồn từ nhận thức rằng họ cũng là những chủ thể của quyền, còn nhà nước, xã hội và các cá nhân khác là những chủ thể có nghĩa vụ phải tôn trọng và đảm bảo thực hiện các quyền ấy.
Các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960, như: Tuyên ngôn Liên hợp quốc (LHQ) về Quyền con người năm 1948, Công ước của LHQ về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 và Công ước của LHQ về quyền dân sự và chính trị năm 1966… nhưng đều không đề cập trực tiếp đến người khuyết tật.
Đến năm 1970, xuất phát từ Hoa Kỳ – bằng nhiều hình thức khác nhau, người khuyết tật và các hiệp hội của họ đã minh chứng rằng họ hoàn toàn có khả năng và có quyền được sống và lao động như những người bình thường. Sự nỗ lực bền bỉ của họ cùng với sự thay đổi về nhận thức trong xã hội đã dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ về chính sách và pháp luật của Hoa Kỳ về người khuyết tật. Đến những năm 1980, những quan niệm nhân quyền tiến bộ của Hoa Kỳ về người khuyết tật được phổ biến ở nhiều nước như Thụy Điển, Nhật Bản, Brazin…và gần đây là Hàn Quốc, Thái Lan… Tư tưởng cốt lõi của nhận thức mới này là các vấn đề về người khuyết tật được xem xét dưới góc độ quyền con người, dựa trên quan điểm tất cả mọi người đều có quyền được sống một cuộc sống đầy đủ và có phẩm giá đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948.[2]
Bản Tuyên bố của LHQ về quyền người chậm phát triển và Tuyên bố về quyền của người khuyết tật được thông qua vào những năm 70 được coi là văn kiện quốc tế đầu tiên quy định rõ các nguyên tắc nhân quyền liên quan đến người khuyết tật. Việc áp dụng những công cụ pháp lí này vào thời gian đó là bước tiến quan trọng trong việc công nhận quyền của người khuyết tật, nâng cao nhận thức về quyền con người của người khuyết tật. Tuy nhiên, các văn kiện này sớm bị chỉ trích bởi người ta cho rằng chúng vẫn chỉ thể hiện các quan điểm y tế và từ thiện đối với người khuyết tật và cuối cùng làm gia tăng thêm thái độ gia trưởng đối với người khuyết tật.[3]
Theo quan điểm khuyết tật cá nhân (quan điểm y tế) này, họ cho rằng khuyết tật là do hạn chế cá nhân, là ở chính con người đó, chú trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường vật thể xung quanh người khuyết tật. Từ đó, họ quan niệm người khuyết tật có thể hưởng lợi từ phương pháp khoa học như thuốc điều trị và các công nghệ cải thiện chức năng.Mô hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội.Như vậy, mô hình y tế nhìn nhận người khuyết tật là người có vấn đề về thể chất và đưa ra giải pháp chữa trị để làm người đó “bình thường”.[4]
Vào thập niên 80, việc xác định lại vấn đề người khuyết tật theo mô hình xã hội diễn ở cấp quốc gia như là kết quả của các phong trào ủng hộ cho quyền khuyết tật đang dấy lên ở tầm quốc tế. Và đến cuối những năm 90, mô hình xã hội  trở nên khá nổi trội trong những nghiên cứu khuyết tật trên thế giới, đó là khái niệm được sử dụng phổ biến nhất. Những người theo quan điểm khuyết tật xã hội nhìn nhận khuyết tật là hệ quả bị xã hội loại trừ và phân biệt. Bởi vì xã hội được tổ chức không tốt nên những người khuyết tật phải đối mặt với một số phân biệt đối xử như: i/Thái độ: thể hiện sự sợ hãi, sự thiếu hiểu biết và ít kỳ vọng (ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng); ii/ Môi trường: dẫn đến việc không tiếp cận về vật chất, ảnh hưởng đến tất cả các mặt của đời sống (trường học, cửa hàng, tòa nhà công cộng, giao thông…); iii/ Thể chế: là những phân biệt mang tính pháp lý (ví dụ như không được lập gia đình hay có con, không được nhận vào trường học…)[5].
Mô hình xã hội khuyết tật coi những khiếm khuyết của con người là bình thường, thể hiện sự đa dạng về hình dáng của con người, và chỉ có xã hội là có vấn đề, là ‘khuyết tật”, qua đó đưa ra giải pháp là phải thay đổi xã hội. Chính xã hội và chính sách cần phải cải tổ chứ không phải người khuyết tật[6].
Các quyền con người của người khuyết tật trở thành phần quan trọng trong chương trình nghị sự của các chính sách quốc tế. Ngày càng nhiều các chương trình, quy tắc, chính sách đối với người khuyết tật được thông qua, có thể kể đến như:Chương trình hành động thế giới liên quan đến người khuyết tật đã được thông qua bởi Đại hội đồng tại phiên họp thứ 37 vào năm 1982; Các quy tắc tiêu chuẩn của LHQ về bình đẳng hoá cơ hội cho người khuyết tật (1993); Công ước LHQ về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ (1999), cụ thể hóa một số nội dung liên quan đến phụ nữ khuyết tật; Các nguyên tắc bảo vệ người mắc bệnh tâm thần và Cải thiện việc chăm sóc sức khỏe tâm thần đã được thông qua năm 1991…
Giai đoạn 1983 – 1992 được LHQ lấy làm thập kỉ của người khuyết tật.Và đặc biệt, ngày 13/12/2006, tại kì họp lần thứ 61 của Đại hội đồng LHQ, các nước đã nhất trí thông qua Công ước về quyền của người khuyết tật.Đây là văn bản quy phạm pháp luật quốc tế đầu tiên khẳng định mọi tiếp cận của người khuyết tật đều dựa trên quyền của người khuyết tật. Công ước nhằm thúc đẩy, bảo vệ và đảm bảo người khuyết tật được hưởng đầy đủ và bình đẳng tất cả quyền con người và quyền tự do cơ bản, đồng thời, thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá vốn có của người khuyết tật.[7]
Từ các phân tích trên, có thể thấy rằng, trong thời gian qua, pháp luật quốc tế về người khuyết tật đã có những biến đổi trong cách nhìn nhận về người khuyết tật, từ việc coi những người khuyết tật là đối tượng của tình thương, là đối tượng “vô dụng” hay “bỏ đi” trong những năm 40, 50 của thế kỷ XX, đến những năm 70 đã có những biến đổi về cách tiếp cận khi coi người khuyết tật là người, và có các quyền con người như những người bình thường. Và đến nay, với những quan điểm tiến bộ về mô hình khuyết tật xã hội, pháp luật quốc tế đã không coi những khiếm khuyết của những người khuyết tật là khuyết tật, mà khuyết tật ở đây chính là sự kỳ thị, sự phân biệt đối xử của xã hội.



[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011;
[2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011, tr.1 – 2;
[3]Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011, tr.57;
[4] Sđd, tr.2
[5] Sđd, tr.4 – 5;
[6] “Quản lý giáo dục hòa nhập”, Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Phụ nữ, 2010, tr45-46
[7] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011, tr. 61.
Chi tiết...

Quy định về việc đi bộ của người khuyết tật

Quy định về việc đi bộ của người khuyết tật
                1. Quy định của pháp luật vê việc đi bộ của người khuyết tật và nhận xét
Đối với người khuyết tật, việc tham gia giao thông là điều khá khó khăn, đặc biệt với những người khuyết tật vận động và người khiếm thị. Để hỗ trợ cho người khuyết tật có thể tham gia giao thông một cách thuận tiện nhất, cụ thể ở đây là vấn đề về đi bộ, Luật Giao thông đường bộ Việt Nam năm 2008 đã có những quy định riêng cho người khuyết tật. Cụ thể nhất tại Điều 33 như sau:
“Điều 33.Người khuyết tật, người già yếu tham gia giao thông
1. Người khuyết tật sử dụng xe lăn không có động cơ được đi trên hè phố và nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ.
2. Người khiếm thị khi đi trên đường bộ phải có người dắt hoặc có công cụ để báo hiệu cho người khác nhận biết đó là người khiếm thị.
3. Mọi người có trách nhiệm giúp đỡ người khuyết tật, người già yếu khi đi qua đường.”
Quy định tại Khoản 1 Điều này cho thấy, người khuyết tật sử dụng xe lăn không có động cơ được phép đi trên vỉa hè của đường phố và nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ. Họ tham gia giao thông với tư cách là người đi bộ. Quy định này về mặt pháp luật là khá hợp lý.
Khoản 2 quy định về việc đi bộ của người khiếm thị. Theo đó nếu muốn đi lại trên đường bộ thì người khiếm thị hoặc phải có người đi cùng. Trường hợp không có ai đi cùng thì  người khiếm thị phải trang bị công cụ hỗ trợ để báo hiệu cho người tham gia giao thông và người đi bộ khác nhận biết đó là người khiếm thị. Đây là quy định để giúp người khiếm thị đi đường bộ một cách an toàn hơn. Tuy nhiên về quy định sử dụng công cụ hỗ trợ như thế nào lại không quy định rõ ràng. Đôi khi họ sử dụng công cụ quá nổi trội, khiến người tham gia giao thông phải chú ý. Đối với những người chưa vứt bỏ được sự mặc cảm thì quy định đó chỉ khiến họ “không muốn bước chân ra đường”.
Khoản 3 Điều này quy định về trách nhiệm chung cho mọi người khi thấy người khuyết tật đi qua đường phải giúp đỡ. Quy định này mang tính nhân văn cao, thể hiện sự quan tâm và giúp đỡ của Nhà nước cũng như cộng đồng đối với người khuyết tật.
Khoản 4 Điều 11 quy định: “Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ và nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường.
Những nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, người điều khiển phương tiện phải quan sát, nếu thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường thì phải giảm tốc độ, nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường bảo đảm an toàn.”
Khoản 4 Điều 11 quy định về việc nhường đường cho người khuyết tật, cả trong trường hợp người khuyết tật sang đường tại nơi không có vạch kẻ đường. Tuy nhiên quy định này chỉ nói đến xe lăn của người khuyết tật, tức chỉ đối tượng khuyết tật sử dụng xe lăn mới được nhường đường khi sang đường? Người khiếm thị thì không được nhường đường? Quy định này cần bổ sung thêm, tránh trường hợp liệt kê đối tượng nhưng lại liệt kê thiếu đối tượng.
Khoản 1 Điều 44 quy định về bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và an toàn giao thông của công trình đường bộ:Công trình đường bộ xây dựng mới, nâng cấp và cải tạo phải bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện an toàn giao thông cho người, phương tiện tham gia giao thông đường bộ, trong đó có người đi bộ và người khuyết tật. Đường đô thị xây dựng phải có hè phố, phần đường, cầu vượt, hầm và tổ chức giao thông cho người đi bộ, người khuyết tật đi lại an toàn, thuận tiện.”
Quy định ở khoản 1 Điều 44 này yêu cầu các công trình đường bộ xây mới phải đảm bảo tiêu chí đảm bảo người khuyết tật có thể sử dụng, đi lại an toàn và thuận tiện. Quy định này rất tiến bộbởi lẽ nếu đường đi bộ mà quá gồ ghề, quá dốc hoặc có quá nhiều vật cản thì sẽ gây nhiều khó khăn cho người khuyết tật trong việc đi bộ.Ví dụ như giữa vỉa hè là lòng đường cần có đoạn đường dốc để người khuyết tật sử dụng xe lăn có thể dễ dàng lên xuống hơn. Chỉ cần thay đổi phần nhỏ công trình đường bộ là người khuyết tật có thể thích nghi dễ hơn với việc đi lại. Tuy nhiên, thực tế, những công trình này chưa thực sự chú trọng đến việc thiết kế theo hướng cả người bình thường và người khuyết tật đều có thể sử dụng. Hoặc nếu có thì làm chưa thực sự tốt.
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam luôn chú trọng đến quyền lợi của người nguyết tật. Những quy định về đi bộ của người khuyết tật tuy không nhiều nhưng cũng cho thấy rằng người khuyết tật nhận được sự quan tâm từ Nhà nước và Chính phủ.  Tuy nhiên những quy định về đi bộ cho người khuyết tật còn hạn chế, cần bổ sung thêm để đảm bảo cho người khuyết tật tham gia giao thông – đi bộ một cách an toàn và thuận tiện nhất.
2.     Thực tiễn thực hiện pháp luật về đi bộ của người khuyết tật và kiến nghị phương hướng hoàn thiện
Thực tiễn hiện nay, nước ta rất ít công trình giao thông mà người khuyết tật có thể tự đi được. Một trong số ít đó có thể kể đến phố đi bộ Nguyễn Huệ - Thành phố Hồ Chí Minh.
Ở nhiều nước trên thế giới, vỉa hè được thiết kế không chỉ thuận tiện cho người bình thường mà còn hỗ trợ cả cho người khuyết tật đi lại dễ dàng. Tuy nhiên, hiện nay ở Hà Nội vẫn còn một số tuyến phố được thiết kế chưa thực sự thuận tiện cho người khuyết tật. Ví dụ phố Liễu Giai, đây là một trong những phố ở Hà Nội được công nhận là đẹp nhất thủ đô. Hầu như các đường phố tiếp giáp với phố này đều có thiết kế hiện đại. Lòng đường được phân làn cho ôtô, xe máy, xe đạp tham gia giao thông một cách khá thuận tiện. Nhưng hạ tầng cơ sở của các phố này đều chưa phù hợp với người cao tuổi, cáccháu nhỏ và nhất là người khuyết tật sử dụng xe lăn.
Đến tuyến phố này, rất dễ nhận thấy hai bên vỉa hè phố Liễu Giai đều tương đối cao so với mặt đường. Các lối lên xuống lại có bó vỉa hè hạ chìm vẫn cao hơn 2cm so với mặt đường và đường lên dốc chưa đủ độ thoai thoải giúp người khuyết tật sử dụng xe lăn lên xuống dễ dàng. Các điểm dừng xe buýt, các lối đi qua đường dành cho người đi bộ cũng hầu như chưa có lối lên vỉa hè đủ bề rộng 1,2m theo tiêu chuẩn.
Nhiều công trình cũng không thiết kế các lối đi riêng cho người khuyết tật. Điều này dẫn đến việc đi lại của người khuyết tật rất khó khăn, đặc biệt là người khiếm thính.
Ngoài ra, ý thức nhường đường cho người khuyết tật của một số người bình thường tham gia giao thông không cao, đặc biệt là hiện tượng làm lơ khi thấy người khuyết tật sang đường. Tình tương thân tương ái liệu có còn trong xã hội này? Đây là điều thực sự đáng buồn.
Để giúp người khuyết tật có thể tham gia giao thông đường bộ một cách an toàn và dễ dàng hơn, cần có sự phối hợp của các ban ngành với nhau, của nhân dân với nhau. Sau đây em xin kiến nghị một số phương hướng sau:
Thứ nhất, cần quy định rõ hơn về những ưu tiên cho người khuyết tật khi tham gia giao thông, đặc biệt là việc đi bộ trên phần đường của mình.
Thứ hai, kèm theo mỗi công trình đường bộnói riêng và công trình công cộng nói chung, cần có những đường đi để người khuyết tật có thể đi được. Hiện nay trên thế giới, có những thiết kế riêng cho người khuyết tật đi bộ mà chi phí không quá đắt đỏ. Ví dụ ở Nhật Bản, tại mỗi giao lộ có đèn xanh đèn đỏ, Chính phủ Nhật Bản cho lắp đặt các thiết bị tiếng kêu để báo hiệu đèn xanh đèn đỏ cho người khiếm thị. Điều này không quá tốn kém nhưng hiệu quả nó mang lại vô cùng lớn. Hoặc các công trình đường đi bộ có độ gồ ghề để người khiếm thị có thể xác định “đó là phần đường đi bộ”. Hay từ vỉa hè xuống đến lòng đường, cần có đoạn đường dốc đủ rộng để người khuyết tật dùng xe lăn có thể tự mình đi xuống…Có rất nhiều công trình thiết kế để hỗ trợ người khuyết tật. Chỉ là những thay đổi nhỏ thôi nhưng mang lại ý nghĩ vô cùng lớn với người khuyết tật.
Thứ ba, phổ biến pháp luật giao thông đường bộ cho người khuyết tật để họ nắm rõ luật lệ khi tham gia giao thông: phần đường, tín hiệu đèn giao thông…
Thứ tư, nâng cao ý thức tham gia giao thông cho người dân, nâng cao ý thức cộng đồng, xóa bỏ sự kì thị đối với người khuyết tật.

Tiểu kết: Để giúp người khuyết tật dễ dàng và an toàn khi đi bộ trên các tuyến phố, Nhà nước cần bắt tay thực hiện chứ không phải quy định xong để đó. Đã có nhiều công trình chú trọng đến việc tạo những lối đi để người khuyết tật có thể tự đi được, tuy nhiên, không phải công trình nào người khuyết tật cũng có thể sử dụng được. Có nhiều lý do lý giải cho điều này như chất lượng công trình chưa tốt, có sai sót khi thiết kế (đường dốc quá dốc và trơn, đường gồ ghề quá gồ ghề dẫn đến người khuyết tật vấp ngã…)… Do vậy, cần xây dựng đường đi dành cho người khuyết tật bằng chính cái tâm của mình chứ không phải xây dựng để có, để thể hiện cho nước bạn và các tổ chức hỗ trợ thấy rằng, Việt Nam cũngcó những công trình dành cho người khuyết tật.
Chi tiết...