About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Phương pháp nghề Luật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phương pháp nghề Luật. Hiển thị tất cả bài đăng

Ưu điểm, hạn chế của nguồn tài liệu trên Internet và kỹ năng thu thập tài liệu trên Internet

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
          Thu thập tài liệu cho mục đích học tập, nghiên cứu và làm việc là vô cùng quan trọng. Tài liệu là nguồn thông tin phục vụ cho mục đích nhất định. Trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ và phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì nguồn tài liệu trên Internet, đang là nguồn tài liệu chủ yếu, phổ biến nhất, nó chứa đựng tất cả các thông tin trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, khoa học.
          Để làm rõ hơn ưu, nhược điểm của nguồn tài liệu này và qua đó tìm ra kỹ năng thu thập tài liệu trên Internet. Sau đây em xin làm rõ vấn đề: “Ưu điểm, hạn chế của nguồn tài liệu trên Internet và kỹ năng thu thập tài liệu trên Internet”.
          Trong bài viết, do vốn kiến thức còn hạn chế, khả năng thu thập thông tin còn yếu kém nên không thể tránh khỏi những sai sót, mong các thầy cô xem xét, đóng góp ý kiến để bài biết hoàn thiện và rút kinh nghiệm cho các lần sau.
Em xin chân thành cảm ơn!

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm Internet, nguồn tài liệu trên Internet
          Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa. Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và các chính phủ trên toàn thế giới.
          Nguồn tài liệu trên Internet là nguồn tài liệu tồn tại dưới dạng điện tử và truy cập bằng công nghệ tin học mà không phải ở dạng văn bản (tuy nhiên, có thể in ra thành văn bản).
2. Ưu điểm của nguồn tài liệu trên Internet
          Nguồn tài liệu trên Internet có rất nhiều những ưu điểm đặc trưng mà các nguồn tài liệu khác không thể có được. Sau đây là 4 ưu điểm điển hình của nguồn tài liệu trên Internet:
          Thứ nhất, Đa dạng và phong phú là đặc trưng cơ bản cùa nguồn tài liệu trên Internet. Nguồn tài liệu này đề cập đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, giúp người đọc khai thác triệt để những khía cạnh, thông tin của vấn đề mình cần nghiên cứu. Những vấn đề này được đưa ra đánh giá, bình luận, có nhiều ý kiến đóng góp khác nhau, từ đó người đọc có thể tham khảo để đưa ra nhận xét của chính bản thân mình, khai thác và phân tích triệt để để biến thông tin thu thập được từ nguồn tài liệu đó thành của mình. (Ví dụ: thu thập các số liệu thống kê về quy mô nền kinh tế, thống kê về quy mô dân số, tài liệu học tập, tài liệu chuyên ngành, sách điện tử, ảnh, video, ca nhạc,…).
          Thứ hai, Nguồn tài liệu Internet có tính di động và tính linh hoạt rất cao. Người đọc có thể tìm và thu thập tài liệu tại bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào, không bị ngăn cách bởi thời gian, không gian và đối tượng. Thậm chí họ còn có thể thu thập, tải về, lữu giữ lại để lần sau có thể đọc ngoại tuyến. Không khó khăn như một số cách thu thập tài liệu khác như phải đến tận thư viện, đi làm bài phỏng vấn, khảo sát số liệu thực tế… Họ chẳng cần phải quan tâm thời tiết hôm nay như thế nào, tình trạng giao thông ra làm sao, chẳng cần phải bước chân ra khỏi nhà, có thể ngồi trong phòng khách hay nằm ngay trên giường của mình để thu thập tài liệu, còn nếu họ đang ở ngoài đường thì chỉ cần có thiết bị có thể vào mạng và có kết nối Internet, đơn giản như là một chiếc điện thoại có thể vào mạng hay những chiếc laptop, tablet có thể bắt sóng wifi. Nếu không có điều kiện cơ sở vật chất như trên thì cũng không đáng ngại vì người đọc có thể tra cứu, tìm kiếm thông tin tại các đại lý Internet công cộng. Ưu điểm này dường như chỉ thấy ở tài liệu trên Internet.
          Thứ ba, Nguồn tài liệu trên Internet còn giúp chúng ta tiết kiệm không gian lưu trữ, thời gian tìm kiếm. Từ ưu điểm về tính linh hoạt và cơ động của nguồn tài liệu Internet, có thể nhận thấy thêm một vài ưu điểm nổi bật nữa là không phải tốn thời gian, công sức, tiết kiệm giấy mực và không gian lưu trữ như các nguồn tài liệu sách báo thông thường. Các tài liệu giấy thông thường phải có không gian lưu trữ lớn như các thư viện, cục lưu trữ, trung tâm lưu trữ,… Vì vậy kéo theo việc tìm kiếm và thu thập loại tài liệu này rất tốn thời gian. Một ví dụ đơn giản như khi vào thư viện, phải trải qua rất nhiều công đoạn, thủ tục rườm rà thì độc giả mới có thể mượn được một cuốn sách và thời gian mượn sách cũng rất hạn chế, chưa kể đến một số loại sách quý hiếm không được mượn về, chỉ được đọc tại thư viện nên rất khó để khai thác hết nội dung của nó. Trái lại, dữ liệu Internet là dữ liệu số được lữu trữ tại các máy chủ của nhà cung cấp dịch vụ đặt tại khắp nơi trên thế giới, vì vậy việc tìm kiếm, truy xuất tài liệu được đáp ứng rất nhanh và không gian lưu trữ là không giới hạn. Chỉ cần biết một số thông tin của tài liệu như địa chỉ trang web, từ khóa liên quan đến tài liệu cần tìm, là có thể dễ dàng tìm ra nó. Người dùng có thể tìm kiếm tài liệu thông qua các dịch vụ tìm kiếm trực tuyến của các hãng phần mềm lớn như: Google, Microsoft, Yahoo… Việc này giúp chúng ta có thể cải thiện kỹ năng tìm kiếm.
          Thứ tư, Tài liệu Internet có tính cập nhật rất cao. Lấy ví dụ đơn giản như đối với  các loại sách về khoa học, sau một thời gian xuất bản thì sách cần được sửa đổi, bổ sung, tái bản để cập nhật, thay thế thông tin cho phù hợp với xu hướng phát triển chung của ngành khoa học mà nó đề cập tới, việc này tiêu tốn rất nhiều tiền của. Một ví dụ nữa là về sách giáo khoa, một đợt thay sách giáo khoa cho một cấp học có thể tiêu tốn đến hàng trăm tỷ đồng. Trái lại, đối với tài liệu Internet thì việc cập nhật thông tin lại rất đơn giản, nó có thể được cập nhật từng ngày, từng giờ, không phải mất quá nhiều thời gian và tiền bạc cho công tác chuẩn bị. Vì vậy, người đọc sẽ rất dễ dàng nắm bắt được quá trình vận động và phát triển của vấn đề mình nghiên cứu.
3. Hạn chế của nguồn tài liệu trên Internet
          Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm trên của nguồn tài liệu Internet thì nó cũng có một số hạn chế nhất định:
          Thứ nhất, Không xác định được chính xác nguồn gốc là hạn chế lớn nhất của tài liệu Internet. Vì tài liệu Internet mang tính mở, bất cứ ai cũng có thể đóng góp ý kiến, có thể là tác giả thật, nhưng đa phần là những người khác thực hiện tính năng chia sẻ. Ví dụ điển hình là báo điện tử, nhiều trang báo điện tử đăng tải các bài viết có nội dung giống hệt nhau, không có trích dẫn cụ thể là từ nguồn nào. Vì thế, người đọc không thể xác định được đâu là nguồn gốc chính xác của bài viết đó để thẩm định mức độ khách quan của nó. Còn đối với viết bài luận, nếu trích dẫn trong tài liệu nào đó thì việc xác định nguồn gốc của tài liệu là bắt buộc. Vì thế việc xác định chính xác nguồn gốc của tài liệu trước khi sử dụng là rất cần thiết.
          Thứ hai, Nguồn tài liệu phong phú trên Internet sẽ khiến chúng ta quá lệ thuộc vào nguồn tài liệu này. Từ việc không xác định được nguồn gốc của tài liệu chính là nguyên nhân dẫn tới việc copy, ăn cắp bản quyền thông tin một cách tràn lan. Nhất là trong lĩnh vực giáo dục, học sinh, sinh viên có thể copy một phần hoặc toàn bộ nội dung của tài liệu như bài văn, bài tiểu luận,… của tác giả đã đẳng tải lên Internet rồi đơn giản là “dán” vào bài của mình.
Chính việc đọc và chép này sẽ làm cản trở sự phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của con người, bộ óc không chịu tự thân vận động trong khi “cái miệng luôn há sẵn chờ sung rụng”. Việc thu thập tài liệu quá phụ thuộc vào Internet khiến người ta suốt ngày chỉ biết ngồi dán mắt vào màn hình máy tính, điện thoại… không có kinh nghiệm thu thập tài liệu sơ cấp. Phải kết hợp thu thập tài liệu từ Internet và thu thập tài liệu từ các nguồn khác để tự  rèn luyện cho mình kỹ năng so sánh, đánh giá.
          Thứ ba, Lập trường của người đọc và độ chính xác của tài liệu. Tài liệu Internet rất đa dạng, nhiều chủng loại, mỗi vẫn đề được đưa ra bàn luận lại có những ý kiến đóng góp trái chiều, có cả những ý kiến đồng tình ủng hộ; cả những ý kiến, quan điểm phản đối, bác bỏ. Những điều này sẽ gây ra các tác động không nhỏ đối với lập trường của người đọc. Ngoài ra độ chính xác của nguồn tài liệu Internet không được kiểm nghiệm chặt chẽ như các loại nguồn tài liệu khác nên mức độ tin cậy của nó cũng không được đánh giá cao. Trước những hạn chế này, người đọc phải có kỹ năng phân tích, chọn lọc những tài liệu có nguồn gốc rõ ràng, có độ chính xác và tin cậy cao; sàng lọc, quan tâm, chú ý đến những ý kiến đúng đắn. Loại bỏ những thông tin, ý kiến tiêu cực nhằm củng cố lập trường của mình.
4. Kỹ năng thu thập tài liệu trên Internet
          Đầu tiên, nên sử dụng các trang mạng tìm kiếm lớn như: Google, Yahoo,… Tuy nhiên, chúng ta cần xác định chính xác từ khóa để việc tìm kiếm có hiệu quả hơn.
          Thứ hai, Chúng ta nên truy cập, xem và tải các tài liệu tại các trang web uy tín, chất lượng, các trang web của các cơ quan nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, các trang web có địa chỉ cụ thể,… tránh sử dụng tài liệu của các trang web nhỏ, không uy tín, không có địa chỉ cụ thể, các trang web phản động,….
          Thứ ba, Hãy biết cách giới hạn sự tìm kiếm khi mà thông tin trên mạng rất tràn lan, và hãy giữ sự tỉnh táo, nếu không thì bạn sẽ chìm vào một đống thông tin hỗn độn. Đừng quá phụ thuộc vào các trang web mới, các trang web được nhiều người truy cập, hãy dành thời gian tìm kiếm những nguồn tài liệu hiếm, ít phổ thông nhưng quan trọng, khi đó, kết quả thu được sẽ mới lạ, độc đáo hơn.
          Thứ tư, Chúng ta cần phải nhanh nhẹn. Với khối lượng thông tin khổng lồ như vậy, chúng ta cần phải nhanh nhẹn mới có thể thực hiện quá trình tìm kiếm một cách hiệu quả.
          Thứ năm, Chúng ta nên thực hiện nhiều lượt tìm kiếm thông tin, đọc và đánh giá thông tin, truy tìm nguồn gốc thông tin và kiểm định thông tin.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
      Tóm lại, mỗi nguồn tài liệu đều có cái hay, cái dở của nó. Nguồn tài liệu Internet tuy ra đời muộn nhất nhưng nó là một hệ thống kết nối toàn cầu nên mức độ phổ biến của nó cũng vì thế mà rộng khắp nhất. Nguồn tài liệu Internet có những ưu điểm và hạn chế riêng so với các nguồn tài liệu khác. Từ những ưu điểm, hạn chế đó; mỗi người khi khai thác tài liệu từ nguồn này cần có những kỹ năng thu thập, phương pháp phân tích, chọn lọc tài liệu phù hợp, kết hợp với thu thập tài liệu từ các nguồn khác để tài liệu được tận dụng một cách triệt để.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


Chi tiết...

Những yếu tố tác động đến việc học tập

PHẦN MỞ ĐẦU
Học tập có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc đời của mỗi con người. Nói đến học là nói đến trí lực, một năng lực suy nghĩ, một trực quan nhạy bén, một tư duy hợp lý của từng người. Điều ấy hết sức cần thiết cho tất cả mọi người. Chính vì vậy, ngay từ lúc nhỏ, bất kỳ ai cũng được học tập, học từ việc sinh tồn, giao tiếp, và lớn hơn cả là tiếp nhận tri thức khổng lồ của nhân loại. Muốn học tập tốt, cần có sự cộng hưởng của nhiều yếu tố tác động trực tiếp, gián tiếp đến việc học. Các yếu tố có thể là gia đình, thầy cô, bạn bè, điều kiện học tập. Nhưng quan trọng và cần thiết vẫn là các yếu tố bên trong mỗi cá nhân người học như: tâm lý, tính cách, giới tính, sức khỏe,… và cả khả năng sẵn có nữa.
Để hiểu rõ vai trò của các yếu tố bên trong với việc học tập, nhằm phục vụ tốt hơn cho việc chủ động với việc học, nhóm chúng em được trình bày vấn đến đang được quan tâm trên.

PHẦN NỘI DUNG
I.    Xét về mặt tâm lý
Trong mỗi con người, đây là một phản ánh của tâm trạng bao gồm: yêu, ghét, buồn, vui,… Mọi người luôn luôn mong muốn mình được học tập trong môi trường thỏa mái nhất về tâm lý và điều kiện học hành. Ở tâm lý con người ta phải có sự thỏa mái về trí óc, về tư tưởng. Đó là khi ta được thỏa mái về mặt tinh thần, được đáp ứng đầy đủ về mặt vật chất. Khi đó, ta sẽ có hứng thú để học tập hơn, hiệu quả hơn trong quá trình học tập.
Trong tâm lý của mỗi người, bạn mình đi học thêm thì mình cũng phải đi học thêm cho bằng bạn bằng bè. Không cần biết đi học như thế này có hiểu hay không, khi cần có mặt trên lớp ngồi điểm danh là xong. Đây là do tâm lý bắt buộc trong hệ thống dạy và học của mỗi trường. Về mặt gia đình, mỗi bậc phụ huynh không ít thì nhiều cũng cho rằng học càng nhiều thầy cô càng giỏi, học càng nhiều thời gian càng tốt. Cho nên học thúc ép, bắt buộc con em mình, học và học. Như thế đã vô tình tạo nên sức ép trong tâm lý mỗi người trong quá trình học tập. Tạo ra sức nặng về tâm lý, làm cho tình thần của mỗi người không được thỏa mái, luôn có cảm giác bị ức chế. Cho đến một lúc nào đó quả bóng bị nén hơi này sẽ bùng nổ, những con người bị ép buộc, bị quản thúc kia sẽ có những hành động chống đối, phản kháng bằng nhiều hình thức khác nhau như nổi loạn, bỏ học, chán nản trong học hành,… Do đó, việc học sẽ không còn hiệu quả nữa, gây ra những hậu quả nhất định, phản lại ý tốt của những người hành động thúc ép kia.
Đối với mỗi người, thỏa mái về mặt tâm lý, họ sẽ có hứng thú học tập hơn. Tuy rằng thời gian học ít, đơn giản là học thêm một đến hai tiếng mỗi ngày nhưng trong quá trình học họ có sự tập trung cao độ, sự thảo mái tâm lý thì chỉ cần một thời gian ngắn, hiệu quả công việc họ đạt được đã bằng hoặc hơn những người ngồi lỳ bàn học nhiều giờ đồng hồ kia. Đó là sự khác biệt rõ rệt về yếu tố tâm lý.
Đi sâu vào tìm hiểu vấn đề về tâm lý thì có một số lý do sau đây:
1.  Lý do học
Mỗi một hành vi của con người đều có lý do nhất định dẫn đến việc thực hiện hành vi đó. Lý do có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân và dựa trên các nhu cầu cơ bản của cá nhân đó. Việc học cũng vậy, được xác định bởi những lý do sau: lý do của xã hội, lý do về cha mẹ, lý do về mục đích, lý do về thầy cô giáo, lý do về thành tích học tập, lý do về sự tò mò muốn hiểu viết và lý do về nhu cầu được công nhân khả năng cũng như thành tích của mình…
Có những lý do tích cực, học vì sự tò mò muốn khám phá, tìm tòi trong kho tang tri thức hoặc vì những mục đích định hướng cho tương lai của mỗi người mà sẽ có thái độ tự giác, quan tâm đến việc học, học vì sự tồn tại và phát triển có nhân cách của bản thân mình. Tuy nhiên cũng có lý do tiêu cực, học vì điểm số, học vì sức ép của gia đình, thầy cô, vì sự khen ngợi mà người học mới học tích cực nhưng việc đó không phải do tự nguyện bản thân nên nó sẽ không mang lại kết quả cao cho người học.
2.  Quan niệm nhận thức về bản thân
Trong quan niệm nhận thức về bản thân thể hiện sự đánh giá của mỗi cá nhân về bản thân cũng như về khả năng, sức học, sức tự học của mình, liệu với khả năng đó, sức học đó có đạt được mục đích mà mình đã đề ra hay không. Do đó, sức học và khả năng của người học quyết định sự phát triển của bản thân. Từ đó, phải liên hệ chặt chẽ giữa dạy học và sự phát triển trí tuệ của mỗi người để việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức trong quá trình học tâp đạt kết quả cao hơn.
3.  Quan điểm thái độ đối với việc học
Thái độ tích cực là một trong những nhân tố quan trọng nhất góp phần vào sự thành công trong học tập và nghiên cứu. Người học cảm thấy có hứng thú và có thái độ nghiêm túc đối với việc học của mình thì đó chính là động lực quan trọng thúc đẩy tham giam tích cực hoạt động học tập, nghiên cứu. Khi làm việc với cảm giác hứng thú, say mê, tích cực thì dù vấp phải khó khan người học vẫn cảm thấy thỏa mái và đạt được hiệu quả cao, không cảm thấy việc học của mình là nhàm chán… Trong hoạt động học tập có thái độ tích cực và thực sự có hứng thú có vai trò hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy hứng thú đối với các bộ môn tỷ lệ thuận với kết quả học tập.
Bên cạnh những người có thái độ vui thích, đam mê với việc học tập thì cũng có một bộ phận không nhỏ không thích học, chán học, không có thái độ nghiên túc với việc học. Nguyên nhân là do mất hứng thú học tập. Tình trạng chán học, không thích học do mất hứng thú học tập này đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập, làm cho người học mất động lực học tập. Điều này ảnh hưởng đến tương lai của mỗi người.
4.  Mục đích và kỳ vọng của người học vào việc học
Để có thể đạt được thành công trong việc học tập, trước hết người học phải xác định được cho mình mục đích và định hướng học tập. Mục đích của sự định hướng học tập  thể hiện ở chỗ người học muốn học và nâng cao các kỹ năng, trình độ, học còn để hiểu biết sâu rộng hơn về cuộc sống, để mọi thức trở nên dễ dàng hơn… Nếu người học có định hướng về mục đích học tập rõ ràng thì họ sẽ có cơ hội để đạt được hiệu quả cao và không ngừng cố gắng trong hập tập. Bên cạnh đó, khi người học đặt sự kỳ vọng vào việc học của mình thì họ sẽ luôn cố gắng, tích cực để tìm cho mình một phương pháp học tập tốt nhất, để có thể đạt được kết quả cao.
5.  Cảm xúc của người học
Cảm xúc và động cơ học tập có quan hệ mật thiết với nhau. Những cmar xúc thường xuất hiện như: Vui mừng, hy vọng, tự hào, buồn chán,… Những cảm xúc đó có tác dụng thúc đẩy động cơ học tập và ngược lại. Nếu người học thấy yêu thích và có hứng thú với việc học tập thì họ sẽ tập trung hơn vào việc học. Khi hứng thú với việc học cộng với tính tò mò của người học sẽ khao khát nghiên cứu, khao khát khám phát điều đó tạo nên cho họ cảm giác hào hứng và thích thú với việc học hơn.
6.  Khả năng lý giải nguyên nhân của thành công hay thất bại trong học tập
Người học có khả nặng tự giải thích nguyên nhân dẫn đến thành công hay thất bại trong quá trình học tập. Ví dụ: Tôi thấy mình có năng khiếu, tôi đã học chăm chỉ, bài tập quá dễ đối với tôi, tôi đã không cố gắng học, tôi không có khả năng học,… Những nguyên nhân của thành công hay thất bại trong việc học có thể có ở ngay trong chính bản than cá nhân đó (Ví dụ như sự cố gắng hay năng khiếu) hoặc là do môi trường bên ngoài tác động vào (Ví dụ như mức độ khó, dễ của bài tập, hoặc do may mắn tình cờ).
II.     Yếu tố sức khỏe và sở thích
Ngoài tâm lý, về những yếu tố bên trọng ta còn phải kể đến yếu tố sức khỏe và sở thích. Hai yếu tố này không phải là yếu tố thiết yếu những cũng là hai yếu tố rất quan trọng.
Có câu nói: “Có sức khỏe là có tất cả”. Điều đó cho thấy tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của sức khỏe đối với mỗi cá nhân chúng ta. Muốn làm tốt được một công việc nào đó thì chúng ta phải có sức khỏe, sức khỏe là điều kiện tiên quyết để làm việc và nghỉ ngơi. Với những người sức khỏe yếu, quanh năm suốt tháng làm bạn với bệnh tật thì sự quan tâm của họ sẽ bị chia nhỏ ra. Họ không thể chỉ quan tậm mỗi việc học được, họ cần phải để tâm đến sức khỏe của mình. Như phải làm sao khi bị bệnh này, phải mua thuốc gì, bệnh này điều trị ra sao,… Hơn nữa, khi sức khỏe có vấn đề, đầu óc chúng ta sẽ không còn tỉnh táo nữa, ngồi học, bạn đau bụng, đau chân hay đau đầu thì vấn đề bạn quan tâm sẽ chỉ là nỗi đau của bạn. Khi sức khỏe không đáp ứng được, chúng ta sẽ phải nghỉ ngơi để hồi sức. Và sự nghỉ ngơi đó lại mất vài ngày nghỉ học, lại không theo kịp chương trình và dẫn đến hậu quả là học hành giảm sút, kém hiệu quả. Sức khỏe cũng làm giảm đi khả năng tiếp thu của mỗi người. Chúng ta chỉ học được khi có sự thỏa mái về tâm lý, nhưng khi sức khỏe có vấn đề thì lúc đó cảm xúc trong chúng ta không còn tốt như ngày bình thường, chúng ta đã mất đi hứng thú với  những công việc ngày thường mà mình rất yêu thích. Sức khỏe không đảm bảo cũng bị hạn chết những ngành nghề nhất định. Khi mà không đáp ứng được nguyện vọng, ta rất dễ bị hụt hẫng, và đôi khi là đánh mất mục tiêu, lý tưởng của mình. Ví dụ một người năng lực học tốt nhưng lại bị bệnh thường xuyên, nghỉ quá số buổi nên phải học lại. Điều đó ảnh hưởng đến tâm lý học của các bạn sau này về vấn đề học tập cũng như vấn đề tiền bạc trong quá trình học lại.
Còn một vấn đề rất đúng chất tâm lý, tình cảm, đó là sở thích. Khi thích một thứ gì đó, chúng ta sẽ có hứng thú với thứ đó hơn. Điều đó cũng đồi nghĩa với trong việc học, môn học nào chúng ta cảm thấy nó thú vị, chúng ta cảm thấy thích nó và môn học đó là sở trường của mình thì chúng ta có hứng học tập rất lớn, có động lực học rất cao. Đóc ũng là một yếu tố mang đến cho chúng ta động lực học tập và cải thiện chất lượng học của chúng ta. Ngược lại, môn đó là một môn mà bạn không có hứng thú học, môn đó là sở đoản thì bạn rất dễ sinh ra ác cảm với nó. Có người thích học các môn xã hội nhưng chỉ tập trung học những môn này nhưng có người thì lại không thích mà học lại thích học những môn tự nhiên. Họ chỉ chăm học những môn họ thích, còn những môn kia thì bỏ bê, không them ngó ngàng tới. Đã nói về những môn mình thích, thì tất nhiên họ sẽ chăm chú nghe giảng, chăm chú tiếp thu bài học, họ hăng say hơn, còn các môn còn lại, họ mặc kệ. Thậm chí có người còn mang bài tập môn mình thích ra làm trong giờ học khác. Điều nay sinh ra việc học lệch, học tủ. Thích môn nào, giỏi môn đấy, ngại môn nào, bê bết môn đó. Vì vậy, những môn mình càng thích học càng giỏi, những môn mình các ghét học càng kém đi. Đến lúc thi môn, tủ mình cao điểm còn các môn con lại thì thấp điểm và ngày càng ác cảm với những môn đó. Từ đó dễ sinh ra cảm giác uể oải, chán nản, bội bực trong học tập. Sự biến đổi ấy dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong học tâp, sở thích kia khi nào nó biến mất, nó cũng sẽ mang đi hứng học tập của chúng ta. Khi đó, môn thích đã không còn, môn ghét thì quá nhiều, liệu chúng ta có học được nữa không?

PHẦN KẾT BÀI
Môi trường Đại học khác xa với môi trường phổ thông, sinh viên đa số xa nhà, không còn được bố mẹ kèm cặp, trong khi xãhội còn bao cám dỗ, lớp học quá đông, công tác quản lý còn nhiều hạn chế,… Những điều trên cho thấy muốn có một kết quả học tập tốt, quan trọng nhất là sinh viên phải biết tự giác học tập là chính. Phải xác định được mục tiêu trong quá trình học tập để cố gắng… Và hãy bắt đầu bằng việc tăng thời gian học ở nhà, đầu tư nhiều hơn cho học tập, cố gắng nghe giảng trên lớp, và không nên nghỉ học. Sinh viên cũng cần có phương pháp học tập đúng đắn vì phương pháp học tập cũng rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên… Hãy xác định mục tiêu tương lai của mình.

Chúc các bạn thành công trên con đường học tập !
Chi tiết...

Những ưu điểm và hướng phát huy ưu điểm của hình thức làm việc nhóm trong dạy – học ở bậc đại học


          Hiện nay ở nước ta, tín chỉ đang là hình thức học phổ biến trong các trường đại học. Và làm việc nhóm là một trong những phương pháp được áp dụng trong đổi mới phương pháp dạy học để có thể mang lại hiểu quả tối đa cho hình thức học mới mẻ này. Tuy nhiên làm việc nhóm là phương pháp khá mới đối với sinh viên Việt Nam đặc biệt là sinh viên năm nhất. Bởi hoạt động nhóm ở bậc phổ thông là rất ít hoặc không có cho nên để có thể làm quen và vận dụng phương pháp này một cách hiệu quả thì đòi hỏi mỗi cá nhân phải thấy được những thuận lợi của làm việc nhóm cùng những khó khăn để từ đó đưa ra giải pháp nhằm phát huy những điểm mạnh đồng thời khác phục những điểm hạn chế. Đó là lí do em lựa chọn câu hỏi: “ Những ưu điểm và hướng phát huy ưu điểm của hình thức làm việc nhóm trong dạy – học ở bậc đại học”.   

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm về nhóm, hoạt động của làm việc nhóm.
Nhóm là một tập hợp nhiều người có chung mục tiêu, thường xuyên tương tác, làm việc với nhau. Mỗi thành viên đảm nhận một công việc, vai trò cụ thể, rõ ràng và có quy tắc chung chi phối lẫn nhau. Làm việc nhóm là hoạt động tất cả các thành viên trong nhóm cùng họp lại, thảo luận, đưa ra ý kiến… sau đó thống nhất quan điểm, đưa ra một cách giải quyết vấn đề xác định nhằm đặt được mục đích đề ra một cách hiệu quả nhất Có hai hình thức nhóm gồm nhóm chính thức và nhóm không chính thức:                           
  -  Nhóm chính thức là nhóm có tổ chức ổn định, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, thường tập hợp những người có chung chuyên môn hoặc có chuyên môn gần gũi nhau và tồn tại trong một thời gian dài.                                             
-  Nhóm không chính thức thường được hình thành theo những yêu cầu, nhiệm vị đột xuất, có thể là tập hợp của những người có chuyên môn không giống nhau và ở nhiều lĩnh vực khác nhau và thường có nhiệm vụ giải quyết nhanh một hoặc một số vấn đề trong thời gian ngắn.

II. Những thuận lợi trong hoạt động làm việc nhóm.
           Trong thực tế cuộc sống, không có ai là hoàn hảo cả, do đó làm việc nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của từng người và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu, hơn nữa nó còn tạo được niềm vui và sự hứng thú trong học tập. Vì thế chúng ta cần phải thấy được những ưu điểm của hình thức làm việc nhóm để phát huy những điểm mạnh của nó. Sau đây em xin được trình bày 4 thuận lợi như sau:                                                                
Trước hết, hoạt động làm việc nhóm sẽ nâng cao tính tương tác giữa các thành viên nhằm tác động tích cực đến người học như tăng cường động cơ học tập, nảy sinh những hứng thú mới, kích thích sự giao tiếp, phát triển các mối quan hệ và quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm. Với tư cách là một sinh viên năm nhất, khi mới bỡ ngỡ bước chân vào cánh cửa đại học, lạc lõng giữa hàng nghìn sinh viên trong trường thì khi được phân công vào một nhóm học tập, chúng ta sẽ có cơ hội làm quen với rất nhiều người bạn mới, từ đó thích nghi hơn với cuộc sống đại học. Hơn thế nữa, không giống như cấp 3, các thành viên trong nhóm đến từ rất nhiều vùng miền trên đất nước với những giọng nói, nét văn hóa khác nhau. Vì vậy khi được tiếp xúc, học tập cùng các bạn thì bản thân mỗi người sẽ học hỏi được rất nhiều thứ, có cơ hội mở rộng được vốn kiến thức và quan trọng nhất là mở rộng được mối quan hệ với những người bạn đồng trang lứa. Và một khi đã xây dựng được mối quan hệ đó thì các thành viên sẽ thấy hiểu và thân thiết với nhau hơn từ đó có thể dễ dàng trao đổi, học tập cùng nhau một cách hiểu quả nhất. Không chỉ đối với sinh viên năm nhất mà với sinh viên năm hai, năm ba,… thì hoạt động nhóm cũng là cơ hội để làm việc với nhiều người bạn mới và mở rộng hơn nữa các mối quan hệ.
Thứ hai, hoạt động làm việc nhóm giúp chúng ta học hỏi được kiến thức của nhau, cùng chia sẻ kinh nghiệm. Bởi như em đã nói, trong cuộc sống thì không có ai là hoàn hảo cả, mỗi người sẽ có một thế mạnh riêng ở từng lĩnh vực và đồng thời cũng có không ít những điểm yếu thì làm việc nhóm sẽ giúp mỗi người nhận ra được ưu và nhược của mình để từ đó có thể phát huy cũng như khắc phục, sửa chữa. Đó là điểu mà khi không làm chung với nhóm thì chúng ta khó có thể nhận ra. Cụ thể là trong quá trình thảo luận nhóm, các thành viên sẽ đưa ra những ý kiến của mình. Mỗi ý kiến là một quan điểm, cách nhìn nhận ở một góc độ riêng sau đó cả nhóm sẽ cùng tổng hợp lại và đi đến thống nhất. Như vậy, trong tất cả những ý kiến đó thì có những ý kiến đúng,cũng có thể có những ý kiến sai, hoặc cũng có thể là có ý kiến còn phiến diện… tuy nhiên qua đó thì mỗi thành viên sẽ bộc lộ ra được những ưu điểm cũng như hạn chế của mình và kết quả mà nhóm đạt được không những chỉ là một sản phẩm chung đúng đắn, toàn diện mà còn là sự hoàn thiện hơn trong suy nghĩ của từng thành viên – điều quan trọng nhất.                                   
Thứ ba, hoạt động làm việc nhóm sẽ tăng khả năng phối hợp và tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên trong nhóm. Do mỗi thành viên được phân công một công việc, đảm nhiệm một vai trò nhất định trong việc giải quyết vấn đề chung của nhóm nên bản thân mỗi người không thể trốn tránh trách nhiệm được mà họ tự ý thức được đó là việc của mình và mình phải có trách nhiệm phải hoàn thành nó. Như vậy, có thể ban đầu các thành viên trong nhóm là  những người có tinh thần trách nhiệm không cao, thậm chí là không có nhưng qua sự rèn luyện từng ngày đó thì bản thân họ sẽ hình thành cho mình được thói quen tốt và sẽ trở thành những con người thực sự có trách nhiệm trong công việc và rộng hơn là trong mọi lĩnh vực khác của đời sống. Và một khi đã có trách nhiệm thực sự với công việc của cá nhân mình thì họ sẽ có trách nhiệm với công việc chung của nhóm và từ đó các thành viên sẽ biết cách phối hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn để hiệu quả làm việc là cao nhất. Sự phối hợp ở đây được thể hiện ở chỗ, khi nắm bắt được vấn đề cần làm là gì, các thành viên trong nhóm sẽ có sự phân công nhau một cách hợp lý ví dụ như ai giỏi trong khía cạnh nào thì sẽ đảm nhận làm về khía cạnh đó hoặc ai là người sẽ là người đảm nhận việc tìm tài liệu, ai phụ trách đánh máy,in bài… Như vậy nhờ có tinh thần trách nhiệm, sự phối hợp giữa các thành viên mà công việc đã được giải quyết theo đúng mong muốn của nhóm và đảm bảo tính công bằng khi ai cũng phải làm và được hưởng thành quả đúng với công sức đã bỏ ra.       
  Thứ tư, hoạt động làm việc nhóm giúp chúng ta cải thiện khả năng giao tiếp, trình bày, tự tin thể hiện trước đám đông. Kĩ năng thuyết trình, hùng biện là một kĩ năng mềm rất cần thiết đối với mỗi cá nhân không chỉ trong học tâp mà còn cần cho cuộc sống sau này. Thực tế trong nhóm thì vẫn còn rất nhiều bạn rất rụt rè, khép mình ngại thể hiện trước đám đông – đây là rào cản lớn mà nếu không khắc phục sớm thì nó ảnh hưởng rất lớn đến học tập cũng như cuộc sống sau này. Và làm việc nhóm sẽ giúp bạn cải thiện được điểm yếu này. Các bạn sẽ rèn luyện khả năng nói trước hết là trong phạm vi nhóm mình. Bởi trong quá trình làm việc nhóm thì các thành viên sẽ phải thường xuyên đóng góp ý kiến của mình. Và một khi bạn đã có thể trình bày một cách rành mạch, lưu loát ý kiến, quan điểm của mình trước các thành viên khác trong nhóm thì bạn đã bước đầu khắc phục được sự tự ti của bản thân. Không chỉ trong phạm vi nhóm mà còn trong phạm vi lớn hơn nhiều. Bởi các bài tập nhóm hầu như đều cần phải thuyết trình. Như vậy đây chính là cơ hội để bạn có thể nói trước đám đông, có thể lần đầu đó là điều khó khăn với bạn nhưng khi bạn đã làm được một lần rồi thì đến lần thứ hai, thứ ba… đó sẽ trở thành điều hết sức bình thường và bạn đã có thể hoàn toàn tự tin để thuyết trình trước đám đông.
III. Khó khăn trong hoạt động làm việc nhóm.
           Bên cạnh những thuận lợi mà hoạt động nhóm đem lại thì vẫn còn rất nhiều những khó khăn mà hầu hết nhóm nào cũng mắc phải. Sau đây em xin đưa ra 3 khó khăn chủ yếu sau:                                                                     
Trước hết là về vấn đề thời gian và khoảng cách địa lí. Hầu như các bạn sinh viên đều ở trọ và ở cách xa nhau, đi lại khó khăn và rất khó trong việc bố trí lịch họp nhóm và địa điểm họp nhóm để tạo thuận lợi nhất cho tất cả thành viên trong nhóm. Tuy nhiên đó là việc hết sức khó khăn, chính vì thế khi có lịch họp nhóm, các thành viên đều rất ngại đi hoặc đi muộn gây ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc nhóm                                                                                           
Thứ hai, làm việc nhóm rất dễ tạo tâm lí ỷ lại dẫn đến hiện tượng trong nhóm chỉ có một số thành viên tích cực làm việc, đóng góp ý kiến còn các thành viên còn lại thì không chịu làm việc, chỉ chờ người khác làm và hưởng thành quả. Đặc biệt là ỷ lại vào nhóm trưởng, suy nghĩ rằng đã có nhóm trưởng lo rồi thì mình không cần làm nữa. Hoặc có thái độ bất cần, suy nghĩ rằng bao nhiêu điểm cũng được, không quan trọng nên làm việc một cách hời hợt, không có sự đầu tư. Hoặc cũng có những trường hợp thành viên trong nhóm chỉ đến cho có mặt, không lo làm việc, đóng góp ý kiến mà chỉ lo làm việc riêng… Điều đó thể hiện thái độ không tôn trọng người khác và cũng là không tôn trọng chính bản thân mình.                                      
  Thứ ba, đó là cái tôi quá lớn của thành viên trong nhóm – đây là trở ngại đến hoạt động làm việc nhóm hiệu quả. Có nhiều bạn khi đưa ra ý kiến của mình, chỉ khăng khăng bảo vệ quan điểm đó mà không quan tâm rằng điều đó có đúng không và cũng không chịu lắng nghe ý kiến của các thành viên khác trong nhóm. Điều đó rất dễ gây bất hòa, tạo không khí căng thẳng, ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm. Sự bảo thủ cá nhân đó không những gây ảnh hưởng đên hiệu quả làm việc nhóm mà còn đem lại nhiều bất lợi cho chính bản thân người đó. Bởi bản thân mỗi người không ai là toàn diện về mọi mặt, không thể tránh được những thiếu sót trong suy nghĩ, hành động. Vì vậy khi nghe người khác nhận xét nhược điểm của mình sẽ giúp ta nhận ra những thiếu sót để từ đó khắc phục.
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động làm việc nhóm.
            Để làm việc nhóm có hiệu quả cần phải có những giải pháp phù hợp để phát huy những thuận lợi đồng thời khắc phục những điểm yếu để giúp hoạt động nhóm trở nên hiệu quả.                                                               
Trước hết, mối cá nhân phải có thái độ và quan điểm về sự hợp tác đúng đắn. Làm việc nhóm tức là bạn đang làm việc trong môi trường tập thể chính vì thế bản thân mỗi người cần hạn chế cái tôi cá nhân, phải biết láng nghe ý kiến của người khác với một thái độ tôn trọng. Bởi tôn trọng người khác chính là bạn đang tôn trọng chính bản thân mình và cũng là cách mà bạn làm người khác tôn trọng mình. Hơn nữa làm việc nhóm đòi hỏi sự phối hợp giữa các thành viên và cũng không ai là giỏi toàn diện, biết được tất cả mọi thứ cả vậy nên các thành viên trong nhóm cần chấp nhận sự khác biệt về ý kiến của nhau để giải quyết vấn đề được hoàn thiện và tốt nhất.                                                         
Thứ hai, để làm việc nhóm hiệu quả thì mỗi thành viên cần xác định được điểm mạnh của mình để phát huy một cách tốt nhất trong quá trình thảo luận và vượt qua những điểm yếu của chính mình, khắc phục những điểm yếu đó để hòa nhậpvới các thành viên trong nhóm. Điểm mạnh của người này cũng có thể là điểm yếu của người kia, vì thế mỗi thành viên cần tìm hiểu thế mạnh của nhau để tạo sự hỗ trợ, bổ sung cho nhóm. Vì khi đó, ý kiến của các thành viên trong nhóm đưa ra sẽ trở nên toàn diện hơn với nhiều góc độ nhìn nhận khác nhau từ đó sản phẩm chung mà nhóm làm ra sẽ hoàn thiện hơn.                         
Thứ ba, chúng ta cần phải có tinh thần học hỏi, chịu khó lắng nghe, tất cả vì tập thể. Trong khi làm việc nhóm, tất cả mọi người đều đưa ra quan điểm khác nhau, khi quan điểm được trình bày thì các thành viên phải chú ý lắng nghe, không nên cắt ngang hoặc có phản ứng một cách thái quá cho dù ý kiến đó là trái với ý của bạn hoặc nó không đúng… Bởi nếu đặt nạn vào vị trí của người đang nói và bạn bị một ai đó cắt ngang thì chắc hẳn bạn sẽ thấy rất khó chịu và cảm thấy mình đang không được tôn trọng. Vậy nên lắng nghe cũng là cách mà bạn tôn trong người khác.                                                                      
Thứ tư, các thành viên trong nhóm cần phải tôn trọng lẫn nhau. Và cần hiểu rõ những điều cơ bản khi xây dựng nhóm là phải nói ra quan điểm của mình, không sợ nói sai, luôn cởi mở, tích cực trong quá trình làm việc và hoàn thiện một cách nhanh chóng nhiệm vụ của nhóm. Nhóm cần động viên, khen ngợi khi thành viên có ý kiến hay bởi đôi khi chỉ với một lời nói như vậy thôi cũng đủ làm người khác vui mừng, có thêm động lực và thấy tự tin về bản thân hơn từ đó làm tăng hiệu quả làm việc nhóm. Bên cạnh đó cũng không nên chê bai ý kiến của người khác, nếu bạn thấy rằng ý kiến đó là không phù hợp thì nên góp ý một cách tinh tế và nhẹ nhàng để người đó không cảm thấy khó chịu và sẽ nhận thức được điểm sai trong quan điểm của mình.                              
Thứ năm, chúng ta cần tích cực giao lưu, đối thoại, thuyết trình trước bạn bè để đẩy lùi sự tự ti, tăng khả năng nói trước đám đông. Bởi đây là cơ hội tốt để rèn luyện bản thân mà khi không làm việc nhóm thì chúng ta chưa chắc có cơ hội đó. Hơn nữa giao tiếp là kĩ năng không thể thiếu đối với mỗi sinh viên và rộng hơn là đối với tất cả mọi người. Bởi chỉ khi chúng ta có một kĩ năng giao tiếp, thuyết trình  tốt thì chúng ta mới có thể trình bày được sản phẩm chung do nhóm đã dày công làm ra đồng thời thuyết phục được người nghe ủng hộ, tin theo quan điểm, cách giải quyết đó đồng thời có cơ hội mở rộng các mối quan hệ, phục vụ cho công việc cũng như trong cuộc sống sau này.             
Thứ sáu, cần có một nhóm trưởng có tình thần trách nhiệm cao và khả năng lãnh đạo tốt. Bởi nhóm trưởng là người đóng vai trò định hướng cũng như phân công công việc cho các thành viên khác trong nhóm. Đồng thời nhóm trưởng cũng là người đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ giữa các thành viên và bầu không khí làm việc trong nhóm. Sự phân công của nhóm trưởng sẽ đảm bảo rằng ai trong nhóm cũng đều sẽ phải làm một khối lượng công việc tương đương nhau để từ đó mọi thành viên sẽ có ý thức trong việc hoàn thành công việc của bản thân mình và nhằm tránh trường hợp người không làm gì nhưng vẫn được hưởng thành quả chung của cả nhóm. Hơn nữa bầu không khí làm việc nhóm cũng đóng vai trò khá quan trọng đến hiệu quả làm việc nhóm bởi quá trình làm việc nhóm không thể diễn ra trong một bầu không khí quá căng thẳng, nghiêm túc nhưng cũng không nên đùa cợt quá nhiều. Trong lúc các thành viên đưa ra ý kiến không thể tránh được những lúc xẩy ra xích mích, bất đồng quan điểm vì thế nhóm trưởng sẽ đóng vai trò là người trung gian ở giữa, giải quyết mối bất hòa đó để có thể duy trì được hoạt động của nhóm diễn ra bình thường và hiệu quả nhất.                 
  Cuối cùng thì trong thời đại công nghệ hiện đại ngày nay, cần biết tận dụng những thành quả của khoa học công nghệ trong việc liên lạc và tìm tài liệu nhằm giải quyết khó khăn trong việc sắp xếp lịch làm việc nhóm và tìm thông tin phục vụ cho quá trình làm việc nhóm. Ví dụ như chúng ta có thể trao đổi ý kiến, bàn bạc công việc thông qua email, yahoo, facebook … mà không phải mất thời gian di chuyển, tìm địa điểm, bố trí thời gian gặp mắt để trao đổi với nhau. Hoặc chúng ta có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin trên internet với một khối lượng thông tin khổng lồ trong một thời gian ngắn và chỉ bằng những thao tác vô cùng đơn giản. Tuy nhiên, đó chỉ là những công cụ hỗ trợ vì thế nên chúng ta cần biết tận dụng một cách có hiệu quả và khoa học nhưng cũng không nên quá phụ thuộc vào nó.   

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.

          Chúng ta đang sống trong một thời đại của những cách thức làm việc mới mẻ với những cái đầu biết tổ chức. Làm việc độc lập hay làm việc nhóm thì cái cuối cùng mà chúng ta hướng đến vẫn là chất lượng và hiệu quả của công việc. Do đó tùy theo phương pháp làm việc nào mà bạn phải tự biết cách thay đổi thói quen và cách làm việc của mình để thích nghi được với môi trường làm việc đó. Làm việc nhóm là cách thức học tập và làm việc hiệu quả và phổ biến hiện nay nhất là với những công việc có khối lượng việc cần giải quyết lớn và đòi hỏi tập trung cao. Do đó ngay từ bây giờ bạn hãy học cách làm việc, từ độc lập tự chủ đến việc biết hòa mình vào tập thể. Và quan trọng nhất là nâng cao khả năng của bản thân trong việc xử lí công việc của mình cũng như biết cách phối hợp với người khác để hoàn thành công việc chung.


Chi tiết...