About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư pháp quốc tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư pháp quốc tế. Hiển thị tất cả bài đăng

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ KỲ 1 NĂM HỌC 2018 – 2019

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ KỲ 1 NĂM HỌC 2018 – 2019

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ 4 TÍN CHỈ,
KỲ 1 NĂM HỌC 2018 – 2019
(Dành cho Khóa 41 ngành luật, Khóa 41 ngành Ngôn ngữ Anh)

1.             Bình luận về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của TPQT.
2.             Làm rõ địa vị pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3.          Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài.
4.             Bình luận về quy định tại Điều 127 Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam 2014.
5.             Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
6.             Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về xác định thẩm quyền xét xử của tòa án Việt Nam với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
7.             Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.
8.             Bình luận về sự tồn tại của quy phạm được quy định tại Điều 679 BLDS năm 2015. 
9.             Phân tích nguyên nhân và phạm vi có xung đột pháp luật, nêu ý kiến cá nhân về các vấn đề đó.
10.         Phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến hiện tượng xung đột pháp luật.
11.         Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài của tòa án Việt Nam và tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng đó.
12.         Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài.
13.         Phân tích các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
14.         Bình luận các trường hợp áp dụng hệ thuộc luật có mối liên hệ gắn bó nhất được quy định trong BLDS năm 2015
15.         Bình luận về các quy phạm xung đột ghi nhận trong chương XXVII BLDS 2015 về pháp luật áp dụng đối với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân.
16.         Trình bày những hiểu biết của em về vấn đề quốc tịch của pháp nhân và vấn đề tư cách pháp nhân trong TPQT.
17.         Đánh giá những điểm mới của pháp luật Việt Nam hiện hành trong giải quyết vấn đề sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam từ khi có Luật nhà ở 2014.
18.         Trình bày các cách thức đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài.
19.         Phân tích các vấn đề pháp lý cơ bản liên quan đến công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài
20.         Phân biệt xung đột luật và xung đột thẩm quyền trong tư pháp quốc tế? Cách thức giải quyết hai hiện tượng này trong TPQT có điểm gì chung và khác biệt? Tại sao? Cho ví dụ cụ thể.
21.         Bình luận các quy định trong pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và giữa người nước ngoài với nhau trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
22.         Vấn đề miễn trừ tư pháp của quốc gia trong TPQT: căn cứ pháp lý quốc tế, căn cứ pháp lý quốc gia, thực tiễn áp dụng.
23.         Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.
24.         Thực trạng vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
25.         Thống kê và bình luận về các hệ thuộc luật được sử dụng trong các quy phạm tại Phần V BLDS năm 2015.
26.         Phân tích các trường hợp làm ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung đột.
27.         So sánh cách thức uỷ thác tư pháp quốc tế quy định trong pháp luật Việt Nam với cách thức ủy thác tư pháp quốc tế trong điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước.
28.         Phân tích các quyền mà tác giả được hưởng theo quy định của Công ước Berne 1886.
29.         Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài.
30.         Bình luận các trường hợp áp dụng hệ thuộc luật do các bên lựa chọn được quy định trong BLDS năm 2015.

Chi tiết...

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ (K41 TMQT)

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ (K41 TMQT)
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ 2 tín chỉ
KỲ 2 NĂM HỌC 2017 – 2018
(Dành cho Khóa 41 ngành LTMQT)

1. Bình luận về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của TPQT.
2. Làm rõ địa vị pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam theo quy định hiện hành.
3. Phân tích nguyên nhân và phạm vi có xung đột pháp luật, nêu ý kiến cá nhân về các vấn đề đó.
4. Phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến hiện tượng xung đột pháp luật.
5. Trình bày những hiểu biết của em về vấn đề quốc tịch của pháp nhân và vấn đề tư cách pháp nhân trong TPQT.
6. Bình luận các trường hợp áp dụng hệ thuộc luật có mối liên hệ gắn bó nhất được quy định trong BLDS năm 2015 
7. Phân biệt xung đột luật và xung đột thẩm quyền trong tư pháp quốc tế? Cách thức giải quyết hai hiện tượng này trong TPQT có điểm gì chung và khác biệt? Tại sao? Cho ví dụ cụ thể.
8. Vấn đề miễn trừ tư pháp của quốc gia trong TPQT: căn cứ pháp lý quốc tế, căn cứ pháp lý quốc gia, thực tiễn áp dụng.
9. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài của tòa án Việt Nam và tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng đó.
10. Thống kê và bình luận về các hệ thuộc luật được sử dụng trong các quy phạm tại Phần V BLDS năm 2015. 

Chú ý:
- Sinh viên làm bài tập bằng cách viết tay hoặc đánh máy trên khổ giấy A4 theo số trang đã quy định trong đề cương môn học. 
- Bài làm phải ghi rõ số của câu hỏi và nội dung của câu hỏi.
- Sinh viên xác định câu hỏi của mình theo cách:  Trong danh sách lớp thảo luận, sinh viên của từng nhóm sẽ căn cứ vào số thứ tự của mình trong nhóm để làm câu hỏi tương ứng, ví dụ sinh viên có số thứ tự 8 của nhóm 1 sẽ làm câu 8. Sinh viên có số thứ tự 11 trở đi của từng nhóm sẽ quay lại làm câu 1 và tiếp theo, ví dụ sinh viên số thứ tự 12 của nhóm 1 sẽ làm câu 2. 


x
Chi tiết...

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ (K40 Ngành Luật, CLC, LT)

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ (K40 Ngành Luật, CLC, LT)
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ 4 TÍN CHỈ, 
KỲ 2 NĂM HỌC 2017 – 2018
(Dành cho Khóa 40 ngành luật, ngành luật CLC, liên thông)

1. Bình luận về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của TPQT. 
2. Làm rõ địa vị pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài. 
4. Bình luận về quy định tại Điều 127 Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam 2014.
5. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. 
6. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về xác định thẩm quyền xét xử của tòa án Việt Nam với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
7. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.
8. Bình luận về sự tồn tại của quy phạm được quy định tại Điều 679 BLDS năm 2015.  
9. Phân tích nguyên nhân và phạm vi có xung đột pháp luật, nêu ý kiến cá nhân về các vấn đề đó.
10. Phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến hiện tượng xung đột pháp luật.
11. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài của tòa án Việt Nam và tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng đó.
12. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài.
13. Phân tích các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
14. Bình luận các trường hợp áp dụng hệ thuộc luật có mối liên hệ gắn bó nhất được quy định trong BLDS năm 2015 
15. Bình luận về các quy phạm xung đột ghi nhận trong chương XXVII BLDS 2015 về pháp luật áp dụng đối với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân. 
16. Trình bày những hiểu biết của em về vấn đề quốc tịch của pháp nhân và vấn đề tư cách pháp nhân trong TPQT.
17. Đánh giá những điểm mới của pháp luật Việt Nam hiện hành trong giải quyết vấn đề sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam từ khi có Luật nhà ở 2014. 
18. Trình bày các cách thức đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài.
19. Phân tích các vấn đề pháp lý cơ bản liên quan đến công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài
20. Phân biệt xung đột luật và xung đột thẩm quyền trong tư pháp quốc tế? Cách thức giải quyết hai hiện tượng này trong TPQT có điểm gì chung và khác biệt? Tại sao? Cho ví dụ cụ thể.
21. Bình luận các quy định trong pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và giữa người nước ngoài với nhau trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. 
22. Vấn đề miễn trừ tư pháp của quốc gia trong TPQT: căn cứ pháp lý quốc tế, căn cứ pháp lý quốc gia, thực tiễn áp dụng.
23. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.
24. Thực trạng vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
25. Thống kê và bình luận về các hệ thuộc luật được sử dụng trong các quy phạm tại Phần V BLDS năm 2015.
26. Phân tích các trường hợp làm ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung đột. 
27. So sánh cách thức uỷ thác tư pháp quốc tế quy định trong pháp luật Việt Nam với cách thức ủy thác tư pháp quốc tế trong điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước.
28. Phân tích các quyền mà tác giả được hưởng theo quy định của Công ước Berne 1886.
29. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài.
30. Bình luận các trường hợp áp dụng hệ thuộc luật do các bên lựa chọn được quy định trong BLDS năm 2015.


Chú ý:
- Sinh viên làm bài tập bằng cách viết tay hoặc đánh máy  trên khổ giấy A4 theo số trang đã quy định trong đề cương môn học. 
- Bài làm phải ghi rõ số của câu hỏi và nội dung của câu hỏi.
- Sinh viên xác định câu hỏi của mình theo cách:  Trong danh sách lớp thảo luận, sinh viên đầu tiên của nhóm 1 ứng với câu 1, sinh viên đầu tiên nhóm 2 ứng với câu 11, sinh viên đầu tiên nhóm 3 ứng với câu 21, các sinh viên tiếp theo của từng nhóm sẽ lần lượt theo thứ tự cho đến hết nhóm. Chú ý các sinh viên ở cuối nhóm 1, 2 vẫn làm theo thứ tự của mình ứng với thứ tự câu hỏi ví dụ sinh viên có số thứ tự 12 của nhóm 1 vẫn làm câu 12 và sinh viên có số thứ tự 2 của nhóm 2 cũng làm câu 12. Sinh viên thứ 11 và tiếp theo của nhóm 3 sẽ quay lại từ câu 1. 



x
Chi tiết...

BỘ BÀI TẬP HỌC KỲ TƯ PHÁP QUỐC TẾ

BỘ BÀI TẬP HỌC KỲ TƯ PHÁP QUỐC TẾ
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TẾ KỲ 2 NĂM HỌC 2016 – 2017

A. Dành cho sinh viên ngành Luật K39, Ngôn ngữ Anh K39, Ngôn ngữ Anh K40 
1. Trình bày nét đặc trưng, riêng biệt trong đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của TPQT. Cho ví dụ để chứng minh điều đó.
2. Làm rõ địa vị pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài. 
4. Bình luận về quy định tại Điều 127 Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam 2014.
5. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. 
6. Sưu tầm một vụ việc có thật trên thực tế và bằng kiến thức có được trong lĩnh vực tố tụng dân sự quốc tế hãy: xác định thẩm quyền xét xử; năng lực hành vi tố tụng của các bên; ủy thác tư pháp; và công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài...
7. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.
8. Đánh giá thực trạng và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt nam về bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài kể từ khi Việt Nam tham gia Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả.  
9. Áp dụng pháp luật nước ngoài luôn là một vấn đề phức tạp và khó khăn song lại là một yêu cầu khách quan trong việc giải quyết các vấn đề của Tư pháp Quốc tế. Hãy làm sáng tỏ nhận định đó.
10. Xung đột pháp luật – một hiện tượng pháp lý phức tạp và độc đáo. Bằng kiến thức của môn học Tư pháp quốc tế hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
11. Có quan điểm cho rằng: "Tòa án Việt Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật của quốc gia khác để giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài". Hãy bình luận nhận xét trên.
12. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài.
13. Sự tương thích của Pháp luật Việt Nam với Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
14. Phân tích vấn đề ủy thác tư pháp quốc tế theo qui định của pháp luật Việt Nam. Thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế giữa Việt Nam và các nước không kí kết điều ước quốc tế về vấn đề này? 
15. Bình luận về các quy phạm xung đột ghi nhận trong Phần V Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015 điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. 
16. Trình bày những hiểu biết của em về vấn đề quốc tịch của pháp nhân và vấn đề tư cách pháp nhân trong TPQT.
17. Đánh giá những điểm mới của pháp luật Việt Nam hiện hành trong giải quyết vấn đề sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam. 
18. Trình bày ý kiến tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình tại nước ngoài.
19. Phân tích và nhận định thực tế việc áp dụng cũng như mối quan hệ pháp lý giữa các loại nguồn của Tư pháp quốc tế Việt Nam.
20. Phân biệt xung đột luật và xung đột thẩm quyền trong tư pháp quốc tế? Cách thức giải quyết hai hiện tượng này trong TPQT có điểm gì chung và khác biệt? Tại sao? Cho ví dụ cụ thể.
21. Bình luận các quy định trong pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và giữa người nước ngoài với nhau trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. 
22. Vấn đề miễn trừ tư pháp của quốc gia trong TPQT: căn cứ pháp lý quốc tế, căn cứ pháp lý quốc gia, thực tiễn áp dụng.
23. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.
24. Thực trạng vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
25. Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng tòa án Việt Nam rất ít khi áp dụng pháp luật nước ngoài trong việc giải quyết các vụ việc tư pháp quốc tế.
26. Đánh giá về tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
27. So sánh cách thức uỷ thác tư pháp quốc tế quy định trong pháp luật Việt Nam với cách thức ủy thác tư pháp quốc tế trong điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước.
28. Nhận xét về tính khả thi khi áp dụng các quy định của Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam khi VIệt Nam là thành viên của Công ước Berne.
29. Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài.
30. Phân tích vấn đề ủy thác tư pháp quốc tế theo qui định của các điều ước quốc tế song phương Việt Nam ký kết với các nước? Thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế giữa Việt Nam và các nước kí kết điều ước quốc tế về vấn đề này? 

B. Dành cho sinh viên ngành LTMQT kỳ 2 năm học 2016 - 2017
1. Trình bày nét đặc trưng, riêng biệt trong đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của TPQT. Cho ví dụ để chứng minh điều đó.
2. Làm rõ địa vị pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam theo quy định hiện hành.
3. Áp dụng pháp luật nước ngoài luôn là một vấn đề phức tạp và khó khăn song lại là một yêu cầu khách quan trong việc giải quyết các vấn đề của Tư pháp Quốc tế. Hãy làm sáng tỏ nhận định đó.
4. Xung đột pháp luật – một hiện tượng pháp lý phức tạp và độc đáo. Bằng kiến thức của môn học Tư pháp quốc tế hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
5. Trình bày những hiểu biết của em về vấn đề quốc tịch của pháp nhân và vấn đề tư cách pháp nhân trong TPQT.
6. Phân tích và nhận định thực tế việc áp dụng cũng như mối quan hệ pháp lý giữa các loại nguồn của Tư pháp quốc tế Việt Nam.
7. Phân biệt xung đột luật và xung đột thẩm quyền trong tư pháp quốc tế? Cách thức giải quyết hai hiện tượng này trong TPQT có điểm gì chung và khác biệt? Tại sao? Cho ví dụ cụ thể.
8. Vấn đề miễn trừ tư pháp của quốc gia trong TPQT: căn cứ pháp lý quốc tế, căn cứ pháp lý quốc gia, thực tiễn áp dụng.
9. Có quan điểm cho rằng: "Tòa án Việt Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật của quốc gia khác để giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài". Hãy bình luận nhận xét trên.
10. Bình luận về các quy phạm xung đột ghi nhận trong Phần V Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015 điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. 

Chú ý:
- Sinh viên chỉ làm bài tập bằng cách TỰ VIẾT TAY (nếu nhờ viết hoặc đánh máy sẽ bị điểm 0) trên khổ giấy A4 theo số trang đã quy định trong đề cương môn học. 
- Bài làm phải ghi rõ số của câu hỏi và nội dung của câu hỏi.
- Sinh viên xác định câu hỏi của mình theo cách:  Trong danh sách lớp thảo luận, sinh viên của từng nhóm sẽ căn cứ vào số thứ tự của mình trong nhóm để làm câu hỏi tương ứng, ví dụ sinh viên có số thứ tự 8 của nhóm 1 sẽ làm câu 8. Sinh viên có số thứ tự 11 trở đi của từng nhóm sẽ quay lại làm câu 1 và tiếp theo, ví dụ sinh viên số thứ tự 12 của nhóm 1 sẽ làm câu 2. 

Chi tiết...

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI: VỪA LÀ KHÓ KHĂN, PHỨC TẠP, VỪA LÀ TẤT YẾU, KHÁCH QUAN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ CỦA TPQT


Hội nhập quốc tế đã và đang là một xu thế tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hóa các mối quan hệ dân sự - kinh tế - thương mại, hôn nhân và gia đình, là một vận hội nhưng đồng thời cũng là thách thức gay gắt đối với mọi quốc gia.

Việc quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tất yếu dẫn đến việc phát sinh nhiều ngày càng nhiều mối quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài thuộc các lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại, hôn nhân gia đình ..Để điều chỉnh các mối quan hệ này, ở những mức độ khác nhau, pháp luật cá nước đều thừa nhận và cho phép áp dụng luật nước ngoài. Nói cách khác, áp dụng pháp luật nước ngoài là một tất yếu, khách quan trong TPQT. Tuy nhiên, áp dụng pháp luật nước ngoài luôn là một vấn đề phức tạp và khó khăn.

I. Một số vấn đề chung về “áp dụng pháp luật nước ngoài” trong tư pháp quốc tế
1. Khái niệm

Về khái niệm Áp dụng pháp luật nước ngoài, giáo trình TPQT của các trường trường đại học không đưa ra khái niệm cụ thể nhưng có thể hiểu áp dụng pháp luật nước ngoài “là việc cơ quan có thẩm quyền của 1 nước vận dụng các qui định cụ thể của pháp luật 1 nước khác để giải quyết các quan hệ cụ thể “

Pháp luật nước ngoài hay “Pháp luật 1 nước khác”- ở đây thực chất chính là pháp luật của một quốc gia - đó là hệ thống văn bản pháp quy ( kể cả luật không thành văn) của một quốc gia bao gồm Hiến pháp, luật và các ăn bản dưới luật cùng với những tập quán và án lệ, thực tiễn tư pháp.

2. Trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài
Để điêu chỉnh và giải quyết các quan hệ dan sự quốc tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật nước ngoài khi xảy ra một trong hai trường hợp sau:

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng luật nước ngoài khi quy phạm xung đột (QPXĐ) dẫn chiếu tới. QPXĐ có thể là QPXĐ trong pháp luật Việt nam và quy phạm xung đột cũng có thể là trong các điều ước quốc tế mà Việt nam tham gia.

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng luật nước ngoài khi các bên thỏa thuận trong hợp đồng dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài.

Trong trường hợp không có sự dẫn chiếu của QPXĐ cũng như không có việc chọn luật của các bên đương sự, nhưng việc áp dụng pháp luật nước ngoài là cần thiết, thì có thể áp dụng nguyên tắc “Luật điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự.”

3. Thể thức áp dụng pháp luật nước ngoài
Áp dụng luật nước ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định, củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cả thế giới, song việc áp dụng pháp luật nước ngoài một số tiêu chí cơ bản sau:

Thứ nhất, Các cơ quan tư pháp có thẩm quyền cần áp dụng luật nước ngoài một cách thiện chí và đầy đủ. Điều này được hiểu là áp dụng cr một hệ thống luật nước ngoài được viện dẫn, hệ thống nước ngoài được cơ cấu như thế nào, bằng những loại nguồn pháp luật nào đều phải được áp dụng mà không được loại bỏ một cách tùy tiện.

Thứ hai, Pháp luật nước ngoài phải được giải thích và thực thi về nội dung như ở chính nước nơi nó được ban hành. Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới pháp luật nước ngoài có nghĩa là dẫn chiếu tới toàn hộ hệ thống pháp luật của nước đó. Như vậy, khi áp dụng luật nước ngoài là áp dụng toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài nên nó phải được giải thích, xác định nội dung và áp dụng để giải quyết vụ việc đúng như ở nước ban hành nó.

Thứ ba, Cơ quan tư pháp có thẩm quyền và coq quan xét xử có nhiệm vụ tìm hiểu và xác định nội dung qua nghiên cứu văn bản pháp luật, qua thực tiễn hành pháp, tư pháp, tập quán, tài liệu...của nước hữu quan. Ngoài ra có thể thoonmg qua cong dường ngoại giao, coq quan đại diện ngoại giao, lãnh sự ở nước ngoài của nhà nước mình, cung như thông qua các tổ chức tư vẫn, công ty luật hoặc cơ quan nghiên cứu pháp lý để tìm hiểu luật nước ngoài một cách tốt nhất phục vụ cho việc xét xử. Các bên đương sự trong vị việc cũng có quyền và trách nhiệm minh chứng, viện dẫn giải thích, vận dung trước cơ quan xét xử để xác định nội dung đích thực của luật nước ngoài để bảo vệ lợi ích của mình

Trong trường hợp không thể xác định được nội dung pháp luật nước ngoài, theo quan điểm của chúng ra các cơ quan xét xử nên áp dụng pháp luật nước mình để xử lý vụ tranh chấp giữa các đương sự. Sở dĩ như vậy, là vì không thể không giải quyết tranh chấp đã phát sinh và không thể áp dụng pháp luật nước ngoài một khi đã làm hết mọi cách mà không nắm được nội dung và cách giải thích vận dụng pháp luật nước ngoài hữu quan.

4. Điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài
Áp dụng luật nước ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định ,củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cá thế giới. Song việc áp dụng luật nước ngoài phải đáp ứng điều kiện là luật nước ngoài được áp dụng không trái với nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật trong nước của nước áp dụng luật nước ngoài. Điều kiện này được ghi nhận trong pháp luật các nước trên thế giới. ở việt nam, điều kiện nay được ghi nhận tại khoản 4 điều 759 BLDS 2005.

II. Những vướng mắc, khó khăn trong áp dụng pháp luật nước ngoài

Tại Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài hiện nay được quy định tại các Điều 759 Bộ luật Dân sự năm 2005Điều 5 Luật Thương mại năm 2005, Điều 4 Bộ luật hàng hải năm 2005, Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 5 Luật Đầu tư năm 2005 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo các quy định trên thì việc áp dụng pháp luật nước ngoài sẽ được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng trong các trường hợp các văn bản của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc trong các trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa thuận đó không trái với pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên thực tiễn cho thấy rằng tòa án Việt Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật quốc gia khác để giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, mà lẽ ra việc áp dụng pháp luật nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của các bên tranh chấp.

Để áp dụng pháp luật nước ngoài theo đúng cách thức đòi hỏi các cơ quan xét sử có trách nhiệm tìm hiểu nội dung. Thực tế của pháp luật Việt Nam chưa có một qui định cụ thể nào về nghĩa vụ tìm hiểu nội dung pháp luật nước ngoài thuộc về cơ quan xét xử hay của các bên đương sự. Đây là một vấn đề phức tạp và trên thực tế gây không ít khó khăn cho thẩm phán.

Tại Việt Nam, pháp luật không có quy định cụ thể về cách thức áp dụng pháp luật nước ngoài mà chỉ dựa trên các nguyên tắc xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự và lợi ích quốc gia.

Khi Tòa án Việt Nam thụ lý giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, phần nhiều liên quan đến một bên chủ thể là công dân Việt Nam nên việc ưu tiện chọn luật Việt Nam để giải quyết thường được áp dụng nhằm thuận tiện cho việc nghiên cứu Luật và theo hướng có lợi hơn cho công dân Việt Nam.

Tình trạng “luật khung”: là loại văn bản chứa đựng những quy định mang tính nguyên tắc làm cơ sở cho việc đề ra những quy định cụ thể trong quá trình điều chỉnh một hoặc một số quan hệ xã hội. Ví dụ, Luật Hôn nhân và gia đình có quy định: “Việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam do Chính phủ quy định”. Việc chỉ dừng lại ở những quy định có tính chất “khung” cho thấy, các nhà lập pháp luôn cần đến sự tham gia của các nhà quản lý trong việc đưa ra những quy định chi tiết, cụ thể nhằm áp dụng pháp luật vào hoạt động quản lý trong từng lĩnh vực cụ thể. 

Tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật khiến cho hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài còn hạn chế, nhiều khó khăn. Ví dụ: cùng quy định về thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhưng lại được quy định cả trong Luật Hôn nhân và gia đình và điểm g khoản 2 Điều 410, điểm c khoản 1 Điều 411 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.

Số lượng, chất lượng đội ngũ thẩm phán chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu mới. Một số lượng không ít Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp hiện có còn phải đi học văn hóa, nghiệp vụ, chính trị, tin học để đạt được tiêu chuẩn về trình độ theo yêu cầu mới. Nguyên nhân này xuất phát từ các quy định về tiêu chuẩn lựa chọn Thẩm phán của chúng ta không còn phù hợp với thời đại mới.. Nhiều người còn thiếu kỹ năng, kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên sâu như sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, hàng không, hàng hải, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế... Đặc biệt là sự hiểu biết còn hạn chế về pháp luật các nước trên thế giới, Thẩm phán Việt Nam biết nhiều pháp luật Việt Nam hơn pháp luật nước ngoài, những hiểu biết nếu có về pháp luật nước ngoài chỉ mang tính rời rạc, góp nhặt mà thiếu tính hệ thống, bài bản, chính vì vậy họ có xu hướng áp dụng pháp luật Việt Nam ngay cả khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới. Phần lớn các Thẩm phán đứng tuổi không tham gia được những vụ phải sử dụng đến ngoại ngữ. 

Trong vấn đề công nhận và thi hành bản án nước ngoài tại Việt Nam phải trải qua quá nhiều khâu quá trình áp dụng đơn yêu cầu phải được đến Bộ Tư pháp để xem xét tính thích hợp tính hợp lệ của đơn sau đó chuyển đến Tòa án Tỉnh để thi hành.

III. Áp dụng pháp luật nước ngoài luôn là một yêu cầu khách quan trong việc giải quyết các vấn đề của Tư pháp Quốc tế
1. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế một hệ quả tất yếu nhằm giải quyết xung đột pháp luật (theo sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột).

Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hat nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Để giải quyết XDPL nói chung trong TPQT có hai phương pháp chính là phương pháp dung đột và phương pháp thực chất thông qua việc xây dựng và áp dụng các QPXĐ cũng như quy phạm thực chất.

Để điều chỉnh và giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, một trong những cách phổ biến là quốc gia xây dựng một hệ thống các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật nước mình và trong các điều ước quốc tế mà quốc tế mà quốc gia đó là thành viên,.

Trong đó, QPXD là loại qui phạm được sử dụng rất phổ biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài của Tư pháp quốc tế..Khi không có QPTC thống nhất, các quốc gia giai quyết XDPL bằng cách xây dựng và áp dụng các QPXĐ. QPXD là quy phạm ấn đính luật pháp nước nào cần ohari áp dụng để giai quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.

QPXD được xây dựng bằng cách các quốc gia tự ban hành trong hệ thống pháp luậ của nước mình, ngoài ra nó còn được xây dựng bằng cách các quốc gia thỏa thuận ký kết các điều ước quốc tế ( gọi là QPXD thống nhất)

Chính Việc áp dụng các QPXD có ý nghĩa thừa nhận pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng để điều chỉnh mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong những trường hợp nhất định. Trong thực tiễn TPQT việc áp dụng pháp luật nước ngoài là không thể tránh khỏi là đặc thù của TPQT. Tất cả các nước đều thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài.

Xem xét ví dụ về việc cơ quan xét xử áp dụng pháp luật nước ngoài theo sự chỉ dẫn của QPXD của nhà nước mình.

Ví dụ: khoản 1 điều 773 BLDS 2005 quy định: Việc BTTHNHĐ được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại”

Như vậy nếu hành vi gây thiệt hại hoặc hậu quả của hành vi gây thiệt hại xảy ra ở nước ngoài xảy ra ở nước ngoài những vụ kiện thuộc thẩm quyền của tòa án việt nam thì tòa án VN áp dụng pháp luật nước ngoài hữu quan. Một ví dụ khác, theo luật HNGĐ ““Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn” do đó để xác định điều kiện kết hôn của bên đương sự là công dân của nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải áp dụng pháp luậ nước ngoài hữu quan.

Việc áp dụng pháp luật nước ngoài cũng có thể do QPXĐ thống nhất mà nhà nước mình tham gia xây dựng. Ví dụ: khoản điều 20 hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam- bugari năm 1985 quy định rằng: “ hình thức kết hôn được xác định theo pháp luật của nước nơi tiến hành kết hôn”. Như vậy, bất kể quốc tịch của các bên đương sự, nếu kết hôn trên lãnh thổ bugari thì pháp luật bungari được áp đụng để xe xét giá trị pháp luật của cuộc kết hôn về mặt hình thức. Trong trường hợp để điều chỉnh cùng một quan hệ xã hội cụ thể có yếu tố nước ngoài, có cả QPXĐ của riêng nước mình và quy phạm thống nhất của nhà nức tham gia xây dựng với những nội dung khác nhau thì cơ quan xét xử áp dụng quy phạm xung đột thống nhất đây là nguyên tắc chung giải quyết trường hợp có sự khác nhau về nội dung giữa pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế được quốc gia kí kết hoặc tham gia. Nguyên tắc này được quy định trong nhiều văn bản pháp luật của Việt nam như luật hôn nhân gia đình, luật thi hành án dân sự năm 2008.

Khi áp dụng QPXĐ cần lưu ý rằng, có loại quy phạm xung đột quy định áp dụng các pháp luật của nước do các bên đương sự lựa chọn, nếu các bên đương sự chọn pháp luật nước ngoài thì cơ quan xét xử phải áp dụng pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng giữa các đương dự phải được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc gia hoặc các điều ước quốc tế, nói cách khác việc thỏa thuận pháp luật chi được tiến hành trong khuôn khổ cho phép. Trong lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như quan hệ kinh tế, buôn bán quốc tế, hợp tác khoe học, kỹ thuật, văn hóa. Pháp luật các nước ở các nước mức độ khác nhau đều cho phép các bên đương sự thỏa thuận chọn luật để áp dụng. Ví dụ, Bộ luật Hàng hải năm 2005 (khoản 2 Điều 4); Luật Thương mại (khoản 2, khoản 3 Điều 4); Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 (khoản 2, khoản 3 Điều 4). Đặc biệt, đoạn 1 khoản 1 Điều 769 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định rõ: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”.
Cũng cần chú ý rằng, Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài thì việc áp dụng pháp luật nước ngoài đó là nghĩa vụ của cơ quan xét xử và các đương sự, co quan xét xử không được tự tiện gạt bot việc áp dụng pháp luật nước ngoài, trừ trường hợp cần đảm bảo trật tự công cộng theo quy định của pháp luật nước mình hoặc các điều ước quốc tế mà nước mình ý kết hoặc tham gia.

Tóm lại, chính việc áp dụng các quy phạm xung đột dẫn tới việc pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.

2. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài là nhu cầu tất yếu, khách quan,để giải quyết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng từ đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự và thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.

Việc điều chỉnh các quan hệ dân sự- kinh tế- thương mại, lao động, hôn nhân gia đình,,,có yếu tố nước ngoài ( thường liên quan đến nheieu hệ thống pháp luật) đòi hỏi sự chính xác khách quan. Vì vậy, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật Việt nam cũng như pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho phép áp dụng luật nước ngoài. Tuy nhiên, việc cho phép áp dụng luật nước ngoài không phải là nghĩa vụ pháp lí của mỗi quốc gia mà là thuộc chủ quyền quốc gia, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia cũng như bảo hộ những quyền lợi hợp pháp của công dân, pháp nhân nước mình, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự quốc tế.

Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật đã chứng tỏ rằng, nếu cơ quan tư pháp chỉ áp dụng pháp luật nước mình để điều chỉnh bất kì quan hệ ,mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài nào, bằng mọi cách cố tình mở rộng hiệu lực của pháp luật nước mình mà khồng tính đến trường hợp cụ thể cần phải áp dụng pháp luật nước ngoài đều dẫn tới sự thủ tiêu tính khach quan, công bằng- những nguyên tắc cơ bản của bất kì quá trình tố tung nào. Hậu quả là sẽ gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, pháp nhân nước ngoài.

Như vậy việ cho phép áp dụng luật nước ngoài nhằm điểu chỉnh các giao dịch dân sự có yếu tố nước ngoài là điều iện hết sức cần thiết cho sự phát triển bình thường các quan hệ mang tính chất dân sự quốc tế.

Xét một Ví dụ: công dân quốc tịch nước anh đềulàm ăn sinh sống ở nước B, một khối tài sản ở nước B, một khối tài sản ở nước C, vì lý do nào đó bị chết ở nước D và để lại di sản. Như vậy 4 hệ thống pháp luật của 4 nước tham gia điều chỉnh vè quyền thừa kế. Đối với tài sản là bất động sản thì khả năng chọn luât sẽ là nơi có vật từ là pháp luật nước C. đối với tài sản là động sản thì khả năng áp dụng luật quốc tịch là luật nước A. Nếu tài sản có cả hai loại thì phân ra động sản và bất động sản để chọn luật. Trong ví dụ này rõ ranegf là có sự áp dụng luật nước ngoài và cần thiết phải áp dụng luật nước ngoài. Việc áp dụng đó, tạo điều kiện cho công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đang của mình, góp phần đảm bảo tính ổn định và thúc đẩu các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài phát triển. Nói cách khác việc áp dụng luật nước gnoaif trong trường hợp cụ thể nàu là hợp lý, hợp tình, là yêu cầu khách quan của việc điều chỉnh pháp lý các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.

Bên cạnh đó, có thể thấy việc áp dụng pháp luật nước ngoài còn là nhu cầu tất yếu khách quan để giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế trong sự phối kết hợp của hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật mà tất cả đều thừa nhận là giữa các hệ thống pháp luật đều bình đẳng đối với nhau. Về thực chất, việc áp dụng pháp luật nước ngoài là yêu cầu của chính quốc gia trong quá trình bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như pháp nhan nước mình, của chính bản thân mình trong giao lưu dân sự quốc tế. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài không hề gây cho nước ngoài hữu quan bất kỳ thiệt hại gì và cũng không làm hại gì cho quan hệ giữa các quốc gia. Ngược lại nó làm cho giao lưu dân sự quốc tế ổ định và phát triển thuận lợi vì lợi ích chung của các cộng đồng quốc tế và của từng quốc gia. Nói cách khác, Việt cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài bao giờ cũng tăng cường và củng cố sự hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia, phát triển sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau nhằm thiết lập 1 trật tự pháp lí ổn định trên thế giới. Từ đó thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.


Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể khẳng định việc vần thiết phải áp dụng lật nước ngoài để giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, là một nhu cầu khách quan dể bảo đả, lợi ích, công bằng trong xã hội. Song việc áp dụng luật nước ngoài phải luôn gắn liền với việc bảo đảm độc lập, chủ quyền, bình đẳng và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm sự an ninh ổn định, chế độ xã hội chủ nghĩa và nền tảng pháp luật của nhà nước ta.
Chi tiết...

CÁC TRƯỜNG HỢP LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU LỰC QUY PHẠM XUNG ĐỘT


Trong Tư pháp quốc tế, để giải quyết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, việc xác định luật của quốc gia được áp dụng là rất quan trọng. Việc lựa chọn pháp luật của nước nào để áp dụng phải dựa trên quy định của các quy phạm xung đột. Tuy nhiên, không phải trong bất kì trường hợp nào pháp luật của nước được áp dụng và quy phạm xung đột dẫn chiếu cũng có hiệu lực áp dụng vì các lý do khác nhau. Để hiểu hơn vấn đề này, nhóm đã chọn đề tài: “Bình luận về các trường hợp làm ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung đột” để thực hiện bài tập nhóm.

I. Một số vấn đề chung

1. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Theo Điều 758 BLDS 2005 thì QHDS có yếu tố nước ngoài là QHDS có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các QHDS giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Từ quy định, có thể thấy, QHDS có yếu tố nước ngoài là một QHDS, do đó, nó mang những đặc điểm thể hiện bản chất một QHDS: Chủ thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc căn xứ xác lập thực hiện, thay đổi, chấm dứt ở nước ngoài, hoặc tài sản là đối tượng của quan hệ hiện diện ở nước ngoài.

2. Xung đột pháp luật

XĐPL là hiện tượng hai hay nhiều HTPL cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một QHDS theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
XĐPL thường phát sinh do các nguyên nhân sau: Thứ nhất, do pháp luật các nước quy định khác nhau trong giải quyết một quan hệ TPQT cụ thể. Thứ hai, do đặc điểm về quan hệ xã hội thuộc TPQT đều điều chỉnh. Quan hệ do TPQT điều chỉnh luôn có yếu tố nước ngoài tham gia và luôn liên quan đế ít nhất là hai HTPL. Ngoài ra, XĐPL còn phát sinh từ các nguyên nhân khác như do cách áp dụng và giải thích pháp luật của các nước có sự khác nhau.

3. Quy phạm xung đột

QPXĐ là các quy định ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế. Từ khái niệm này, có thể thấy:
-  QPXĐ không trực tiếp điều chỉnh các QHDS có yếu tố nước ngoài đang phát sinh mà các quy phạm này chỉ quy định việc chọn pháp luật nước này hay nước khác để điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước ngoài. Việc chọn luật không phải là tự do tùy tiện lựa chọn HTPL nào để áp dụng mà phải dựa trên những nguyên tắc nhất định.
- QPXĐ luôn mang tính “dẫn chiếu” . Khi QPXĐ dẫn chiếu đến HTPL áp cụ thể và các quy phạm thực chất trong HTPL đó để giải quyết QHDS phát sinh, đó chính là tính chất “song hành”giữa quy phạm thực chất và QPXĐ trong điều chỉnh pháp luật.

II. Các trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực của quy phạm xung đột trong Tư pháp quốc tế

1.   Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng

Khái niệm về “trật tự công” là một thuật ngữ trừu tượng trong pháp luật hầu hết các quốc gia, dưới góc độ TPQT được hiểu là trật tự pháp lý hình thành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia. Qua đó có thể hiểu bảo lưu trật tự công cộng là bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia.
 Ở Việt Nam, bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận ở Khoản 4 Điều 759 BLDS 2005 “…nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Như vậy, trật tự công được pháp luật Việt Nam thừa nhận là những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, ghi nhận trong Hiến pháp và ở một số VBPL khác. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng chỉ áp dụng đối với những quy định liên quan trái với trật tự công mà không phải là phủ nhận toàn bộ HTPL nước ngoài.
Nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong TPQT đó là việc sử dụng QPXĐ và nội dung pháp luật các nước có quy định khác nhau về cùng một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự công ở mỗi quốc gia là khác nhau. TPQT điều chỉnh những QHDS có yếu tố nước ngoài, dẫn đến việc có thể sử dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc. Các QPXĐ chỉ đưa ra những nguyên tắc chung để chọn luật áp dụng giữa những HTPL liên quan mà không trực tiếp quy định cách giải quyết vụ việc. Việc lựa chọn này hoàn toàn khách quan, mang tính chất dẫn chiếu và điều chỉnh gián tiếp, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khi được dẫn chiễu áp dụng luật nước ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế nhưng lại không lường trước được nội dung của quy định đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài có quy định trái với trật tự công của quốc gia mình thì khi đó phải “bảo lưu trật tự công cộng”.
Khi bảo lưu trật tự công cộng, luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không được áp dụng. Do đó, hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu. QPXĐ dẫn chiếu tới HTPL nước ngoài, nhưng luật nước ngoài không được áp dụng bởi nó trái với trật tự công thì việc dẫn chiếu đó là vô nghĩa, hay chính là việc chọn một HTPL không áp dụng được trên thực tế. Điều đó làm QPXĐ mất hiệu lực. 
Ví dụ: Khi đăng ký kết hôn giữa một nữ công dân Việt Nam (A) và nam công dân Iran (B). Iran là quốc gia hồi giáo, pháp luật n­ước này công nhận chế độ hôn nhân đa thê. Theo Khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ 2014, thì các quy định của pháp luật về HNGĐ của Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của ĐƯQT đó.
Giả định công dân B đáp ứng đầy đủ quy định của pháp luật nư­ớc B kể cả việc công nhận anh B có quyền kết hôn đa thê. Trong tình huống này nếu áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật HNGĐ sẽ dẫn đến hậu quả là cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng HTPL nước ngoài có nội dung vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, vì pháp luật HNGĐ Việt Nam chỉ công nhận chế độ hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng  (Khoản 1 Điều 2 Luật HNGĐ), do vậy, trong trư­ờng hợp này cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể từ chối không áp dụng pháp luật nư­ớc ngoài đó để bảo vệ trật tự công của Việt Nam, do tại khoản 2 Điều 122 Luật HNGĐ có quy định: “… dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật này”.
Hệ quả tích cực của bảo l­ưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không áp dụng pháp luật n­ước ngoài lẽ ra phải đ­ược áp dụng theo sự dẫn chiếu của QPXĐ mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua QPXĐ. Ví dụ: cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng pháp luật nư­ớc ngoài quy định công nhận hôn nhân đa thê.
Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực ở đây là trường hợp pháp luật nước ngoài có thể áp dụng nhưng hậu quả của việc áp dụng đó ảnh hưởng đến trật tự công quốc gia. Ví dụ việc tòa án phải công nhận hiệu lực của một bản án hay quyết định do tòa án hoặc trọng tài nước ngoài giải quyết hoàn toàn theo pháp luật nước ngoài.
Như vậy, các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở nước ta phải rất cẩn trọng trọng viêc vận dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng, song thực tiễn tư pháp cho thấy là rất hiếm các trường hợp phải vận dụng và trong trường hợp phải bắt buộc vận dụng bao giờ cũng dựa trên những cơ sở pháp lý đứng đắn và khách quan, bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc pháp chế XHCN.

2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba

Dẫn chiếu ngược có nghĩa là theo QPXĐ mà cơ quan có thẩm quyền áp dụng thì pháp luật nước ngoài cần được áp dụng để giải quyết một quan hệ TPQT cụ thể nhưng trong pháp luật nước ngoài đó lại có QPXĐ quy định áp dụng pháp luật của nước có cơ quan có thẩm quyền.
Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba có nghĩa là theo QPXĐ của nước có cơ quan giải quyết tranh chấp thì pháp luật của nước ngoài phải được áp dụng nhưng trong pháp luật nước ngoài đó lại có QPXĐ quy định cần phải áp dụng pháp luật của nước thứ ba.
Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện do nguyên nhân sau: Thứ nhất, QPXĐ gồm hai bộ phận: phần phạm vi và phần hệ thuộc. Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện khi một vấn đề pháp lý thuộc phần phạm vi của hai QPXĐ của hai nước có phần hệ thuộc khác nhau hay là do có sự quy định khác nhau trong các QPXD của các nước về nguyên tắc chọn luật áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý.
Nguyên nhân thứ hai có khả năng làm phát sinh dẫn chiếu là việc giải thích các hệ thuộc luật của các nước có thể khác nhau, có thể dẫn chiếu đến khả năng một vấn đề pháp lý sẽ được HTPL của hai nước đều cho rằng sẽ áp dụng, hoặc cả hai nước đều từ chối áp dụng cho rằng pháp luật nước mình không có thẩm quyền áp dụng.
Trong khoa học TPQT, vấn đề dẫn chiếu hiện nay có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất, coi sự dẫn chiếu của QPXĐ đến pháp luật nước ngoài chỉ là dẫn chiếu đến luật thực chất của nước ngoài (không bao gồm các quy phạm xung đột trong luật pháp của nước ngoài), có nghĩa là không chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba.
Quan điểm thứ hai, coi sự dẫn chiếu của QPXĐ đến pháp luật nước ngoài là dẫn chiếu đến cả HTPL nước ngoài (gồm các QPXĐ và quy phạm thực chất trong pháp luật của nước ngoài), có nghĩa là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba.
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu thì phải xét hai trường hợp cơ bản:
Trường hợp 1: theo quan điểm thứ nhất, cho rằng, về nguyên tắc pháp luật được áp dụng ở đây sẽ là pháp luật của nước mà được pháp luật quốc gia này dẫn chiếu đến, và áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất của nước đó để giải quyết quan hệ xã hội phát sinh.
Trường hợp 2: theo quan điểm thứ hai, cho rằng, về nguyên tắc chung, pháp luật sẽ áp dụng là pháp luật của chính quốc gia mà được pháp luật của quốc gia kia dẫn chiếu ngược trở lại hoặc pháp luật của nước thứ ba.
Ngoài ra, vấn đề dẫn chiếu sẽ không tồn tại trong khi các quốc gia ký với nhau các hiệp định song phương (thường là các hiệp định TTTP) trong đó quy định các QPXĐ thống nhất, thì về nguyên tắc, các QPXĐ thống nhất sẽ được ưu tiên áp dụng.
Việt Nam theo quan điểm thứ hai, đó là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại. Theo Khoản 3 Điều 759 BLDS: “… trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam.”
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định 138/2006/NĐ-CP thì dẫn chiếu ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba được chấp nhận ở Việt Nam. Vấn đề này trên thực tế rất hiếm gặp, do các QPXĐ cũng có giới hạn và nhìn chung các QPXĐ của TPQT là thống nhất. Đa phần phụ thuộc vào cách giải thích và ý chí của tòa án thụ lý vụ việc. Chấp nhận dẫn chiếu cũng là tôn trọng ý chí của nhà lập pháp nước ngoài đã xây dựng nên quy phạm này. Nếu không chấp nhận dễ gây khó khăn trong việc thụ lý giải quyết vụ ciệc của tòa án.
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba, việc áp dụng pháp luật như thế nào sẽ căn cứ theo TPQT các nước trên thế giới. Còn riêng trong TPQT của Việt Nam, thì vấn đề này được khẳng định là chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu.

3. Dẫn chiếu đến pháp luật của nước chưa được công nhận

Khi ban hành pháp luật, Nhà nước luôn bảo đảm lợi ích của thể nhân và pháp nhân nước mình cũng như thể nhân và pháp nhân nước ngoài. Việc thực hiện và áp dụng các QPXĐ trong các VBPL (trong nước và quốc tế), các cơ quan thực thi pháp luật không được phép phân biệt đối xử trong quan hệ với bấy kỳ quốc gia nào. Điều này là phù hợp với luật quốc tế và tập quán quốc tế.
Tuy nhiên, trên thực tế tòa án của một số nước phương Tây đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và có những hành vi kì thị đối với các HTPL mà quốc gia của họ chưa công nhận. Họ không công nhận việc dẫn chiếu tới HTPL của nước chưa được công nhận với lí lẽ là đến nhà nước còn chưa được công nhận, thì không thể công nhận HTPL của nó.
Việt Nam luôn khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán là chống lại mọi hành vi phân biệt và kì thị giữa các quốc gia và giữa Việt Nam với các nước. Giữa các quốc gia Việt Nam đã công nhận và những quốc gia còn chưa công nhận sẽ không có sự phân biệt hoặc kì thị nào. Việt Nam luôn ủng hộ quan điểm là việc công nhận quốc gia hay chính phủ không làm phát sinh một chủ thể mới trong luật quốc tế mà việc công nhận chỉ là thủ tục, các bước tạo tiền đề cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ và hoàn toàn nhằm củng cố, tăng cường khả năng hợp tác về mọi mặt giữa nước ta với nước ngoài phù hợp với đường lối đổi mới công tác đối ngoại của nhà nước là đa phương hóa và đa diện hóa.[1] Quá trình đấu tranh để giành lại chủ quyền, độc lập tự do của các dân tộc là một quá trình bền bỉ phức tạp, nước ta luôn ủng hộ quá trình này, nhằm thiết lập một trật tự pháp lý quốc tế bảo đảm công bằng và công lý trên toàn thế giới chống lại mọi sự phân biệt kì thị giữa các dân tộc.

4. Vấn đề có đi có lại trong việc áp dụng luật nước ngoài

Nguyên tắc có đi có lại được ghi nhận trong luật pháp của đa số các nước trên thế giới cũng như được thể hiện trong rất nhiều ĐƯQT. Ví dụ: Khoản 1 Điều 1 Hiệp định TTTP Việt Nam – Liên bang Nga: “Công dân của bên kí kết này được hưởng trên lãnh thổ của bên kí kết kia sự bảo vệ pháp lý đối với nhân thân và tài sản như công dân của bên kí kết kia”.
TPQT các nước phần lớn đều thừa nhận việc thi hành các QPXĐ không bị hạn chế bởi các quy định của nguyên tắc có đi có lại. Điều này có nghĩa, khi cơ quan tư pháp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền vận dụng luật nước ngoài để giải quyết vụ việc sẽ không cần thiết phải xem xét là ở nước ngoài đó có áp dụng luật pháp của nước kia không.[2]  
Lý giải vấn đề này: Việc áp dụng luật nước ngoài là nhu cầu tất yếu khách quan để giải quyết các QHDS quốc tế trong sự phối kết hợp của hai hoặc nhiều HTPL mà tất cả đều thừa nhận là giữa các HTPL đó đều bình đẳng đối với nhau. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc thiện chí giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Toà án khi giải quyết các vụ dân sự quốc tế, dựa trên các QPXĐ để cho phép áp dụng luật nước ngoài là để bảo vệ quyền lợi của quyền lợi chính đáng của các bên đương sự và cũng không phương hại đến chủ quyền quốc gia, ngoài ra còn tăng thêm sự hợp tác quốc tế.
Nguyên tắc có đi có lại trong pháp luật Việt Nam được thể hiện trong BLTTDS quy định chỉ áp dụng các bản án của nước ngoài đối với những nước có kí Hiệp định TTTP với Việt Nam, trong đó có quy định về vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của mỗi nước.

5. Lẩn tránh pháp luật

Lẩn tránh pháp luật là hiện tượng đương sự dung những biện pháp cùng thủ đoạn để thoát khỏi HTPL đáng nhẽ phải được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ cả họ và nhằm tới một HTPL khác có lợi hơn cho mình.
Mỗi quốc gia đều có hệ thống QPXĐ riêng, vì vậy, tuy cùng một vụ việc nhưng cách giải quyết ở các quốc gia sẽ rất khác nhau. Khi nhận thấy HTPL thực chất do QPXĐ dẫn chiếu đến có khả năng sẽ gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ sẽ tìm cách tránh để không phải chịu sự điều chỉnh của HTPL đó và hướng đến một HTPL khác có lợi hơn trên cơ sở vận dụng các QPXĐ sao cho có lợi nhất. Đây chính là cơ sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong TPQT. Để tránh áp dụng HTPL bất lợi cho mình và áp dụng HTPL có lợi hơn,chủ thể của quan hệ này thường áp dụng các thủ đoạn như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động sản thành bất động sản hoặc ngược lại từ nước này sang nước khác,…
Hầu hết các quốc gia đều xem đây là một hiện tượng không bình thường và đều tìm cách hạn chế hoặc ngăn cấm. Ở Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp luật là vi phạm và không được chấp nhận. Thực tiễn ở nước ta về hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong TPQT hầu như chưa có, nhưng trong các VBPL đã quy định về vấn đề này như: Luật HNGĐ 2014, Nghị định 126/2014/NĐ – CP hay Điều 758 BLDS quy định về QHDS có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các quy định này cũng chỉ mới được thể hiện một vài khía cạnh, chưa đưa ra được cơ sở pháp lý chung để xử lý hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong quan hệ có yếu tố nước ngoài.
Thiết nghĩ Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các chế định, quy định pháp luật để khắc phục hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong TPQT Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Bộ luật Dân sự năm 2005;
2.     Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
3.     Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội, 2015;
4.     Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2013;
5.     TS. Nguyễn Hồng Bắc, Hướng dẫn học và ôn tập môn Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2014.

Chi tiết...