About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Luật Hôn nhân - Gia đình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Luật Hôn nhân - Gia đình. Hiển thị tất cả bài đăng

Câu hỏi ôn tập Luật Hôn nhân và Gia đình

Câu hỏi ôn tập Luật Hôn nhân và Gia đình
DOWNLOAD tại đây!

1. Người đủ 18 tuổi trở lên và không mất năng lực hành vi dân sự là người có năng lực hành vi hôn nhân và gia đình đầy đủ? 
2. Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Toà án không công nhận nam nữ là vợ chồng?
3. Con chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là con có cùng huyết thống với cha mẹ. 
4. Người đang chấp hành hình phạt tù là người không có quyền kết hôn?
5. Những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có họ trong phạm vi ba đời?
6. Việc đăng ký hộ tịch liên quan đến hôn nhân và gia đình có thể uỷ quyền cho người khác làm đại diện.
7. Anh A kết hôn hợp pháp với chị B năm 1995, có đăng ký kết hộn Tháng 3.2016, anh A trúng số độc đắc với mức trúng thưởng là 100 triệu động Sau khi trúng thưởng, anh A dùng số tiền trên để phụ giúp cho cha mẹ anh mà không giao cho chị B quản lý, sử dung. Chị B yêu cầu anh A giao cho chị 50 triệu đồng vì chị cho rằng đây là tài sản chung nên phần chị là một nữa số tiền trúng thưởng. Anh A cho rằng đây là tài sản riêng của ạnh Anh A lý giải rằng: số tiền mua vé số là do anh được anh C là bạn của anh cho. Anh C xác nhận là anh có cho anh A 50.000 động Anh C cũng biết là anh A trúng số 100 triệu Theo anh (chị) , số tiền anh A trúng số là tài sản chung của anh A và chị B hay là tài sản riêng của anh A? Tại sao? 
8. Người chưa thành niên, thì chưa đủ tuổi kết hôn. 
9. Tài sản riêng của con chưa thành niên về nguyên tắc thuộc quyền quản lý của cha mẹ.
10. Thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài chỉ thuộc UBND cấp tỉnh. 
11. Khi tổ chức đăng ký kết hôn, nếu chỉ có mặt của một bên nam hoặc nữ, cơ quan đăng ký kết hôn không được tổ chức lễ đăng ký kết hôn. 
12. Người bị nhiễm vi rút HIV vẫn được quyền kết hôn. 
13. Nam và nữ chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn, cũng có thể được pháp luật công nhận là vợ chồng?
14. Tháng 07/2015, anh A và chi B được UBND xã X huyện Y tỉnh H tiến hành đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận kết hôn. Việc kết hôn xảy ra khi anh A 21 tuổi và chị B 16 tuổi. Trong quá trình chung sống, anh chị có một con chung là K và khối tài sản chung trị giá khoảng 100 triệu đồng. Tháng 02/2016, anh A bị tai nạn dẫn đến tử vong. Tháng 05/2016, khi tiến hành phân chia di sản thừa kế dẫn đến tranh chấp: • Những người thừa kế di sản anh A không thừa nhận quyền thừa kế của chị B, vì họ cho rằng anh A và chị B là kết hôn trái pháp luật, không phải là vợ chồng. • Chị B lại cho rằng chị là vợ của anh A nên chị là hàng thừa kế thứ nhất. Theo anh (chị), chị B có được quyền thừa kế di sản của anh A không? Vì sao? 
15. Cha mẹ là người đại diện đương nhiên cho con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.
16. Nam nữ kết hôn phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. 
17. Thu nhập hợp pháp của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. 
18. Vợ, chồng có nhiệm vụ cấp dưỡng cho nhau khi hôn nhân đang tồn tại.
19. Ông bà là người cấp dưỡng cho cháu chưa thành niên khi cha mẹ cháu chết. 
20. Mọi tài sản mà vợ chồng có trước thời kỳ hôn nhân đều là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. 
21. Anh A sinh ngày 01/02/1998 và cư trú tại xã X huyện Y tỉnh K; Chị B sinh ngày 01/05/2000 và cư trú tại xã M huyện Y tỉnh K. Ngày 15/01/2017, anh A và chị B được UBND xã N huyện Y tỉnh K cấp giấy chứng nhận kết hôn số 01/CNKH. Sau thời gian chung sống hạnh phúc, vợ chồng phát sinh mâu thuẩn nên ngày 15/12/2017, anh A và chị B đã làm đơn yêu cầu tòa án huyện Y tỉnh K cho anh chị ly hôn. Toà án đã thụ lý vụ việc. Anh A và chị B có tài sản chung 100 trđ. Theo anh (chị) trong trường hợp này tòa án sẽ giải quyết cho anh A và chị B ly hôn hay hủy việc kết hôn trái pháp luật? Tại sao? 
22. Tất cả tài sản mà vợ chồng có được trước khi kết hôn đều là tài sản riêng của vợ, chồng nếu họ không tự nguyện nhập vào tài sản chung. 
23. Anh, chị, em ruột có quyền yêu cầu TA hạn chế quyền của Cha mẹ đối với con theo Điều 41 luật HNGĐ. 
24. Người không có điều kiện về kinh tế vẫn có thể có quyền nhận nuôi con nuôi.
25. Giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn, mà không có sự thỏa thuận của hai vợ chồng, thì giao dịch đó không có giá trị pháp lý. 
26. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà không thực hiện nghĩa vụ thì TA có thể ra quyết định buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, tính từ ngày ghi trong bản án quyết định.
27. Người chưa thành niên cũng có thể kết hôn.
28. Năm 2005, ông A được Cha mẹ mình tặng cho 1 căn nhà diện thích 40m2.Năm 2016 ông A kết hôn với bà B. Sau khi kết hôn hai người về sống chung trong căn nhà này. Năm 20175 ông A chết trong 1 tai nạn giao thông.Sau khi ông A chết, bà B có đơn yêu cầu TA chưa cho chia di sản thừa kế là căn nhà nói trên, vì nếu phân chia sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến của sống của bà và 2 đứa con nhỏ là C (4 tuổi) và D (2 tuổi).Nhưng bố mẹ của ông A lại yêu cầu phân chia di sản thừa kế nói trên, vì ông bà không còn khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và hiện tại không có ai nuôi dưỡng, cấp dưỡng.Theo anh chị thì TA sẽ giải quyết như thế nào? Chấp nhận yêu cầu của ai? Nêu cơ sở pháp lý. 
29. Người từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất năng lực hành vi dân sự là người có năng lực là người có năng lực hành vi hôn nhân và gia đình. 
30. Khi tòa án không công nhận nam nữ là vợ chồng thì tài sản chung chia đôi. 
31. Nam nữ chung sống trước ngày 01/01/2015 đều được công nhận là vợ chồng.
32. Người đang chấp hành hình phạt tù không có quyền nhận người khác làm con nuôi.
33. Khi ly hôn, việc giao con chung từ đủ 9 tuổi trở lên cho cha hoặc mẹ nuôi là căn cứ vào nguyện vọng của con. 
34. Ông bà là đại diện đương nhiên cho cháu khi cha mẹ của cháu chết. 
35. Anh A kết hôn hợp pháp với chị B năm 2015, có đăng ký kết hôn. Tháng 03/2016,  anh A chung sống như vợ chồng với chị C, có một con chung sinh năm 2017. Tháng 06/2017, chị B phát hiện được sự việc trên và yêu cầu anh A chấm dứt quan hệ trái pháp luật với chị C, song anh A vẫn cố tình vi phạm. Để bảo vệ quyền lợi cho mình, Chi B đã làm đơn yêu cầu tòa án huyện K hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa anh A và chị C và tòa án đã thụ lý yêu cầu của chị B Tòa án huyện K đã ra quyết định tuyên hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa anh A và chị C. Theo anh (chị), Tòa án đã giải quyết như vậy là đúng hay sai? Tại sao? 
36. Người chưa thành niên, thì chưa đủ tuổi kết hôn. 
37. Tài sản riêng của con chưa thành niên về nguyên tắc thuộc quyền quản lý của cha mẹ.
38. Thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài chỉ thuộc UBND cấp tỉnh. 
39. Khi tổ chức đăng ký kết hôn, nếu chỉ có mặt của một bên nam hoặc nữ, cơ quan đăng ký kết hôn không được tổ chức lễ đăng ký kết hôn. 
40. Người bị nhiễm vi rút HIV vẫn được quyền kết hôn. 
41. Nam và nữ chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn, cũng có thể được pháp luật công nhận là vợ chồng. 
42. Người đủ 18 tuổi trở lên và không mất năng lực hành vi dân sự là người có năng lực hành vi hôn nhân và gia đình đầy đủ.
43. Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Toà án không công nhận nam nữ là vợ chộng.
44. Con chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là con có cùng huyết thống với cha me.
45. Người đang chấp hành hình phạt tù là người không có quyền kết hôn 
46. Những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có họ trong phạm vi ba đời 
47. Việc đăng ký hộ tịch liên quan đến hôn nhân và gia đình có thể uỷ quyền cho người khác làm đại diện. 
48. Anh A kết hôn hợp pháp với chị B năm 2005, có đăng ký kết hôn. Tháng 3.2016, anh A trúng số độc đắc với mức trúng thưởng là 100 triệu động Sau khi trúng thưởng, anh A dùng số tiền trên để phụ giúp cho cha mẹ anh.mà không giao cho chị B quản lý, sử dung. Chị B yêu cầu anh A giao cho chị 50 triệu đồng vì chị cho rằng đây là tài sản chung nên phần chị là một nữa số tiền trúng thưởng Anh A cho rằng đây là tài sản riêng của ạnh Anh A lý giải rằng: số tiền mua vé số là do anh được anh C là bạn của anh cho. Anh C xác nhận là anh có cho anh A 50.000 đồng Anh C cũng biết là anh A trúng số 100 triệu .Theo anh (chị) , số tiền anh A trúng số là tài sản chung của anh A và chị B hay là tài sản riêng của anh A? Tại sao? 
49. Phong tục tập quán là nguồn của luật HNGD. 
50. Luật HNGD cấm kết hôn giữa bố chồng với con dâu; mẹ vợ và con rể. 
51. Kết hôn trái pháp luật là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng kí kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn. 
52. Những tài sản chung của vợ chồng phải đăng kí quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả 2 vợ chồng. 
53. Cha dượng với con riêng của vợ là thành viên trong 1 gia đình. 
54. Trong gia đình những tài sản không phải là tài sản riêng của vợ (chồng) thì đó là tài sản chung của vợ chồng. 
55. Anh A và chị B xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp ngày 11/2/2009. Anh chị có hai con chung là M (sinh ngày 4/3/2010) và N (sinh ngày 10/1/2012). Sau một thời gian chung sống giữa 2 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Ngày 15/5/2017 chị B làm đơn xin ly hôn với anh A. Liên quan đến vấn đề con chung, anh A cho rằng chị B không có nghề nghiệp ổn định, lại đang bị bệnh nên không đủ điều kiện nuôi con nên anh yêu cầu đựợc nuôi cả M và N. Chị B muốn trực tiếp nuôi dưỡng N vì cho là cháu còn quá nhỏ không thể sống thiếu mẹ được. Theo anh (chị) nếu Toà án giải quyết cho anh A và chị B ly hôn thì tranh chấp nuôi con trên của A và B được giải quyết như thế nào? Vì sao? 
56. Người chưa thành niên vẫn có thể kết hôn. Người đã xác định lại giới tính và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết việc cải chính hộ tịch theo quy định của pháp luật thì có quyền kết hôn. 
57. Trong mọi trường hợp, nam nữ tiến hành đăng ký kết hôn phải nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau thì chỉ cần xác nhận tình trạng hôn nhân tại nơi đang cư trú còn tình trạng hôn nhân trước đó họ được tự cam đoan và chịu trách nhiệm. 
58. Tài sản chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu nhưng GCNQSH chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì người có tên trong GCN đương nhiên là chủ sở hữu của tài sản đó. Khi vợ hoặc chồng thực hiện các giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình mà không có sự đồng ý của bên kia thì người thực hiện giao dịch phải thanh toán bằng tài sản của riêng mình. 
59. Xác nhận cha, mẹ cho con theo thủ tục hành chính chỉ được tiến hành khi việc nhận cha, mẹ, con là hoàn toàn tự nguyện, không tranh chấp và bên nhận, bên được nhận đều còn sống vào thời điểm đăng ký. Cha, mẹ luôn là người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất NLHVDS. 
60. Ly hôn là chấm dứt hôn nhân do Tòa án công nhận khi cả hai vợ chồng cùng yêu cầu. Người đang chấp hành án phạt tù không có quyền yêu cầu giải quyết kết hôn. 
61. Tòa án giải quyết công nhận thuận tình ly hôn không phải qua thủ tục hòa giải. Khi ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữ vợ, chồng luôn được đặc ra khi một bên túng thiếu, có yêu cầu với mức cấp dưỡng do hai bên thỏa thuận. 
62. Ông A, bà B kết hôn năm 2002 và có một con chung là M (sinh tháng 8/2005). “Tâm đầu ý hợp” được vài năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông A sinh tật cờ bạc, rượu chè. Tháng 12/2015, ông A bỏ nhà đi không một lời giải thích, mặc bà B một mình bươn chải nuôi con. Tháng 12/2016, ông A quay về với ý muốn đoàn tụ để nuôi dạy con chung nhưng bà B nhất quyết xin ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án, tài sản chung 2 bên thống nhất gồm 1 xe Wave, 1 xưởng dệt, căn nhà chung vợ chồng đang cư ngụ… với tổng trị giá hơn 900 triệu đồng. Ngoài ra, ông A còn khai vợ chồng họ nợ bà D, người ngụ ở địa phương khác 256 triệu đồng (giấy nhận tiền do ông ký tên được lập tháng 3/2016). Theo ông A thì số tiền này ông vay để làm ăn hầu kiếm tiền gửi về phụ giúp bà B nuôi con nhưng không may việc làm ăn bị thất bại. Bà B không thừa nhận khoản nợ này vì ông A vay bà không hề biết.Trên cơ sở tranh chấp cùng với việc nhận định khoản nợ 256 triệu đồng do ông A vay năm 2016 là nợ chung vì được lập trong thời kỳ hôn nhân, bản án sơ thẩm số 06/HNST ngày 16/5/2017 của TAND quận Q đã quyết định: i) Về hôn nhân: Bà B được ly hôn với ông A; ii) Về con chung: Giao cháo M cho bà B trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 400.000/tháng; iii) Về tài sản: Chia đôi giá trị khối tài sản chung hiện có đồng thời buộc ông A và bà B phải liên đới trả cho bà D 256 triệu đồng (mỗi người trả một nửa số nợ – tính cả gốc lẫn lãi).Theo anh (chị), phán quyết sơ thẩm của TA quận Q có hợp lý không? Tại sao? 
63. Hội Liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu TA ra quyết định huỷ kết hôn trái PL do 1 bên bị cưỡng ép, bị lừa dối. Người bị huỷ kết hôn trái PL thì không có quyền kết hôn lại.
64. Nam nữ vi phạm điều kiện kết hôn và thực hiện đăng kí kết hôn sai thẩm quyền thì TA sẽ ra quyết định huỷ kết hôn trái PL. Hậu quả của việc huỷ hôn là quan hệ vợ chồng chấm dứt. 
65. Vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau khi hôn nhân đang tồn tại. Ông bà là người cấp dưỡng cho cháu chưa thành niên khi cháu không còn cha mẹ. 
66. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng được NN giao khoán cho mỗi bên sau khi kết hôn là tài sản chung của 2 vợ chồng. Tiền trúng số mà vợ hoặc chồng có được trong thời kì hôn nhân là tài sản riêng của người đó. 
67. Con sinh ra sau khi người chồng chết thì được xác định là con chung của hai vợ chồng. Con chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là con cùng thuyết thống với cha mẹ. 
68. Ly hôn theo yêu cầu của 1 bên vợ (chồng) không phải thông qua thủ tục hoà giải tại TA. TA tuyên bố 1 bên vợ hoặc chồng chết là sự kiện pháp lý làm chấm dứt thực sự hôn nhân của họ. 
69. Ông A, bà B chung sống với nhau như vợ chồng từ 2.2.1999 (đủ điều kiện nhưng không đăng kí kết hôn) và có 2 con chung là N sinh năm 2000 và H sinh năm 2006. NHờ tài kinh doanh bất động sản, năm 2007, ông A đã mua được 1 ngôi nhà trên phố trị giá 2 tỷ đồng và đứng tên chủ sở hữu ngôi nhà đó. Cuộc sống chung của A, B sau đó mâu thuẫn trầm trọng.Ngày 1.1.2015, ông A làm đơn xin ly hôn với bà B. phần con chung là N và H, cho rằng mình có đủ điều kiện kinh tế, ông mong muốn nhận nuôi cả 2. Về tài sản, ông A đề nghị TA chia đôi trị giá khối tài sản chung vợ chồng hiện có (…) trị giá trên 900 triệu đồng. Riêng ngôi nhà trên phố, ông A đề nghị được nhận lại vì theo ông đây là tài sản có được nhờ chính công sức của ông, là tài sản riêng của ông.Theo anh chị: TA có công nhân hôn nhân hợp pháp của ông A và bà B do họ đã “sống chung như vợ chồng” như trên không? Tại sao? 
70. Nếu giải quyết việc ly hôn giữa A và B. Toà án phỉa ra phán quyết về tranh chấp giữa các bên như thế nào?Vì sao? 
71. Mọi trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà ko đăng kí kết hôn là trái pháp luật.
72. Mọi trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà ko đăng kí kết hôn đều ko được công nhận là vợ chồng.
73. Tài sản mà vợ chồng cùng được tặng cho trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng .
74. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
75. Con sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân là con chung của vợ chồng.
76. Trường hợp hai vợ chồng tình nguyện li hôn thì tòa án phải xử cho họ được li hôn.
77. Nêu những điểm mới của luật hôn nhân và gia đình 2014 về điều kiện kết hôn 
78. Anh T và chị H sống chung với nhau không đăng kí kết hôn mà chỉ tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống bắt đầu từ ngày 5/4/2009, năm 2011 anh chị sinh được M, năm 2013 sinh được N. Năm 2014 chị H được bố mẹ cho 250 triệu, năm 2015 bố mẹ anh T cho vợ chồng anh chị 200 triệu, năm 2016 anh chị dùng số tiền này mua được căn nhà cấp bốn 90m2, năm 2017 anh chị phát sinh mẫu thuẫn, đồng nghiệp hàng xóm và gia đình hòa giải không được. ngày 6/6 /2017 chị H viết đơn tời tòa án huyện X xin li hôn và yêu cầu chia tài sản của vợ chồng.Hỏi: Tòa sẽ giải quyết quan hệ hôn nhân của hai người như thế nào?2. Tòa án sẽ giải quyết việc chia tài sản của hai người như thế nào? (Nêu rõ các căn cứ pháp lí) 
79. Trường hợp các bên nam nữ vi phạm điều kiện kết hôn và thực hiện việc đăng ký kết hôn sai thẩm quyền, thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật.
80. Anh, Chị là người đại diện theo pháp luật cho em chưa thành niên trong trường hợp cha, mẹ chết hoặc cha, mẹ còn sống mà không thực hiện nghĩa vụ này. 
81. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng. 
82. Công đoàn VN có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định chấm dứt nuôi con nuôi. 
83. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thị không được kết hôn.
84. Chỉ có UBND Xã, Phường, Thị trấn mới có thẩm quyền tiến hành đăng ký kết hôn. 
85. Người từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất năng lực hành vi dân sự là người có năng lực là người có năng lực hành vi hôn nhân và gia đình. 
86. Khi tòa án không công nhận nam nữ là vợ chồng thì tài sản chung chia đôi.
87. Người đang chấp hành hình phạt tù không có quyền nhận người khác làm con nuôi.
88. Khi ly hôn, việc giao con chung từ đủ 9 tuổi trở lên cho cha hoặc mẹ nuôi là căn cứ vào nguyện vọng của con. 
89. Ông bà là đại diện đương nhiên cho cháu khi cha mẹ của cháu chết.
90. Người chưa thành niên, thì chưa đủ tuổi kết hôn. 
91. Tài sản riêng của con chưa thành niên về nguyên tắc thuộc quyền quản lý của cha mẹ.
92. Thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài chỉ thuộc UBND cấp tỉnh. 
93. Khi tổ chức đăng ký kết hôn, nếu chỉ có mặt của một bên nam hoặc nữ, cơ quan đăng ký kết hôn không được tổ chức lễ đăng ký kết hôn. 
94. Người bị nhiễm vi rút HIV vẫn được quyền kết hôn. 
95. Con chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là con có cùng huyết thống với cha mẹ. 
96. Người đang chấp hành hình phạt tù là người không có quyền kết hôn.
97. Anh A và chị B là vợ chồng sống chung được 2năm.Có một đứa con.Do hòan cảnh gia đình khó khăn 2 anh chị vay tiền để chị B đi xuất khẩu lao động.Sau một thời gian chỉ gửi tiên về trả được hết số nợ và còn dư 100tr.Nhưng sau đó chị không thấy về và tòa đã tuyên bố là chị đã chết.Anh A đi lấy chị C.Số tiền 100tr chị B gửi về anh A và chị C đem đi kinh doanh và lãi được thêm 100tr nữa.1 năm sau khi anh A và chị C kết hôn thì chị B trở về.a/hỏi khi chị B được coi là đã chết thi những ai được hưởng thừa kế.b/chị B có được gì trong khối tài sản của anh A và chị C không.số tài sản này được chia như thế nào .
98. Mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung. 
99. Tường hợp vợ chồng thực sự tự nguyện ly hôn, đã thoả thuận được về việc chia tài sản và nuôi dưỡng con cái thì Toà án phải chấp nhận cho ly hôn. 
100. Tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng thì người đó có toàn quyền định đoạt không phụ thuộc ý chí của bên còn lại. 
101. Phân tích quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất.
102. Anh T và chị H được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán từ ngày 1/10/2008 (không có đăng ký kết hôn). Trong lễ cưới, cha mẹ anh T tuyên bố cho chị H một sợi dây chuyền (5 chỉ vàng). Hai năm sau, cha mẹ anh T cho vợ chồng anh mảnh đất 150m2 để làm nhà và hai người đã cùng đứng tên chủ quyền mảnh đất này. Cuộc sống gia đình hạnh phúc, hai anh chị đã có các con chung là cháu M (2010) và cháu N (2012). Đến cuối năm 2017, giữa hai người phát sinh mâu thuẫn. Ngày 12/10/2017, anh T đã làm đơn xin ly hôn gửi đến Toà án (Toà đã thụ lý). Trong thời gian chờ giải quyết vụ việc, ngày 15/10/2017, anh T đã kết hôn với chị X (có đăng ký kết hôn) Toà án sẽ giải quyết vụ việc như thế nào (chia tài sản và con chung) ? Tại sao? Chị H có đơn yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa anh T và chị X. Toà án sẽ xử lý yêu cầu này ra sao.
103. Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt hôn nhân.
104. Nam từ đủ 20 tuổi trở lên được quyền kết hôn.
105. Định đoạt tài sản chung của vợ chồng cần có sự bàn bạc và thỏa thuận giữa 2 vợ chồng. 
106. Nghĩa vụ dân sự riêng của 1 bên vợ chồng được thanh toán bằng tài sản riêng của bên đó. 
107. Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án chấm dứt nuôi con nuôi. 
108. Con được mang thai trong thời kỳ hôn nhân, sinh ra sau quan hệ hôn nhân chấm dứt là con chung của vợ chồng. 
109. Anh A và chị B xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp vào ngày 4/3/2009. Anh chị có 1 con chung là Y sinh ngày 10/1/2010. Sau 6 năm chung sống, A và B có khối tài sản chung là 1 căn nhà trị giá 1 tỉ 300 triệu đồng tại số 85 đường P quận Q và một số tài sản là động sản khác trị giá là 500 triệu đồng. Ngày 16/7/2016, sau 1 thời gian phát sinh mâu thuẫn và không thể giải quyết được, A và B làm đơn ra tòa yêu cầu giải quyết ly hôn. A và B tự thỏa thuận về vấn đề con chung và tài sản chung như sau: sau ly hôn, A nuôi con chung là Y với điều kiện ngôi nhà thuộc sở hữu của A; B không cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn; B sở hữu toàn bộ phần tài sản là động sản. Tòa án giải quyết cho A và B ly hôn, vấn đề con chung và tài sản chung giải quyết theo sự thỏa thuận của các bên. Sau khi ly hon được 2 năm, A làm đơn ra tòa yêu cầu tòa án giải quyết việc buộc B phải 8 cấp dưỡng nuôi con chung cho đến tuổi thành niên. Theo anh/chị, tòa án giải quyết vụ việc trên như thế nào và tại sao lại giải quyết như vậy? 
110. Tiền trúng số mà vợ (chồng) có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của người đó. 
111. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ được coi là có hiệu lực khi được Tòa án công nhận.
112. Quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt khi các bên tham gia quan hệ này cùng tự nguyện chấm dứt quan hệ.
113. Tòa án phải quyết định giao con dưới 3 tuổi cho mẹ trực tiếp nuôi khi các bên không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con.
114. Khi một bên bị Tòa án tuyên bố chết trở về thì quan hệ hôn nhân của họ mặc nhiên được phục hồi nếu vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác.
115. Trước khi kết nghĩa vợ chồng hợp pháp cùng chị H vào đầu tháng 4/2009, anh Ph sở hữu một ngôi nhà trên phố trị giá 200 triệu đồng. Sau kết hôn, anh Ph và chị H về sống tạm tại khu tập thể nhỏ nơi chị H công tác. Hầu lấy tiền trang trải cuộc sống chung của vợ chồng, anh Ph đã đưa ngôi nhà thuộc sở hữu riêng của mình vào sử dụng chung – cho thuê. Vì chị H có thai và sinh con ngay sau khi kết hôn; anh Ph cũng chưa tìm được việc mới do doanh nghiệp nơi anh làm việc vừa bị Tòa án tuyên bố phá sản nên hoàn cảnh kinh tế của anh Ph, chị H rất chật vật. Thu nhập hàng tháng từ việc cho thuê ngôi nhà là nguồi sống duy nhất của gia đình họ. Tháng 3/2012, sau khi cùng một người bạn bàn bạc hùn vốn mở công ty kinh doanh, anh Ph đã bán ngôi nhà của mình cho một thương gia với giá 450 triệu đồng. Khi chị H tỏ ý bất bình về việc anh Ph tự ý định đoạt ngôi nhà mà không hề cho chị biết, anh Ph cho rằng căn nhà trên là tài sản riêng của anh nên anh có toàn quyền quyết định.Theo anh (chị), quan điểm của anh Ph đúng hay sai? Tại sao? Nếu có tranh chấp xảy ra, cơ quan có thẩm quyền sẽ giải quyết như thế nào?
116. Con riêng với bố dượng và mẹ kế không thể là thành viên gia đình vì họ không có mối quan hệ huyết thống với nhau.
117. Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu tòa án ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật do một bên bị cưỡng ép, bị lừa dối. 
118. Tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân mới được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
119. Khi con đẻ có hành vi ngược đãi, hành hạ,xúc phạm cha mẹ đẻ thì cha mẹ đẻ có quyền yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết cho chấm dứt quan hệ cha mẹ với người đó. 
120. Đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì cha (mẹ) không trực tiếp nuôi phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con trong mọi trường hợp. 
121. Ông A và bà B có tổ chức lễ cưới vào năm 2008. sau 3 năm “nên nghĩa vợ chồng”, ông A dùng nửa số tiền thu được từ hoạt động kinh doanh riêng của mình ( không có công sức đóng góp của bà B) để mua một ngôi nhà trị giá 1.6 tỷ và đứng tên chủ quyền ngôi nhà đó.ngày 28/10/2013, ông A và bà B đăng kí kết hôn. Năm 2014, bà B sinh con là C nhưng không may bé bị khuyết tật về thể chất. Để có điều kiện lo cho con lại được người quen giới thiệu, đầu năm 2015, bà B đi lao động xuất khẩu tại cộng hòa Liên bang Đức. Hàng tháng, bà B đều đặn gửi tiền về để lo cho cuộc sống chồng, con. Sẵn có tiền, ông B không còn chí thú làm ăn lại công khai sống chung như vợ chồng với bà D. Năm 2016, bà B về nước. Sau khi dùng toàn bộ số tiền tiết kiệm được bằng mồ hôi và nước mắt trong những ngày xa xứ để nhận chuyển nhượng một thửa đất diện tích 3000m2 (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà B đứng tên sau đó), bà B liền nộp đơn xin ly hôn ông A và yêu cầu Tòa án nhân dân quận Q giải quyết vấn đề tài sản và con cái do cả A và B đều không tìm được tiếng nói chung.Hỏi: nếu tòa án nhân dân quận Q giải quyết cho A và B ly hôn thì tranh chấp giữa các bên sẽ được phân định như thế nào? vì sao? 
122. Tài sản riêng của 1 bên vợ hoặc chồng được dùng để đáp ứng nhu cầu riêng của bên đó. 
123. Khi cha mẹ có hành vi xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con chưa thành niên, thì Tòa án sẽ ra quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. 
124. Khi vợ chồng có đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn thì Tòa án phải tiến hành thủ tục hòa giải. 
125. Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên có thể tự thỏa thuận với nhau về việc chấm dứt nuôi con nuôi. 
126. Người bị hạn chế NLHVDS không được kết hôn. 
127. Xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng thì phải có sự đồng ý của cả 2 bên vợ chồng.
128. Anh B, chị H kết hôn trái pháp luật vào ngày 1/2/2015. Ngày 14/5/2015 Tòa án ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật của B và H. Liên quan đến tài sản chung, B cho rằng toàn bộ tài sản có trong gia đình là của B vì được mua bằng tiền lương của B. H không đi làm mà chỉ ở nhà làm công việc nội trợ nên H không được nhận gì trong phần tài sản chung. H cho rằng dù mình ở nhà làm công việc nội trợ, nhưng những công việc đó giúp đỡ B rất nhiều để B có thể toàn tâm toàn ý làm việc tạo thu nhập, vì vậy nên B phải chia cho H 1 phần trong khối tài sản chung. Hai bên B và H không thể thỏa thuận được việc chia tài sản chung, họ làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung.Theo anh (chi) Tòa án giải quyết việc chia tài sản trên như thế nào? Tại sao?
129. Con riêng với bố dượng, mẹ kế không thể là thành viên trong cùng một gia đình vi họ không có quan hệ huyết thống với nhau. 
130. Người có con nuôi mà kết hôn với người khác thì người con nuôi đương nhiên trờ thành con nuôi của người khác đó. 
131. Anh A cùng chị B kết hôn năm 2012. Năm 5 năm sau, do mâu thuẫn nên hai bên quyết định ly thân và chia đôi tài sản chung là 200 triệu đồng (văn bản thỏa thuận được công chứng vào tháng 01/2017). Ngay sau đó, chị B bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Tháng 08/2017, chị B sinh một bé trai nhưng không đăng kỳ khai sinh và cũng không nói rõ bố bé là ai. Cuối năm 2017, anh A nộp đơn xin ly hôn chị B. Trong khi việc ly hôn chưa được giải quyết thì ngày 04/12/2017, anh A đột tử không để lại di chúc. Sau khi A chết, gia đình A bất ngờ phát hiện 3 tờ vé số trúng độc đắc trị giá 375 triệu do A mua và trúng thưởng trước đó mà chưa kịp lĩnh. Cùng lúc, chị B khi nghe tin liền yêu cầu gia đình A chia cho mẹ con chị toàn bộ số tiền trúng thưởng mà anh để lại (cha mẹ anh A đã mất và lúc này chị B 10 cũng đã tiến hành đăng ký khai sinh cho cháu bé với tên là Nguyễn Văn C, tên cha là Nguyễn Văn A). Tuy nhiên, người thân thích của anh A phản đối vì theo họ, A và B đã chia tài sản chung và trên thực tế, họ cũng đã ly thân, không còn quan hệ vợ chồng. Trước tình thế đó, chị B khởi kiện ra tòa yêu cầu được bảo vệ quyền lợi. Dựa vào quy định của pháp luật hiện hành, hãy xác định chủ sở hữu số tiền 375 triệu tranh chấp trên?Theo anh/chị, chị B và con C có được hưởng di sản thừa kế của anh A không? Vì sao? 
132. Nếu tiến hành hòa giải tại tòa án không thành thì tòa án fai xử cho vợ, chồng li hôn. 
133. Quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi là một chế tài của Luật hôn nhân và gia đình
134. Bố dượng và mẹ kế có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con riêng của vợ hoặc chồng. 
135. Bố dượng và mẹ kế có quyền và nghĩa vụ đối với con riêng của vợ hoặc chồng khi người con đó sống chung với họ. 
136. Về nguyên tắc, khi có yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật tòa án phải ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật. 
137. Phân tích những nội dung cơ bản của chế định tài sản của vợ chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Chi tiết...

NÊU VÀ PHÂN TÍCH NHỮNG ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC PHƯƠNG THỨC TƯ VẤN


I. Các phương thức tư vấn pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình

1. Tư vấn bằng lời nói

Tư vấn trực tiếp bằng lời là một trong số những hình thức tư vấn pháp luật. Theo đó, tư vấn pháp luật bằng lời nói được hiểu là người tư vấn trao đổi bằng lời nói với khách hàng, trao đổi mọi thông tin liên quan cần thiết đến vấn đề mà khách hàng cần tư vấn.
Thực tiễn hoạt động tư vấn pháp luật cho thấy hình thức tư vấn bằng miệng là hình thức phổ biến. Với các vụ việc có tính chất đơn giản, khách hàng thường gặp người tư vấn để tìm hiểu bản chất pháp lý của vụ việc trên cơ sở đó giúp họ tìm giải pháp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp một cách nhanh chóng, có hiệu quả. Tuy vậy, hoạt động tư vấn pháp luật là một hoạt động đa dạng, phức tạp đòi hỏi một quá trình lao động trí óc.
Vì vậy khi tư vấn trực tiếp bằng miệng cho khách hàng, người tư vấn cần thiết phải tôn trọng một quy trình sau đây[1]:
-  Thứ nhất, người tư vấn cần phải lắng nghe khách hàng trình bày và ghi chép đầy đủ nội dung chính, ý chính, trên cơ sở đó đặt câu hỏi để làm rõ thêm. Thông thường, lần đầu tiên tiếp xúc, người tư vấn chưa thể nắm bắt một cách chắc chắn bản chất của sự việc đó, hơn nữa, khách hàng thường trình bày theo ý chủ quan và bỏ qua nhiều chi tiết mà họ cho là không cần thiết. Do đó, người tư vấn cần gợi ý những vấn đề để khách hàng trình bày đúng bản chất của vụ việc. Người tư vấn nên lưu ý khách hàng, chỉ có thể đưa ra giải pháp chính xác, đầy đủ và đúng pháp luật nếu khách hàng trình bày vấn đề trung thực và khách quan. 
Đồng thời, người tư vấn phải nắm bắt được tâm lý khách hàng để có những ứng xử, giao tiếp phù hợp. Ngoài ra, người tư vấn cũng cần phải khiêm tốn, thái độ đúng mực, thông cảm, chia sẻ và tôn trọng khách hàng.
-  Thứ hai, người tư vấn yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu liên quan đến vấn đề cần tư vấn. Những giấy tờ, tài liệu này phản ánh diễn biến của quá trình tranh chấp hoặc bản chất của vụ việc mà khách hàng yêu cầu tư vấn. Nếu không có những tài liệu này, việc tư vấn có thể không chính xác.
Sau khi khách hàng cung cấp đầy đủ các văn bản, giấy tờ, tài liệu có liên quan, người tư vấn cần phải dành thời gian để nghiên cứu các giấy tờ tài liệu đó. Trường hợp sau khi nghe khách hàng trình bày và nghiên cứu các tài liệu do khách hàng cung cấp mà thấy không thể trả lời ngay được, phải thông báo điều đó cho khách hàng và hẹn khách hàng gặp vào một ngày khác.
-  Thứ ba, tra cứu tài liệu tham khảo. Đây là công việc cần thiết để khẳng định với khách hàng rằng người tư vấn dựa trên cơ sở pháp lý chắc chắn, tư vấn theo pháp luật chứ không phải theo cảm tính, chủ quan, đồng thời giúp chính người tư vấn khẳng định đúng những suy nghĩ, cảm tính của chính mình trước đó. Việc dùng các quy định của pháp luật để làm cơ sơ cho các kết luận của mình đều là bắt buộc.
-  Thứ tư, người tư vấn phải định hướng cho khách hàng. Thực chất là việc đưa ra giải pháp trả lời (bằng miệng) các vấn đề mà khách hàng yêu cầu. Người tư vấn cần phải trung thực, phân tích vấn đề trên cơ sở pháp lý và luôn đứng về phía khách hàng của mình. Không được thiên vị, chủ quan, bởi như vậy, sẽ không nhận được sự tin tưởng của khách hàng. Nếu chưa tin tưởng vào giải pháp của mình, người tư vấn nên hẹn khách hàng vào một ngày khác.
-  Thứ năm, trong quá trình tư vấn, có thể kết hợp hòa giải. Người tư vấn giúp hai bên đương sự hòa giải, thỏa thuận với nhau để tìm ra một giải pháp thỏa đáng. Tuy nhiên, trong trường hợp hoà giải, người tư vấn phải cho khách hàng biết bản chất của vấn đề, tức là nếu đưa vụ án ra xét xử tại Toà án hoặc Trọng tài họ sẽ được lợi gì và nếu tự hoà giải họ cũng sẽ được lợi gì.

2. Tư vấn bằng văn bản

Tư vấn pháp luật bằng văn bản được hiểu là người tư vấn trao đổi bằng văn bản với khách hàng, trao đổi mọi thông tin liên quan cần thiết đến vấn đề mà khách hàng cần tư vấn.
Việc tư vấn bằng văn bản thông thường được tiến hành khi:
-  Khách hàng ở xa, không trực tiếp đến gặp người tư vấn và không muốn tư vấn qua điện thoại.
-  Khách hàng muốn khẳng định độ tin cậy của giải pháp thông qua việc đề ra các câu hỏi để người tư vấn trả lời bằng văn bản.
-  Kết quả tư vấn bằng văn bản có thể được khách hàng sử dụng để phục vụ cho mục đích khác của họ.
-  Những vụ, việc phức tạp mà nếu người tư vấn tư vấn bằng lời nói thì khách hàng không nắm bắt hết được.
Theo yêu cầu của khách hàng việc tư vấn bằng văn bản có thể được thực hiện theo hai hình thức: Khách hàng viết đơn, thư, chuyển fax và khách hàng trực tiếp đến gặp người tư vấn và đề nghị tư vấn bằng văn bản.
Khi thực hiện tư vấn bằng văn bản thông thường hai bên (người tư vấn và khách hàng) phải ký hợp đồng tư vấn pháp luật với nhau (ví dụ: Điều 26 Luật Luật sư quy định về thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý). Trong trường hợp một bên yêu cầu thì hợp đồng phải được công chứng.
Cũng như việc tư vấn bằng miệng, việc tư vấn bằng văn bản yêu cầu phải quán triệt các bước sau đây:
-  Nghiên cứu kỹ yêu cầu của khách hàng.
-  Trao đổi với khách hàng về yêu cầu của họ để khẳng định trong một số trường hợp cần thiết.
-  Tra cứu các tài liệu văn bản pháp luật có liên quan để phục vụ cho việc tư vấn.
-  Soạn văn bản trả lời cho khách hàng.

II. Ưu và nhược điểm của các phương thức tư vấn

·     Ưu điểm:
-  Người tư vấn có thể quan sát trực tiếp cử chỉ, tâm lý khách hàng để hiểu rõ hơn về tâm lý khách hàng, có thể tương tác với khách hàng một cách tích cực để tìm ra giải pháp phù hợp.
-  Khi người tư vấn tư vấn trực tiếp bằng miệng: những thắc mắc của khách hàng sẽ được giải đáp cặn kẽ, chi tiết nhất. Được gặp và trao đổi trực tiếp với người tư vấn, khách hàng có thể có được câu trả lời nhanh nhất. Hơn nữa, khách hàng cũng có thể đưa ra các yêu cầu của mình dễ dàng hơn. Trực tiếp đến gặp người tư vấn, khách hàng sẽ trao đổi được nhiều hơn, nhận được sự tư vấn rõ ràng hơn. Đây là hình thức được sử dụng nhiều và mang lại hiệu quả cao nhất.
-  Với hình thức tư vấn bằng lời nói qua điện thoại: hình thức này rất tiện lợi cho khách hàng ở xa hay bận rộn không thể đến gặp trực tiếp người tư vấn. Người tư vấn có thể nghe khách hàng trình bày thắc mắc cũng như đưa ra cho khách hàng lời khuyên qua điện thoại. Hình thức này thực hiện nhanh chóng nhưng chỉ giải quyết được các tranh chấp, vấn đề không liên quan đến thủ tục.
Hình thức tư vấn này ngày càng phổ biến vì hiện tại, điện thoại là phương tiện liên lạc nhanh và hữu hiệu. Khách hàng có thể có được số điện thoại của người tư vấn qua người quen, qua khách hàng cũ của người tư vấn hay họ thấy thông tin của chúng ta trên báo chí, trên mạng internet.

·     Nhược điểm:
-  Hình thức này không chỉ đòi hỏi người tư vấn phải am hiểu pháp luật mà còn phải có các kỹ năng giao tiếp với khách hàng, như các kỹ năng: tạo niềm tin cho khách hàng, đồng cảm, thuyết phục, tự chủ cảm xúc[2],… Ngoài ra, người tư vấn cũng cần phải am hiểu xã hội, tâm lý khách hàng.
-  Đối với hình thức tư vấn qua điện thoại: những vấn đề liên quan đến thủ tục, giấy tờ thì hình thức này không đạt được hiệu quả cao. Bởi, người tư vấn không thể giới thiệu, tư vấn, hướng dẫn khách hàng một cách tỷ mỷ, khoa học và chính xác.
-  Kết quả tư vấn, hướng dẫn của người tư vấn chỉ có tính định hướng cho khách hàng. Do đó, khách hàng có thể làm theo hướng dẫn hoặc không làm theo. Mặt khác, khách hàng cũng không thể sử dụng kết quả tư vấn để phục vụ cho mục đích khác của mình.
-  Ngoài ra, khách hàng sẽ mất khá nhiều thời gian để gặp gỡ, tiếp xúc với người tư vấn. Phí tư vấn cũng khá cao, chưa kể chi phí cho việc đi lại,…

-  Khác với tư vấn trực tiếp bằng miệng, tư vấn bằng văn bản tạo cơ hội cho người tư vấn thâm nhập hồ sơ kỹ càng và chính xác hơn, vì thế có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho khách hàng. Tư vấn bằng văn bản yêu cầu người tư vấn phải làm việc cẩn thận hơn, chu đáo và văn bản tư vấn đưa ra phải có độ chính xác, có cơ sở khoa học và đúng pháp luật.
-  Khách hàng có thể nắm bắt rõ ràng hơn, đầy đủ hơn những tư vấn của người tư vấn, trong trường hợp, vụ, việc cần tư vấn quá phức tạp, mà khách hàng không thể nắm bắt hết được khi người tư vấn tư vấn bằng lời nói.
-  Khách hàng có thể khẳng định độ tin cậy của giải pháp mà người tư vấn đưa ra. Qua đó, khách hàng có thể sử dụng kết quả tư vấn vào những mục đích khác của mình.
-  Ngoài ra, với hình thức này, khách hàng không phải mất thời gian để đến gặp trực tiếp người tư vấn. Chi phí tư vấn thường ít tốn kém hơn so với tư vấn mặt đối mặt bằng lời nói. Hơn nữa, chi phí đi lại, có thể tránh được.
·     Nhược điểm:
-  Người tư vấn khó có thể nắm bắt bắt được hết tâm lý khách hàng, khó có cơ hội tương tác để tìm hiểu rõ hơn những yêu cầu của khách hàng. Do đó, người tư vấn khó có thể đưa ra được những giải pháp vừa đúng pháp luật, vừa hợp lý, lại hợp tình.
-  Hình thức này, ngoài việc đòi hỏi người tư vấn phải có những kỹ năng chung về tư vấn pháp luật, thì còn đòi hỏi người tư vấn phải có kỹ năng soạn thảo văn bản tư vấn tốt[3].
-  Khách hàng sẽ không có cơ hội để tìm hiểu, yêu cầu giải đáp các vướng mắc mới phát sinh, thời gian nhận được sự tư vấn, hướng dẫn sẽ lâu hơn so với tư vấn trực tiếp bằng lời nói.
-  Người tư vấn có thể tư vấn, hướng dẫn một cách rõ ràng, tỷ mỷ đến khách hàng nhữngn giấy tờ, tài liệu cần thực hiện.
-  Một hình thức tư vấn mà nhiều văn phòng, trung tâm tư vấn đã áp dụng đó là tư vấn qua mail. Những vấn đề, thắc mắc mà bạn gặp trong cuộc sống bạn có thể gửi đến các văn phòng qua mail. Những văn phòng sẽ có người check mail và trả lời thắc mắc của bạn. Tuy nhiên, hình thức này thường mất khá nhiều thời gian.



[1] Tham khảo: Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật (TS. Phan Chí Hiếu – Ths. Nguyễn Thị Hằng Nga, Chủ biên), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012
[2] Chu Liên Anh, Một số vấn đề lý luận về tư vấn pháp luật, Tạp chí Tâm lý học, số 2 (119), 2 – 2009
[3] Chu Liên Anh, Một số vấn đề lý luận về tư vấn pháp luật, Tạp chí Tâm lý học, số 2 (119), 2 – 2009
Chi tiết...

Khi đương sự là người già (Nam giới, khoảng 70 tuổi) muốn kết hôn với một cô gái 30 tuổi nhưng bị con cái (đã trưởng thành) phản đối. Hiện tại ông đã có con với cô gái này và muốn nhận con nhưng các con của ông cũng không đồng ý vì cho rằng ông đâng bị cô gái kia lừa tình. Ông muốn từ con và để lại tài sản của ông và vợ (người vợ đã chết được 10 năm) cho cô gái và đứa con riêng.


Khi là người tư vấn, em sẽ vận dụng kỹ năng gì để xử lý tình huống sau:
Khi đương sự là người già (Nam giới, khoảng 70 tuổi) muốn kết hôn với một cô gái 30 tuổi nhưng bị con cái (đã trưởng thành) phản đối. Hiện tại ông đã có con với cô gái này và muốn nhận con nhưng các con của ông cũng không đồng ý vì cho rằng ông đang bị cô gái kia lừa tình. Ông muốn từ con và để lại tài sản của ông và vợ (người vợ đã chết được 10 năm) cho cô gái và đứa con riêng.
NỘI DUNG
Tư vấn pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là việc giải đáp pháp luật về HN&GĐ, đưa ra ý kiến, hướng dẫn cá nhân, tổ chức xử sự đúng pháp luật HN&GĐ. Đồng thời, cung cấp thông tin pháp luật hoặc dịch vụ pháp lý giúp cho cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong lĩnh vực HN&GĐ.
Để thực hiện tư vấn pháp luật trong lĩnh vực HN&GĐ, người tư vấn pháp luật cần phải hiểu biết pháp luật, trung thực, kiên nhẫn, giàu kinh nghiệm sống, có kiến thức tâm lý sâu, có khả năng phản ứng nhanh với các tình huống. Và đặc biệt, người tư vấn pháp luật cần phải biết áp dụng các kỹ năng tư vấn phù hợp, để tư vấn, giải quyết các vụ việc, tình huống cụ thể.
Qua tình huống mà đề bài đưa ra, với tư cách là người tư vấn, nhóm đã lựa chọn các kỹ năng sau đây để tư vấn, giải quyết vụ việc:
Việc thiết lập quan hệ thân thiện, tin cậy với khách hàng trong tư vấn pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho người tư vấn để tạo không khí thân thiện, thoải mái với khách hàng. Bên cạnh đó còn giúp cho người tư vấn có thể khai thác đầy đủ thông tin từ phía khách hàng, cũng như việc khách hàng sẽ cung cấp tất cả các thông tin vụ việc diễn ra và người tư vấn yêu cầu. Tuy nhiên, đối với mỗi đối tượng tư vấn, người tư vấn phải có cách thiết lập quan hệ với khách hàng khác nhau.Với người trẻ tuổi thì người tư vấn phải có cách thiết lập khác với người trung tuổi và người già tuổi.
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của người già luôn cô đơn, trống trải, luôn hoài niệm về những cái đã qua, do vậy mà họ dễ trở nên nóng tính. Cho nên, theo chúng tôi khi tiếp xúc với một đối tượng khách hàng là người cao tuổi như cụ già trong tình huống trên cần thực hiện những kỹ năng sau:
-  Tiếp cận khách hàng:
Tiếp xúc khách hàng có vai trò quan trọng, là khâu then chốt để cởi nút thắt của vấn đề. Bằng những kiến thức về tâm lý lứa tuổi, người tư vấn cần xác định rõ tâm lý của người già có sự thay đổi sau tuổi 60 bởi vậy việc tạo ra một không khí cởi mở, xóa bỏ khoảng cách là yêu cầu nhất thiết phải đạt được. Chẳng hạn, khi khách hàng 70 tuổi đến trung tâm tư vấn và cho xin ý kiến về vụ việc trên, trước hết tư vấn viên cần có thái độ kính trọng, nhã nhặn, khiêm tốn để cho khách hàng có cơ sở chắc chắn rằng đây là nơi mà mình có thể nói được mọi điều trong lòng. Người tư vấn có thể sử dụng cách chào hỏi như sau:“Cháu chào bác ạ! Không biết hôm nay đến với trung tâm tư vấn pháp luật bác có điều gì chia sẻ? Cháu rất mong được nghe câu chuyện của bác và có thể giúp bác tìm ra giải giáp giải quyết vướng mắc!”. Làm như vậy, khách hàng sẽ thấy được sự nhiệt tình, tâm huyết, sự kính trọng, khiêm tốn, từ đó, sẽ tạo được tâm lý cởi mở, dể dàng nói lên vụ việc của mình với người tư vấn.
Bên cạnh đó khi nói chuyện, vì khách hàng là người già, đôi khi tâm lý sẽ khó khăn hơn, dễ nổi nóng hơn, thường thể hiện thái độ không được vừa lòng nên người tư vấn phải thể hiện thái độ tôn trọng, cử chỉ phù hợp để khách hàng có thể nói chuyện cởi mở hơn, tạo tâm lý tin tưởng đối với người tư vấn. Thể hiện thái độ tôn trọng với khách hàng sẽ kích lệ khách hàng tự tin bày tỏ, tự tin vào khả năng hành động của họ để tự đưa ra quyết định, từ đó, còn tạo mối quan hệ cởi mở, chân thật, thân thiện giữa người tư vấn với khách hàng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin, giải quyết vấn đề một cách hiện quả. Đồng thời, người tư vấn phải thể hiện thái độ sẵn sàng phục vụ khách hàng, khi khách hàng đến tư vấn thì người tư vấn phải kiên nhẫn lắng nghe với thái độ chia sẻ, thành tâm, không được sử dụng điện thoại hoặc là một việc khác khi đang tiếp khách hàng.
-  Tác động tâm lý khách hàng:
Như đã khẳng định người già có sự thay đổi về tâm lý và trở nên nóng nảy trước những vấn đề không được vừa lòng, cho nên người tư vấn cần có biện pháp nhằm khắc phục tình trạng này. Trên góc độ y học, các bác sỹ có sử dụng một phương pháp trị liệu tâm lý là phương pháp tập trung vào bệnh nhân (client centerde therapy), theo phương pháp này bác sỹ sẽ cho người bệnh nói ra những điều họ nghĩ, không đưa ra ý kiến bình luận. Trong tình huống trên ta nhận thấy, khi khách hàng đang có mâu thuẫn trong cách suy nghĩ với con cái cho nên đã dẫn đến quyết định từ con và chuyển tài sản cho cô gái 30 tuổi và con chung của hai người. Có thể thấy, vấn đề mấu chốt là khách hàng này muốn được kết hôn, mà việc các con không đồng ý là nguyên nhân. Bởi vậy, người tư vấn nên sử dụng những câu nói giúp cho khách hàng tự tin để nói ra câu chuyện của mình, đồng thời lắng nghe, tạo sự đồng cảm và đặc biệt không nên vội vàng đưa ra quan điểm bình luận. Chẳng hạn: “Cháu rất thông cảm với suy nghĩ của bác! Cháu luôn muốn lắng nghe những tâm sự của bác, hy vọng bác có thể tiếp tục chia sẻ câu chuyện của mình…”
Khi gặp gỡ, giao tiếp với khách hàng thì người tư vấn phải nắm bắt được tâm lý của khách hàng, không được tỏa ra bi quan, lạc quan thái quá đối với những vấn đề mà khách hàng chia sẻ. Đồng thời, khách hàng sẽ cảm thấy được sự quan tâm của người tư vấn đói với vấn đề của mình.
-  Giới thiệu về kinh nghiệm, trình độ chuyên môn:
Theo nhóm chúng tôi, một yếu tố giữ vai trò vô cùng quan trọng trong bước đầu tiếp xúc khách hàng đó là giới thiệu về kinh nghiệm, năng lực của mình. Khi khách hàng tìm đến trung tâm tư vấn bất kỳ, họ luôn muốn đó là nơi mà đáp ứng được dịch vụ tốt nhất và vướng mắc của họ có thể giải quyết. Và một cơ sở chắc chắn để họ có thể tin tưởng được đó là kinh nghiệm. Bởi vậy, khi mới gặp lần đầu với khách hàng nói chung và đối tượng khách hàng là người già nói riêng, tư vấn viên cần giới thiệu về lĩnh vực mà khách hàng quan tâm, tuy nhiên không tới mức khoa trương. Có thể: “Rất vui khi được chia sẻ vởi bác, trung tâm của chúng cháu đã có kinh nghiệm trên 20 năm làm công tác pháp luật liên quan tới lĩnh vực hôn nhân và gia đình, với đội ngũ tư vấn viên có thể độc lập giải quyết vấn đề. Hy vọng đây sẽ là nơi đáp ứng được tốt nhất yêu cầu của bác…”
Mặt khác, người tư vấn cần phải giới thiệu mình là ai, họ tên, chức vụ. Để khách hàng có thể tin tưởng vào khả năng, trình độ của mình, vì khách hàng là người già nên đôi khi sẽ khóa khăn trong việc tin tưởng vào một ai để mà chia sẻ những thông tin riêng tư của mình.
Như vậy, việc thiết lập mối quan hệ thân thiện, cởi mở cho khách hàng là yêu cầu không thể thiếu trong tư vấn pháp luật nói chung và tư vấn trong lĩnh vực HN&GĐ nói riêng. Điều này đòi hỏi người tư vấn không chỉ có kiến thức về pháp luật mà cần phải có kiến thức về tâm lý giới tính, lứa tuổi và am hiểu cách đối nhân xử thế.
Thu thập thông tin từ khách hàng thực chất là việc yêu cầu khách hàng các tài liệu, chứng cứ phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc cần tư vấn.
Để đưa ra lời khuyên (tư vấn) chính xác, đúng pháp luật, cảm hóa, thuyết phục được khách hàng thì người tư vấn phải đề nghị khách hàng nói rõ yêu cầu tư vấn, nếu tư vấn giải quyết một vụ việc thì phải yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ các tài liệu (nếu có) phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp.
 Trong thực tiễn, người tư vấn khó có thể đưa ra những lời khuyên (tư vấn) chính xác nếu chỉ nghe khách hàng trình bày. Đối với những yêu cầu tư vấn đơn giản, rõ ràng, sau khi nghe khách hàng trình bày, người tư vấn có thể phân tích, giải thích, hướng dẫn được ngay cho đối tượng, song đối với những vụ việc phức tạp, đã diễn ra trong một thời gian dài, vụ việc đã được một số cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân can thiệp hoặc giúp đỡ giải quyết, nhưng khách hàng vẫn không hài lòng và tiếp tục khiếu kiện thì phải yêu cầu khách hàng cung cấp các chứng cứ và tài liệu (nếu có) liên quan đến nội dung và diễn biến vụ việc (thông thường người tư vấn chỉ nhận bản sao chụp các giấy tờ, tài liệu đó sau khi đã đối chiếu với bản chính). Trong trường hợp cần thiết, người tư vấn phải tự mình tìm hiểu, thu thập chứng cứ, gặp gỡ các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã từng tham gia giải quyết, gặp người làm chứng, nghe họ trình bày về diễn biến và nội dung vụ việc mà họ biết được. Chỉ có như vậy thì người tư vấn mới có thể hiểu biết được bản chất vụ việc, từ đó đưa ra lời tư vấn chính xác, đúng pháp luật, cảm hóa, thuyết phục được khách hàng nghe theo lời khuyên của mình.
  Trong phần lớn các vụ việc trợ giúp pháp lý thường có các tài liệu, văn bản, thư từ giao dịch,... liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ, tài liệu này là những chứng cứ pháp lý thể hiện nội dung, bản chất của vụ việc hoặc phản ánh diễn biến và quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, có những vụ việc đối tượng chỉ trình bày vụ việc một cách chung chung, chưa muốn cung cấp cho người tư vấn những văn bản, chứng cứ mà họ cho rằng không có lợi cho mình. Người tư vấn cần thuyết phục để họ cung cấp đầy đủ. Nếu đối tượng không cung cấp những tài liệu này thì việc tư vấn khó có thể chính xác và đúng pháp luật.  Sau khi đối tượng đã cung cấp đầy đủ các văn bản, tài liệu có liên quan, người tư vấn cần dành thời gian để đọc, nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu đó, trong khi đọc có thể đồng thời hình thành luôn giải pháp trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của vấn đề đưa ra. Có những tài liệu người tư vấn không hiểu, không đọc được hoặc nghi ngờ về tính chân thực của nó thì cần hỏi lại đối tượng để khẳng định ngay. Trường hợp sau khi nghe đối tượng trình bày và nghiên cứu các tài liệu do khách hàng cung cấp thấy chưa thể đưa ra lời khuyên ngay được mà phải có thời gian nghiên cứu thì hẹn tư vấn cho khách hàng vào một ngày khác. Trong mọi trường hợp, khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho khách hàng thì người tư vấn không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.
* Thu thập thông tin về việc ông muốn kết hôn với cô gái (30 tuổi)
- Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 quan hệ hôn nhân chấm dứt:  Do ly hôn và do vợ, chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết (Điều 65 Luật HN&GĐ).
Do đó, đầu tiên để khẳng định chắc chắn quan hệ hôn nhân của bác với bác gái đã chấm dứt, tư vấn viên có thể đặt câu hỏi: “Bác gái đã mất cách đây được 10 năm đúng không ạ?”. Bởi, theo quy định, nếu khách hàng đang tồn tại quan hệ hôn nhân, sẽ không được phép đăng ký kết hôn nữa.
Tiếp đó, người tư vấn cần đặt ra các câu hỏi để kiểm tra các thông tin, xem khách hàng có đáp ứng các điều kiện kết hôn theo Điều 8 và xem xét khách hàng có rơi vào trường hợp cấm kết hôn theo Khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ hay không. Ví dụ:
- “Bác và cô ấy yêu nhau lâu chưa ạ? Bác thấy hạnh phúc khi sống cùng cô ấy chứ ạ?”. Qua đó, có thể biết được sự tự nguyện, không có sự lừa dối hay cưỡng ép xảy ra.
-  Bác cho cháu hỏi cô gái mà bác muốn kết hôn đã có chồng chưa hoặc đã từng kết hôn chưa? Bởi nếu cô ấy có chồng thì bác không thể kết hôn với cô ấy. 
  Nếu bác đáp ứng được những điều kiện trên thì bác hoàn toàn có thể kết hôn với cô gái đó mà không chịu sự ràng buộc hay ảnh hưởng từ việc ngăn cản của các con bác.
* Thu thập thông tin về việc nhận nuôi đứa trẻ
Người tư vấn có thể hỏi khách hàng các câu hỏi có liên quan đến việc xác định cha mẹ, con, như: “Bác cho cháu được biết, trong Giấy khai sinh, có tên cha đứa bé không?”.
- Nếu cô gái đó chưa có chồng, sắp tới bác và cô ấy có ý định kết hôn (chưa đăng ký kết hôn) mà hiện giờ bác muốn nhận đứa trẻ đó là con vì cho rằng đó là con của mình thì bác đã hỏi cô gái đó có đồng ý chưa?
  Nếu cô gái đó đồng ý, thì theo khoản 1 Điều 88 quy định: “Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”. Lúc này, đứa trẻ đó sẽ được xác định là con chung của bác và cô gái đó. Đây là nguyên tắc suy đoán theo Luật HN&GĐ 2014
- Nếu cô gái trước đó có chồng nhưng bây giờ đã ly hôn, đứa trẻ đó được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân thì cần thu thập thông tin:
+ Bác đã hỏi ý kiến chồng cô gái về việc bác muốn nhận đứa trẻ đó là con chưa? Anh ta có đồng ý cho bác là cha đứa trẻ không?
+ Nếu anh ta đồng ý thì bác đã yêu cầu anh ta làm thủ tục không nhận con  chưa? ví dụ đưa ra tòa nhưng chứng cứ chứng minh đó không phải con anh ta? Về phía bác đã ra y ban nhân dân (UBND) cơ sở nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của cô gái để làm tờ khai nhận quan hệ chưa con chưa? và đưa ra những chứng cứ chứng minh đứa trẻ là con chưa?
+ Nếu anh ta không đồng ý thì bác đã chuẩn bị giấy tờ tài liệu chứng cứ chứng minh đứa trẻ đó là con mình để khởi kiện ra tòa yêu cầu nhận con chưa?
Thông qua những câu hỏi như trên, người tư vấn có thể nắm bắt được thông tin về quan hệ nhân thân của đứa bé, từ đó, có thể tư vấn khách hàng cách thức để xác định con, nhận con.
* Từ con, để lại thừa kế cho cô kia và con riêng (tài sản chung của vợ chồng )
- Từ con:
1. Tư vấn viên có thể đặt câu hỏi: “Bác có chứng cứ chứng minh những anh chị đó, không phải là con của bác không?”, “Bác có thể đưa ra được những chứng cứ như xét nghiệm ADN, hay những anh chị đó không được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc bác gái có thai anh chị đó không trong thời kì hôn nhân không?”....
Thông qua những câu hỏi như vậy, tư vấn viên sẽ xác định được quan hệ huyết thống giữa khách hàng với con cái của họ. Bởi, theo quy định, nếu không có quan hệ huyết thống, thì cha, mẹ có thể yêu cầu Tòa án xác định một người không là con của mình, đồng thời, phải có chứng cứ chứng minh điều này.
2. Chia tài sản chung
- Tài sản mà bác định cho cô gái đó và đứa là tài sản chung của bác và bác gái quá cố phải không ạ?
Sở dĩ, hỏi như vậy là để xác định đó có phải là tài sản chung hay không? Nếu đó là tài sản chung của 2 vợ chồng khách hàng thì khách hàng không thể cho cô gái và đứa con được, mà tài sản đó sẽ được chia đôi (bác 1 nửa, bác gái 1 nửa). Phần tài sản của bác gái chia như thế nào lại phụ thuộc vào việc bác gái có để lại di chúc hay không?
* Có 2 trường hợp:
- Bác gái khi mất có để lại di chúc không ạ?
Nếu có di chúc thì bác gái để lại khối tài sản của bác gái trong khối tài sản chung cho ai? (1 nửa trong khối tài sản chung). Qua câu hỏi này, tư vấn viên có thể biết được ai sẽ là người được hưởng thừa kế phần di sản mà bác gái để lại.Qua đó, hình dung ra việc, nếu bác gái để lại toàn bộ di sản của bác gái cho khách hàng thì lúc đó khách hàng mới được hưởng toàn bộ tài sản trong khối tài sản chung và được định đoạt toàn bộ những tài sản đó.
- Nếu không có di chúc thì cần phải đặt câu hỏi như sau: 
Vợ bác đã mất được 10 năm, trong 10 năm đó thì phần di sản của bác gái đã được bác và các con của bác chia chưa?
Thông qua câu hỏi này, người tư vấn có thể biết được phần di sản mà bác gái để lại đã được phân chia hay chưa. Bởi hết thời hiệu thừa kế (10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế) nếu không ai có đơn yêu cầu chia di sản thừa kế, thì lúc này di sản mà bác gái để lại trong khối tài sản chung sẽ trở thành tài sản chung của tất cả những người thừa kế. Lúc này muốn chia tài sản đó cần phải có sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế.
Sau khi thực hiện các kỹ năng thiết lập quan hệ thân thiện, tin cậy với khách hàng, tiếp nhận thông tin từ khách hàng thì tư vấn viên cần dựa trên những quy định của pháp luật để đưa ra những tư vấn có lợi nhất cho khách hàng. Bởi vậy, người tư vấn cần:
  - Cung cấp cho khách hàng những hiểu biết cơ bản của pháp luật về vấn đề mà khách hàng xin tư vấn, nêu rõ căn cứ pháp lý để tăng lòng tin của khách hàng đối với tư vấn viên.
  - Giải thích các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề xin tư vấn để khách hàng hiểu những vấn đề cơ bản sau này.
  - Dựa trên những thông tin được khách hàng cung cấp cũng như những quy định của pháp luật, tư vấn viên cần xác định được các giải pháp giải quyết tình huống đó.
- Sau khi xác định được các giải pháp giải quyết vấn đề, tư vấn viên cần tư vấn một cách chính xác giải pháp giải quyết cũng như ưu nhược điểm của từng giải pháp đó cho khách hàng, định hướng cho khách hàng về giải pháp giải quyết có lợi nhất. Tuy nhiên, tư vấn viên không thể quyết định thay cho khách hàng mà việc quyết định phụ thuộc vào ý chí của chính khách hàng. Tư vấn viên có nghĩa vụ phải tôn trọng quyết định của khách hàng.
  - Sau khi lựa chọn được giải pháp giải quyết, tư vấn viên cần tư vấn về cách thức tiến hành giải pháp đó.
Trong trường hợp trên, đối với các yêu cầu của khách hàng, có thể đưa ra một số phương hướng giải quyết như sau:
v Đối với mong muốn được kết hôn của khách hàng
  Trong trường hợp này, tư vấn viên cần khẳng định với khách hàng rằng nếu như hai người tự nguyện đến với nhau vì tình yêu, nhằm cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ, không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn tại Khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ thì việc kết hôn của khách hàng với cô gái là hoàn toàn hợp pháp.
Theo đó thì cả khách hàng xin tư vấn và đối tượng kết hôn của khách hàng đều đủ điều kiện về độ tuổi, hai người đều tự nguyện muốn kết hôn và cả hai đều không bị mất năng lực hành vi dân sự.
Khách hàng xin tư vấn đã từng kết hôn nhưng người vợ đã chết được 10 năm. Theo quy định tại điều 65 Luật HN&GĐ thì quan hệ hôn nhân đó đã chấm dứt từ thời điểm người vợ chết.
Do đó, nếu cô gái kia đang không có đăng ký kết hôn với người khác, thì việc kết hôn giữa khách hàng và cô gái 30 tuổi đó là hoàn toàn có thể.
Tuy nhiên, người tư vấn cần chỉ rõ tác động của việc kết hôn này với khách hàng:
- Mặt tích cực: Việc kết hôn là hoàn tự nguyên, dựa trên ý chí của khách hàng và cô gái với mong muốn xây dựng gia đình hạnh phúc nên việc kết hôn sẽ là bước tiến quan trọng hợp thức hóa mối quan hệ này, hơn nữa sẽ bù đắp về mặt tình cảm cho đứa con mà khách hàng đã có với cô gái đó,…
- Mặt tiêu cực: Sự chênh lệch về tuổi tác khá lớn sẽ khó tránh được tình trạng có đôi lời dị nghị, đàm tiếu; con cái của khách hàng đều phản đối nên việc kết hôn sẽ dẫn đến dạn nứt tình cảm cha con,…
v Đối với mong muốn nhận đứa bé là con
Sau khi thu thập, tìm hiểu đầy đủ thông tin, người tư vấn có thể hướng dẫn khách hàng thủ tục để nhận con.
- Trường hợp, cô gái đó chưa có chồng, trong Giấy khai sinh của đứa bé chưa có tên cha và cô gái đó thừa nhận đứa bé là con chung của hai người, thì theo khoản 1 Điều 88: “Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”. Khi này, cần tư vấn cho khách hàng đến UBND cơ sở nơi cô gái kia thường trú để làm thủ tục khai nhận đứa bé là con.
- Nếu cô gái trước đó có chồng nhưng bây giờ đã ly hôn và trong Giấy khai sinh có tên cha đứa bé, thì người tư vấn cần hướng dẫn khách hàng:
+ Thỏa thuận với cha hợp pháp (theo pháp luật) của đứa bé, để yêu cầu Tòa án xác định đứa bé không là con của mình theo quy định tại Khoản 2 Điều 89. Nếu được cha hợp pháp của đứa bé đồng ý và được Tòa án ra quyết định xác định đứa bé không là con, thì khách hàng mang quyết định đấy, cùng các chứng cứ chứng minh đứa bé là con của mình đến UBND cơ sở nơi cô gái kia thường trú để làm thủ tục khai nhận đứa bé là con.
+ Nếu cha hợp pháp của đứa bé không đồng ý, thì khách hàng có thể yêu cầu Tòa án xác định đứa bé là con của mình. Sau khi có bản án của Tòa án, khách hàng mang bản án đó đến UBND cơ sở nơi cô gái kia thường trú để làm thủ tục khai nhận đứa bé là con.
v Với ý định từ con và để lại tài sản của ông và vợ cho cô gái và đứa con riêng
Với ý định “từ con”. Nếu khách hàng có chứng cứ chứng minh các con của mình không có cùng huyết thống với khách hàng, thì khách hàng có quyền yêu cầu Tòa án xác định những người đó không phải là con của mình (theo quy định tại Khoản 2 Điều 89).
Nếu các con có cùng huyết thống với khách hàng, Luật HN&GĐ hiện hành không công nhận quyền từ con của cha, mẹ. Do đó, mong muốn này của khách hàng là không thực hiện được về mặt pháp lý.
Theo như những thông tin nhận được thì tài sản hiện nay là tài sản của khách hàng và người vợ đã mất được 10 năm. Do đó theo quy định tại Khoản 2 Điều 66 Luật HH&GĐ 2014 quy định về việc giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết thì: “Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.”
Vợ của khách hàng đã mất được 10 năm, do đó khi hai người kết hôn chưa có chế độ tài sản theo thỏa thuận. Bởi vậy chế độ tài sản của hai người là chế độ tài sản luật định. Do đó, cần xác định trong khối tài sản chung của khách hàng và vợ phần tài sản riêng của khách hàng và những tài sản do khách hàng tạo lập sau khi người vợ mất thuộc sở hữu của khách hàng.
Khách hàng chỉ được tự định đoạt phần tài sản thuộc về mình. Khi đó khách hàng có thể dành riêng phần tài sản này cho cô gái và đứa con riêng. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 669 BLDS, mặc dù con cái của khách hàng đều đã trưởng thành, tuy nhiên, cần xem xét con cái của khách hàng có khả năng lao động hay không? Nếu con khách hàng không có khả năng lao động thì người con đó luôn được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật. Do đó mong muốn của khách hàng sẽ bị hạn chế trong trường hợp này.
Đối với phần di sản của người vợ quá cố để lại, nếu có di chúc, thì sẽ được phân chia theo di chúc. Theo đó, nếu người vợ đã mất của khách hàng để lại toàn bộ di sản của mình cho khách hàng thì lúc đó khách hàng mới được hưởng toàn bộ tài sản trong khối tài sản chung và được định đoạt toàn bộ những tài sản đó.
Nếu không có di chúc, thì phần di sản đó sẽ được chia theo pháp luật, khách hàng sẽ nhận được thêm một suất thừa kế do bác gái quá cố để lại. Tuy nhiên, nếu trong 10 năm đó, bác và các con của khách hàng không ai có đơn yêu cầu chia di sản thừa kế của bác gái, thì lúc này di sản mà bác gái để lại trong khối tài sản chung sẽ trở thành tài sản chung của khách hàng và các con của khách hàng . Lúc này muốn chia phần tài sản đó cần phải có sự đồng ý của tất cả các con của khách hàng.

Qua tình huống, có thể thấy rằng, tư vấn viên đã sử dụng rất nhiều kỹ năng khác nhau để tư vấn với kết quả tốt nhất. Vừa tư vấn bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng, vừa nâng cao uy tín, sự tín nhiệm của khách hàng đối với dịch vụ của tổ chức tư vấn và với chính người tư vấn.
Chi tiết...