About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Luật Trọng tài thương mại. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Luật Trọng tài thương mại. Hiển thị tất cả bài đăng

Ưu điểm và hạn chế của Trọng tài so với Tòa án trong tranh chấp thương mại

Ưu điểm và hạn chế của Trọng tài so với Tòa án trong tranh chấp thương mại
Từ khi Tổ chức Thương mại Thế Giới WTO ra đời cũng như sự ra đời của các khu vực Tự do Mậu dịch khác đã góp phần thúc đẩy tự do hóa thương mại toàn cầu phát triển. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng một môi trường tự do giao thương kinh tế, thương mại giữa các quốc gia Thành viên cũng như các quốc gia khác trên thế giới với nhau. Khi doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế của các quốc gia giao thương với nhau thì không tránh khỏi các tranh chấp liên quan đến hợp đồng thương mại quốc tế. Do đó, khi phát sinh tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế thì các Điều ước Quốc tế cũng như pháp luật quốc gia, các tập quán quốc tế, tập quán pháp - án lệ đã có những phương thức giải quyết phù hợp để giải quyết các tranh chấp này và giúp cho quá trình giao thương của các quốc gia diễn ra thuận lợi. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế như theo phương thức lựa chọn (trung gian, hòa giải, tố tụng Mini, Ủy ban xem xét tranh chấp); phương thức trọng tài; phương thức tòa án.
Hiện nay, tại Việt Nam có 14 Trung tâm trọng tài đang hoạt động và đã được Bộ Tư pháp phê chuẩn Điều lệ của Trung tâm theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Số lượng các vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại trọng tài trong những năm qua không ngừng tăng lên trong năm 2013 các trung tâm trọng tài trên cả nước đã giải quyết 360 vụ tranh chấp. Điều này thể hiện sự quan tâm hơn nữa của các doanh nghiệp đến phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 tại Khoản 2 Điều 3 đưa định nghĩa một cách ngắn gọn, súc tích:
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.
So với tòa án, trọng tài là biện pháp giải quyết tranh chấp đã được vận dụng từ lâu. Vì thế, hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức rất phổ biến ở các nước trên thế giới, chúng ta có thể xem xét một vài ưu điểm nổi bật cũng như hạn chế của biện pháp này:
  • Ưu điểm:
x
Thứ nhất, về thành phần xét xử, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trọng tài viên, việc này giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, chính xác. Điểm này hoàn toàn đối lập với tòa án quốc tế khi thành phần xét xét xử của tòa án quốc tế hoàn toàn cố định, các bên không có quyền lựa chọn thẩm phán.
Thứ hai, về thủ tục tố tụng xét xử,  các bên có quyền thỏa thuận quy định thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, từ đó các bên có thể chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không phải trải qua nhiều cấp xét xử như ở toà án, vì vậy thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản, linh hoạt và mềm dẻo hơn. Ví dụ, như trong Luật Trọng tài Thương mại 2010 có quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại với các cách thức khá đơn giản, chủ yếu dựa trên thỏa thuận của các bên, và đề cao sự thỏa thuận này. Các bên có thể thỏa thuận về: ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài (khoản 2 Điều 10 LTTTM 2010), địa điểm giải quyết tranh chấp (khoản 1 Điều 11 LTTTM 2010), đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có thể chọn luật áp dụng (khoản 2 Điều 14 LTTTM 2010), qua đó có thể tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên, rút ngắn quá trình thông qua phán quyết. Phán quyết của trọng tài thường chính xác, khách quan và có độ tin cậy cao một phần do quyết định của trọng tài ít bị chi phối bởi yếu tố chính trị và vì thế, nó sẽ mang tính khách quan hơn phán quyết của tòa ánBên cạnh đó, thủ tục tố tụng trọng tài cũng đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng tại tòa án do thủ tục tố tụng tòa án là cố định, đã được quy định cụ thể từ trước trong quy chế của tòa.
Thứ ba, về mức độ bảo mật trình tự tố tụng trong từng vụ việc, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài luôn có khả năng giữ bí mật rất cao. Đối với các bên tham gia hợp đồng thương mại quốc tế, việc giữ bí mật các vụ kiện là rất quan trọng, bởi bí mật nghề nghiệp, uy tín trên thương thường có ý nghĩa sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt là những bí mật liên quan đến bí quyết công nghệ, chất lượng sản phẩm, bí quyết kinh doanh… Nếu những bí mật này bị tiết lộ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh trong tương lai của họ. Vì thế, khi tranh chấp xảy ra, những bí mật đó có khả năng có thể bị tiết lộ, nhất là khi giải quyết tại tòa án bởi nguyên tắc xét xử tại tòa án là công khai. Khác với nguyên tắc xét xử công khai tại tòa án, trọng tài lại hoạt động theo nguyên tắc xét xử kín, các quyết định của trọng tài không được công khai, nếu các bên yêu cầu, nội dung giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ được giữ kín, đảm bảo cho các bên liên quan giữ được bí mật quốc gia, bí quyết kinh doanh, quy trình kĩ thuật… theo Điều 4 LTTTM 2010 giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thưng mại được tiến hành công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Đây có thể được xem là một ưu thế so với nguyên tắc xét xử công khai của tòa án trong trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại, có thể xem là khá nhạy cảmvà qua đó, góp phần bảo vệ danh dự, uy tín của các bên tranh chấp.
Thứ tư, về thể loại tranh chấp quốc tế được giải quyết, khác với tòa án quốc tế là chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý, trọng tài không những giải quyết tranh chấp pháp lý mà còn giải quyết tranh chấp chính trị, vì vậy, phán quyết của trọng tài có thể không mang tính đối nghịch như phán quyết của tòa án quốc tế. Trước khi đem vụ tranh chấp thương mại để giải quyết bằng trọng tài, các bên có thể cùng ngồi bàn bạc, nêu ra ý chí nguyện vọng chủ quan của mình, từ đó xây dựng được những thỏa thuận chung nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đôi bên trong quá trình tố tụng trọng tài, và chính vì sự trao đổi trên cơ sở tôn trọng mong muốn của nhau nên sau khi có phán quyết của trọng tài, các bên vẫn có thể tiếp tục giữ được mối quan hệ với nhau kể cả trong lĩnh vực vừa xảy ra tranh chấp.
Thứ năm, về khả năng kiểm soát hoạt động tố tụng, trình tự trọng tài do các bên tự quy định, vì thế khả năng kiểm soát hoạt động trọng tài của các bên rộng hơn. Bên cạnh đó, trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên, không nhân danh quyền lực tự pháp của nhà nước, hơn thế nữa, phán quyết trọng tài được sự công nhận quốc tế nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp có nhân tố nước ngoài.
Thứ sáu, quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì phán quyết đó bắt buộc có hiệu lực thi hành với các bên, các bên không có quyền kháng cáo hay kháng nghị. Đây là điểm khác biệt cũng là ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với tòa án. Như vậy, có thể tránh dẫn đến tình trạng dây dưa kéo dài, gây tốn kém cả về thời gian lẫn tiền bạc, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Ưu điểm này xuất phát từ quyền định đoạt của các bên, từ việc tự do lựa chọn phương thức trọng tài đến lựa chọn trọng tài viên cũng như thủ tục tố tụng.
Hạn chế:
Thứ nhất, trọng tài không phải cơ quan quyền lực nhà nước nên khi xét xử, trong trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo chứng cứ, trọng tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc mà phải yêu cầu tòa án thi hành các phán quyết trọng tài.
Thứ hai, phán quyết của trọng tài có thể bị tuyên hủy bởi quyết định của tòa án. Vì vậy nó làm hạn chế hiệu lực của phán quyết trọng tài cũng như giảm sự tin cậy vào cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Thứ ba, việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác.
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp trọng tài mang tính chất phi chính phủ nên khi hiểu biết của một bộ phận dân trí về biện pháp này chưa cao có thể dẫn dến sự thiếu tin tưởng về khả năng, hiệu quả công việc, giá trị pháp lí của phán quyết trọng tài cũng như tạo tâm lý e dè khi các bên xem xét lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp này. Trên hết là trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng biện pháp trọng tài còn khá lớn, dẫn đến việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng chi trả.
Thứ năm, quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm mặc dù đây là điểm tạo nên hiệu lực cho phán quyết trọng tài, song cũng đồng thời hạn chế cơ hội sửa chữa khi xảy ra sai sót, dẫn đến việc không đảm bảo trọn vẹn quyền và nghĩa vụ cho các bên tranh chấp.
Tranh chấp là việc khó tránh khỏi trong quan hệ thương mại. Nhưng để giải quyết những tranh chấp đó, hai bên cần phải lựa chọn những cách thức giải quyết khác nhau để đạt kết quả tốt nhất.
Tác Giả: Trần Tuấn
Chi tiết...

Đề cương ôn tập môn Trọng tài thương mại

Đề cương ôn tập môn Trọng tài thương mại
1.                  Những tranh chấp nào có thể giải quyết được bằng trọng tài thương mại
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
(Điều 2 Luật Trọng tài thương mại).

2.                  Có thể ký kết thoả thuận trọng tài với nội dung khác các quy định của Luật Trọng tài hay không?
Có – một phần. Hầu hết các quy định trong Luật Trọng Tài là bắt buộc. Những quy định không bắt buộc thường được nhận biết bởi các cụm từ như:“trừ khi các bên liên quan có thỏa thuận khác” hoặc các cụm từ tương tự khác.
Đối với những quy định không bắt buộc, các bên được quyền tự do thỏa thuận khác. Tuy nhiên, đối với những quy định bắt buộc, các bên không được phép thỏa thuận khác.

3.                  Có bao nhiêu trọng tài viên trong một Hội đồng trọng tài?
– Các bên được tự do thỏa thuận về số lượng trọng tài viên cũng như thủ tục chỉ định các trọng tài viên đó.
– Nếu các bên không thỏa thuận về số lượng trọng tài viên, Hội đồng trọng tài sẽ bao gồm 3 trọng tài viên.
– Nếu vì lý do nào đó mà có một trọng tài viên không được chỉ định, thì trọng tài viên đó có thể được Chủ tịch trung tâm trọng tài (trong trường hợp trọng tài quy chế) hoặc Tòa án có thẩm quyền (trong trường hợp trọng tài vụ việc) chỉ định.
(Điều 39, 40, 41 Luật Trọng tài Thương mại).

4.                  Thỏa thuận trọng tài có còn hiệu lực hay không khi hợp đồng chính bị vô hiệu?
– Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài.
– Việc xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài sẽ được thực hiện bởi hội đồng trọng tài hoặc tòa án có thẩm quyền.
(Khoản 1, 2 Điều 31 Luật Trọng tài thương mại)

5.                  Điều gì sẽ xảy ra nếu các trọng tài viên bị cho là không có thẩm quyền?
– Các bên có thể khiếu nại với Hội đồng trọng tài bởi vì Hội đồng trọng tài có quyền quyết định đối với thẩm quyền giải quyết tranh chấp của chính Hội đồng trọng tài.
– Nếu một bên vẫn tiếp tục nghi ngờ về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì bên đó có thể đệ đơn lên Tòa án có thẩm quyền yêu cầu xem xét về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài.
– Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là cơ sở để 1 bên yêu cầu tòa án có thẩm quyền xem xét yêu cầu hủy quyết định trọng tài, trừ trường hợp bên dó mất quyền phản đối do phát hiện thấy có vi phạm luật hoặc thỏa thuận trọng tài nhưng vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối những vi phạm đó trong thời gian quy định.
– Cơ sở để không thi hành hoặc không công nhận cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
(Điều 35, 43, 44 Luật Trọng tài Thương mại 2010)

6.                  Có thể làm gì nếu một bên tranh chấp bỏ qua thỏa thuận trọng tài và bắt đầu khởi kiện tại tòa án?
– Nếu một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa sẽ từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài được Toà án xác định là vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
– Trong trường hợp tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, người tiêu dùng được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.
(Điều 6, Điều 17 Luật Trọng tài Thương mại)

7.                  Nhiệm vụ của các trọng tài viên là gì?
– Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
– Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
– Hội đồng trọng tài có nghĩa vụ tạo điều kiện để các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
– Từ chối cung cấp các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp.
– Giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
– Bảo đảm giải quyết tranh chấp vô tư, nhanh chóng, kịp thời.
Tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp
(Điều 4, Điều 21 Luật Trọng tài thương mại)

8.                  Nghĩa vụ của các bên đối với việc giải quyết tranh chấp theo trọng tài là gì?
– Các bên phải tuân thủ theo các quy định của luật trọng tài thương mại 2010, quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài (trong trường hợp trọng tài quy chế), bất cứ quyết định, chỉ thị nào của Hội đồng trọng tài và quyết định của Tòa án có thẩm quyền.
– Các bên cũng được khuyến khích tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài
(Điều 65 Luật Trọng tài Thương mại)
Thẩm quyền của các trọng tài viên trong việc tiến hành thủ tục tố tụng trọng tài là gì?
– Trọng tài viên có quyền chấp nhận hoặc từ chối giải quyết tranh chấp, và nhận thù lao
– Đối với cá tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tranh chấp mà ít nhất 1 bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà các bên không có thỏa thuận thì Hội đồng trọng tài có quyền quyết định ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài, pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp mà hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.
– Hội đồng trọng tài cũng có quyền quyết định địa điểm giải quyết tranh chấp trong trường hợp các bên không có thỏa thuận
– Hội đồng trọng tài có thẩm quyền, trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài có thực hiện được hay không, và xem xét thẩm quyền của mình.
– Hội đồng trọng tài có quyền chủ động hoặc do yêu cầu của các bên, sửa những lỗi rõ ràng về chính tả, số liệu do nhầm lẫm hoặc tính toán sai, hoặc ra phán quyết bổ sung. Trường hợp cần thiết, hội đồng trọng tài có thể gia hạn việc sửa chữa, bổ sung phán quyết.
– Đặc biệt, hội đồng trọng tài có các thẩm quyền:
+ Xác minh sự việc
+ Thu thập chứng cứ
+ Triệu tập người làm chứng
+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thay đổi bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời hội đồng trọng tài có thẩm quyền áp dụng được quy định trong điều 49- LCA.

9.                  Điều gì sẽ xảy ra nếu một bên vắng mặt hoặc không tuân theo chỉ thị của trọng tài viên?
Nếu nguyên đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng nào thì sẽ được xem như là rút đơn kiện. Trong trường hợp này, Hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết tranh chấp nếu bị đơn có yêu cầu hoặc có đơn kiện lại
Trong trường hợp bị đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng nào hoặc rời phiên họp giải quyết tranh chấp mà không được Hội đồng trọng tài chấp thuận, Hội đồng trọng tài vẫn ra tiếp tục giải quyết tranh chấp;
Luật Việt Nam không trao cho các trọng tài viên quyền ban hành các lệnh cưỡng chế cũng như những quy định cụ thể trong trường hợp một bên không tuân thủ các yêu cầu, chỉ thị của mình. Tuy nhiên, việc không tuân thủ các yêu cầu, chỉ thị của trọng tài viên sẽ có thể dẫn đến những hậu quả sau:
–       Đối với các yêu cầu liên quan đến nộp (tạm ứng) phí trọng tài bởi nguyên đơn thì đơn kiện và/hoặc đơn kiện lại, đơn kiện hoặc đơn kiện lại có thể bị từ chối thụ lý;
–       Đối với các yêu cầu liên quan đến việc cung cấp các biện pháp bảo đảm cho việc áp dụng một biện pháp khẩn cấp tạm thời, trọng tài viên có thể từ chối áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
–       Các trọng tài viên có thể đi đến một phán quyết dựa trên cơ sở những tài liệu và chứng cứ được đưa ra với suy luận theo hướng không có lợi cho bên không tuân thủ các yêu cầu, chỉ thị của mình; và/hoặc
–       Các trọng tài viên có thể đưa ra các quyết định về việc phân bổ chi phí trọng tài mà họ cho là phù hợp.
(Khoản 1, 2 điều 56, Khoản 3 điều 34 Luật Trọng tài Thương mại)
10.             Dựa trên luật nào để các trọng tài viên quyết định giải quyết vụ tranh chấp?

– Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
– Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.
– Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
(Điều 14 Luật Trọng tài thương mại).

11.             Các trọng tài viên có thể đưa ra phán quyết về những vần đề gì?
Các trọng tài viên có thể đưa ra các phán quyết phù hợp với thỏa thuận của các bên và với các quy định của pháp luật Việt Nam.
Phán quyết về thẩm quyền xét xử của hội đồng trọng tài, về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Mặt khác, trọng tài viên có thể ban hành phán quyết:
–       Công nhận sự hòa giải thành của các bên
–       Yêu cầu thực hiện những nghĩa vụ cụ thể được quy định trong hợp đồng;
–       Quyết định buộc thanh toán nợ, lệ phí trọng tài;
–       Quyết định nộp tiền phạt và/hoặc tiền bồi thường thiệt hại;
–       Một quyết định khác về việc bồi hoàn hoặc trả lại tài sản, v..v.
–       Phán quyết bổ sung đối với những yêu cầu được trình bày trong quá trình tố tụng nhưng không được ghi trong phán quyết
(Điều 43, điều 58 Luật Trọng tài Thương mại).

12.             Chi phí pháp lý và phí trọng tài được quyết định như thế nào trong trọng tài?
Phí trọng tài còn có thể được ấn định theo:
–       Biểu phí do các trung tâm trọng tài ấn định; và/hoặc
–       Hội đồng trọng tài vụ việc.
Các bên có thể tự mình thỏa thuận vè chi phí pháp lý hoặc yêu cầu hội đồng trọng tài quyết định về vấn đề này.
(Khoản 2, khoản 3 điều 34 Luật Trọng tài Thương mại).

13.             Một phán quyết trọng tài được thi hành như thế nào?
Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực đối với các bên, trừ trường hợp bị hủy hoặc bì từ chối thi hành;
Một phán quyết của Hội đồng trọng tài trong nước sẽ được thi hành phù hợp với luật thi hành án dân sự bởi các cơ quan thi hành án dân sự của Việt Nam mà không cần thông qua các thủ tục chấp thuận hay cho phép của tòa án;
 Phán quyết của trọng tài vụ việc phải đăng kí theo quy định tại điều 62, trước khi thi hành bởi cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền
Một phán quyết của Hội đồng trọng tài nước ngoài chỉ có thể được công nhận và thi hành bởi quyết định của tòa có thẩm quyền của Việt Nam theo những quy định tại phần VI của bộ luật tố tụng dân sự,  Công ước New York 1958 và/hoặc trên cơ sở có đi có lại.

14.             Cơ sở yêu cầu hủy một phán quyết trọng tài?
Đối với phán quyết của trọng tài trong nước, cơ sở để hủy phán quyết trọng tài là:
vKhông có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
–       Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
–       Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
–       Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của LCA
–       Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
–       Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật
vThành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
–       Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này. Cụ thể là tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại, giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.
vVụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
vChứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
vPhán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
vĐối với phán quyết của trọng tài nước ngoài, Đ. 356 bộ luật tố tụng dân sự quy định các phán quyết, quyết định của trọng tài nước ngoài không được công nhận và thi hành ở Việt Nam trong các trường hợp sau:
–       chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định đó.
–       Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng mặt tại phiên toà của Toà án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ.
–       Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam.
–       Về cùng vụ án này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam hoặc của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận hoặc trước khi cơ quan xét xử của nước ngoài thụ lý vụ án, Toà án Việt Nam đã thụ lý và đang giải quyết vụ án đó.
–       Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định dân sự đó hoặc theo pháp luật Việt Nam.
–       Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
(Điều 68 Luật Trọng tài thương mại).

15.             Trọng tài và hòa giải khác nhau như thế nào?
Trong trọng tài, trọng tài viên giải quyết vụ tranh chấp và ra quyết định chung thẩm. Một khi quyết định trọng tài đã được tuyên sẽ có giá trị ràng buộc các bên cho dù các bên có đồng ý hay không.
Đối với hòa giải, hòa giải viên không quyết định vụ tranh chấp mà có vai trò giúp các bên giải quyết vụ tranh chấp thông qua một quá trình thương lượng và thu hẹp những điểm bất đồng. Hòa giải viên sẽ giúp các bên đạt được một thỏa thuận. Tuy nhiên, khác với quyết định trọng tài, thỏa thuận của các bên không mang tính ràng buộc. Trong trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện thỏa thuận hòa giải, bên kia có thể khởi kiện ra trọng tài hoặc tòa án tùy theo thỏa thuận của các bên.

16.             Vai trò của Tòa án trong quá trình tố tụng trọng tài?
Một vài vai trò chính của các tòa án Việt Nam trong quá trình tố tụng trọng tài có thể kể đến như:
Tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho quá trình tố tụng trọng tài
–       Chỉ định trọng tài viên, hoặc thay đổi trọng tài viên của hội đồng  trọng tài vụ việc
–       Chỉ định chủ tịch hội đồng trọng tài trong trường hợp các trọng tài viên được chỉ định không thể thống nhất với nhau;
–       Chỉ định trọng tài viên duy nhất trong trường hợp các bên tranh chấp không thể thống nhất với nhau;
–       Thay đổi trọng tài viên đã được chỉ định;
–       Thu thập chứng cứ liên quan đến vụ việc và buộc nhân chứng tham gia vào các buổi gặp, phiên xét xử.
–       Thi hành các biện pháp tạm thời trước khi hội đồng trọng tài được thành lập;
Quyết định về việc không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc không thể thực hiện được; Xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài;
Đăng kí phán quyết trọng tài vụ việc
Chi tiết...