About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tòa án - Viện Kiểm sát. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tòa án - Viện Kiểm sát. Hiển thị tất cả bài đăng

Vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử- sự kế thừa và phát triển trong lịch sử lập pháp Việt Nam

Vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử- sự kế thừa và phát triển trong lịch sử lập pháp Việt Nam
MỞ BÀI
Nhà nước ta là Nhà nước “ Của dân, do dân và vì dân”, tất cả quyền lực thuộc về dân, do đó việc bảo đảm sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung và công tác xét  xử của Tòa án nói riêng là yêu cầu quan trọng đặt ra ở nước ta. Ở nước ta, việc nhân dân tham gia hoạt động qua chế định về Hội thẩm nhân dân. Chế định Hội thẩm là sự bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, thể hiện bản chất nhà nước của nhân dân ở Việt Nam.  Do đó, để tìm hiểu sâu về vấn đề này em xin chọn đề số 01: Vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử- sự kế thừa và phát triển trong lịch sử lập pháp Việt Nam.” 

NỘI DUNG
1.      CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI THẨM
1.     Cở sở pháp lý
Chế định Hội thẩm tham gia vào xét xử là một chế định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến Pháp của nước ta từ trước đến nay.  Thể hiện vai trò quan trọng của Hội thẩm trong khi thực hiệ chức năng xét xử của Tòa Án.
Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“ 1.  Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
2.       Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phám, Hội thẩm.”
Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, Điều 8 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 ( Luật TCTAND 2014) cũng quy định một cách  cụ thể: “ Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” như vậy, quy định Hội thẩm thay mặt, đại diện cho nhân dân tham gia vào công việc xét xử đã được nhà nước ta quan tâm và quy định ngay từ rất sớm.
Để quá trình xét xử vụ án được công bằng, đúng người, đúng tội, nhân dân được thể hiện ý kiến của mình trong quá trình xét xử, thì một trong những nguyên tắc là phiên tòa cấp sơ thẩm đều phải có sự tham gia của hội thẩm nhân dân.
Ngoài ra chế định Hội thẩm tham gia vào xét xử còn được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự và Bộ luật Tố tụng dân sự và 1 số luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
2.     Cơ sở thực tiễn
Nhà nước ta là nhà nước Xã hội chủ nghĩa nên mọi lợi ích khi nhà nước làm ra phải bắt nguồn từ lời ích của nhân dân, tuy nhiên nhân dân lạ để cho Nhà nước thay mặt mình giải quyết các công việc của xã hội do đó vấn đề kiểm tra, kiểm soát đến các hoạt động nhà nước là yêu cầu cần phải đặt ra. Nhà nước ta phân ra thành ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp; trong lĩnh vực tư pháp làm cách nào để nhân dân tham gia vào việc giám sát hoạt động xét xử là một điều khá khó. Yêu cầu một lực lượng tham gia vào lĩnh vực này cùng với Tòa án để cùng tham gia xét xử, để giải quyết vụ án sao cho “ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” và “ hợp tình hợp lý” đã  từ đó được đặt ra. Thế nên, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử ở nước ta có Hội thẩm tham gia dựa trên: Tư tưởng “lấy dân làm gốc” là tư tưởng đã tồn tại lâu đời trong nhân dân. Ngay từ buổi đầu độc lập, thành lập Nhà nước đã khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
3.     Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội Thẩm
Nhắc đến nhiệm  vụ, quyền hạn của Hội thẩm, Điều 84, các khoản 2, khoản 3, khoản 4 và 5 Luật TCTAND 2014 quy định:
“2. Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo phân công của Chánh án Tòa án nơi được bầu làm Hội thẩm nhân dân.
3.  Hội thẩm quân nhân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự theo phân công của Chánh án Tòa án nơi mình được cử làm Hội thẩm quân nhân.
4. Hội thẩm có nghĩa vụ thực hiện sự phân công của Chánh án Tòa án, trường hợp không thực hiện được thì phải nêu rõ lý do.
5. Trong 01 năm công tác mà Hội thẩm không được Chánh án Tòa án phân công làm nhiệm vụ xét xử thì có quyền yêu cầu Chánh án Tòa án cho biết lý do.”
4. Tiêu chuẩn Hội thẩm
Theo quy định tại Điều 85 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân thì Hội thẩm phải có các tiêu chuẩn:
“ 1.  Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực.
2.  Có kiến thức pháp luật.
3. Có hiểu biết xã hội.
4. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.”
II. VAI TRÒ CUẢ HỘI THẨM TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ. SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TRONG LỊCH SỬ LẬP PHÁP VIỆT NAM
1.     Vai trò của Hội thẩm trong xét xử
Xét ở khía cạnh xã hội và khía cạnh lập pháp trong Nhà nước pháp quyền, chúng ta cần lưu ý đến hai khía cạnh khá quan trọng trong các lý thuyết cũng như thực tiễn pháp lý. Đó là, tính “trễ” của các quy phạm pháp luật so với thực tiễn. Nghĩa là, các quy phạm pháp luật chỉ được xây dựng trên cơ sở các vấn đề đã có trên thực tiễn một hoặc nhiều lần hay bằng cách dự liệu nó sẽ xảy ra trên thực tiễn. Thứ hai, ngoài các quy phạm pháp luật thực định pháp luật còn chứa đựng trong đó một giá trị lớn hơn đó là tinh thần pháp luật. Tinh thần pháp luật có thể hiểu một cách đơn giản là cái đích mà pháp luật mong muốn hướng đến. Từ các khía cạnh trên, có thể thấy rằng việc quy định về hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử là hoàn toàn có cơ sở và không trái với các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Như vậy, việc ghi nhận chế định Hội thẩm trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án có những vai trò quan trọng sau:
Việc tham gia và tham gia đúng thành phần của Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội thẩm, họ hoàn toàn không tách khỏi môi trường công tác, huấn luyện sẳn sàng chiến đấu (đối với Hội thẩm quân nhân); hoạt động tại cơ quan, lao động sản xuất tại doanh nghiệp (đối với Hội thẩm nhân dân) và với vốn hiểu biết thực tế, trải nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để từ đó Hội đồng xét xử có cơ sở đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ.
Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng. Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo quy định của pháp luật.
Giúp bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Việc tham gia vào công tác xét xử của Tòa án, không chỉ là thực hiện quyền tư pháp, mà còn tham gia vào việc kiểm soát thực hiện quyền tư pháp, thông qua việc góp tiếng nói phản ánh tâm tư từ thực tiễn gắn bó gần gũi với đời sống hoàn cảnh của người dân, bị cáo trong vụ án, để từ đó làm sáng tỏ nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh tội phạm cụ thể, phát sinh tranh chấp,… vào quá trình xét xử, nhằm giúp Hội đồng xét xử có sự đồng cảm từ đó đưa ra quyết định thật chính xác, khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân theo quy định của pháp luật.
Thêm vào đó  tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án và Nhân dân thông qua cầu nối là Hội thẩm. Cũng thông qua Hội thẩm, Tòa án nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm của Nhân dân. Một phán quyết của Tòa án chỉ có thể nhận được sự đồng tình của Nhân dân, khi nó phản ánh đúng sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, khi thật sự là chỗ dựa về mặt tinh thần, là niềm tin vào công lý của Nhân dân và khi đó tính thượng tôn pháp luật mới được đề cao
Thông qua công tác xét xử Hội thẩm giúp Tòa án thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong Nhân dân, tuyên truyền về kết quả xét xử,  phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, từ đó góp phần giáo dục ý thức pháp luật của công dân tại nơi Hội thẩm làm việc.
2.     Sự kế thừa và phát triển trong lịch sử lập pháp Việt Nam.
Lịch sử phát triển của lập pháp Việt Nam luôn coi chế định Thẩm  Hội thẩm nhân dân tham gia vào việc xét xử là một chế định quan trọng, như một sợi chỉ xuyên suốt trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử. Và việc quy định vai trò của Hội thẩm trong quá trình xét xử đã luôn được kế thừa từ năm này qua năm khác, sau đây em xin nêu ra một và điểm chính như sau:
+ Hiến pháp năm 1946 chưa có khái niệm Hội thẩm tuy nhiên tại Điều 65 quy định: “ Trong khi xử việc hình phải có phụ thẩm nhân dân để tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình”.
Như vậy, tuy chưa có khái niệm là Hội thẩm, tuy nhiên ở đây ta có thể hiểu với nhau Phụ thẩm được nhắc đến như là Hội thẩm. Và vai trò của Phụ thảm là được tham gia lấy ý kiến trong các vụ án hình sự nếu là vụ án nhỏ và nếu là vụ việc lớn thì sẽ được tham gia quyết định trong các vụ án lớn. Tuy được quy định đơn giản nhưng đó là tiền đề quan trọng cho quy định về vai trò của Hội thẩm sau này.
+ Hiến pháp năm 1959 đã đổi tên từ Phụ thẩm sang Hội thẩm và cũng từ đây lầ đầu tiên Luật TCTAND năm 1960 ra đời quy định rõ ràng hơn về vai trò của hội thẩm. Điều 11 Luật TCANND năm 1960 quy định: Khi sơ thẩm, Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia. Hội thẩm nhân dân do nhân dân bầu ra. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.”  Như vậy, pháp luật đã quy định rõ ràng hơn về vai trò xét xử của Hội thẩm cũng như làm thế nào để có Hội thẩm tức là do nhân dân bầu ra, họ đại diện cho nhân dân tham gia xét xử và bảo vệ công lý, lẽ phải cho nhân dân.  Đặc biệt luật quy định “ Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.”   Việc quy định như vậy nâng vai trò của Hội thẩm nhân dân lên một bước tiến mới, trong quá trình xét xử họ có vai trò quyết định như thẩm phán, họ được xem như một người có kiến thức xã hội và pháp luật, đại diện cho toàn thể nhân dân lao động tham gia xét xử với quyền năng cao nhất.
          Luật cũng chỉ rõ tại Điều 12 Luật TCTAND “Khi sơ thẩm, Toà án nhân dân gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Toà án nhân dân có thể xử không có hội thẩm nhân dân.Khi phúc thẩm những bản án, những quyết định bị chống án hoặc bị kháng nghị, và khi xét lại những bản án, những quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì Toà án nhân dân địa phương phải có ba thẩm phán. Trong trường hợp đặc biệt có thể có thêm hội thẩm nhân dân”
+ Sau khi ra đời của Hiến Pháp năm 1980 thì Luật TCTAND năm 1981 ra đời, nó kế thừa quy định về việc vai trò của Hội thẩm nhân dân như Luật TCTAND năm 1960. Tuy nhiên, tại đây nó có quy định rõ hơn về trách nhiệm của Hội thẩm khi làm nhiệm vụ sai như “Hội thẩm nhân dân của mỗi Toà án nhân dân do cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp bầu ra và có thể bị cơ quan này bãi miễn.”. Như vậy ngoài ban cho Họ quyền năng, vai trò tối cao ngang với Thẩm phán thì  Cơ quan nhà nước cùng cấp mà ta hiểu là Hội đồng nhân dân cùng cấp cũng có quyền bãi nhiệm họ khi năng lực của họ, phẩm chất… không đáp ứng được yêu cầu công việc, đó là một điểm phát triển mới về quy định vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm.
+ Luật TCTAND năm 1992 và Luật TCTAND năm 2002, cũng kế thừa theo những quy định của Luật TCTAND năm 1981 và 1946 Tuy nhiên có điểm mới hơn là đã quy định về Hội thẩm quân nhân khi xét xử trong tòa án Quân sự, Luật quy định : “Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của các Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.”Như vậy, ở đâu thì việc nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, được tham gia vào quá trình xét xử nhằm đảm bảo tính công bằng cho nhân dân, đưa ra một bản án được dư luận xã hội đồng tình, từ đó giáo dục, răn đe xã hội cũng được đề cao ngay cả một nơi xem pháp luật là kỷ cương mạnh mẽ nhất của Quân đội.
Có một điểm tiến bộ hơn là tại các Luật Tổ chức năm 2002 và 1992 đã quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về trình độ, tiêu chuẩn của Hội thẩm và nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm khi tham gia xét xử như khi bồi thường khi gây ra thiệt hại, tiêu chuẩn cụ thể của Hội thẩm của Tòa án mỗi cấp, thủ tục như thế nào được quy định cụ thể, rõ ràng…thể hiện vai trò quan trọng của Hội thẩm nhân dân.
+ Hiến pháp năm 2013 và Luật TCTAND năm 2014 như đã phân tích trên cũng kế thừa và phát triển chế định vai trò của Hội thẩm khi tham gia xét xử tại phiên tòa. Điểm khác nhau cơ bản và phát triển hơn là Luật đã bỏ quy định Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán trong khi xét xử .  Riêng bản thân em nghĩ đó là một quy định đúng đắn và một bước tiến của chế định về vai trò của Hội thẩm, vì thực tế cho thấy Hội thẩm tuy am hiểu về kiến thức xã hội nhưng thiếu kiến thức pháp luật, trong khi đó Thẩm phán là những người rất giỏi và am hiểu về pháp luật nê họ không thể ngang quyền với nhau được. Vai trò của Hội thẩm là đại diện cho nhân dân và đóng góp ý kiến cho Thẩm phán đưa ra bản án phù hợp với xã hội, hợp tình, hợp lý và bảo vệ công lý là hợp lý chứ chưa thể ngang hàng nhau là hợp lý hơn.
III.  THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI THẨM TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH
1.     Thực trạng
            a.     Tích cực
Ở đây, chúng ta khẳng định rằng việc xét xử các vụ án là hết sức phức tạp, đòi hỏi các thành viên Hội đồng xét xử phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc quy định pháp luật và các văn bản hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thật sự có kinh nghiệm và am hiểu xã hội. Do đó nhờ sự có mặt của Hội thẩm tham gia vào hoạt động xét xử thì chất lượng xét xử, giải quyết án tại Tòa án nhất là Tòa án cấp Sơ thẩm không ngừng được nâng lên, luôn bảo đảm tiêu chí thật chính xác trong áp dụng pháp luật, và đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, được dư luận xã hội đánh giá cao.
b.    Hạn chế
Thực tiễn hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân hiện nay, bên cạnh những ưu điểm thì còn có một số vướng mắc nhất định như: Hội thẩm nhân dân chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm của mình, dẫn đến trách nhiệm của Thẩm phán càng nặng nề. Từ đó, chất lượng bản án nhiều lúc chưa đáp ứng được yêu cầu. Dưới đây, ta đề cập đến một số bất cập chính sau
Về tiêu chuẩn kiến thức pháp luật của Hội thẩm: Khoản 2 Điều 85 Luật TCTAND đã quy định người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm chỉ cần có kiến thức pháp luật mà không quy định cụ thể một tiêu chuẩn tối thiểu nào, trong khi đó, cùng tham gia xét xử với họ là những Thẩm phán có trình độ từ cử nhân luật trở lên, được đào tạo nghiệp vụ xét xử và thường xuyên được tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử.
Về cách thức tuyển chọn Hội thẩm nhân dân:  theo khoản 1 Điều 85 Hội thẩm nhân dân hiện nay được tuyển chọn từ số cán, bộ công chức từng làm trong các lĩnh vực như: Giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, tài chính của cấp huyện và cấp tỉnh, cho nên, hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn mang tính chất kiêm nhiệm. Hội thẩm nhân dân mặc dù có trình độ chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế rất nhiều về trình độ pháp lý, đây là vấn để bất cập trong thực tiễn hiện nay.
Về điều kiện làm việc: điều kiện thực tế Hội thẩm nhân dân làm việc kiêm nhiệm, ngoài việc làm chính ở cơ quan nếu được Thẩm phán mời xét xử thì Hội thẩm sẽ sắp xếp thời gian tham gia xét xử, nên một trong những thực tế hiện nay rất ít Hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi đưa vụ án ra xét xử, thậm chí đến ngày mở phiên tòa, Hội thẩm nhân dân được phân công xét xử vắng vì lý do phải giải quyết công việc ở cơ quan nên không tham gia phiên tòa được, trong tình huống này, để phiên tòa được khai mạc đúng theo lịch xét xử đã công bố, Thẩm phán phải thay đổi Hội thẩm nhân dân khác, lúc này thư ký phiên tòa đã tìm cách liên hệ với Hội thẩm khác để tham gia xét xử.
 Về hoạt động xét xử tại phiên tòa: mặc dù luật quy định Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử ngang nguyền với Thẩm phán nhưng thực tiễn trong quá trình thực hiện tố tụng rất ít trường hợp Hội thẩm tham gia xét hỏi tại phiên tòa mà việc xét hỏi lại hoàn toàn do Thẩm phán chủ động ngoài ra nếu Hội thẩm nhân dân có tham gia xét xử hỏi thì cách thức đặt câu hỏi còn ít đi vào trọng tâm của nội dung vụ án, giá trị các câu hỏi nhằm kiểm tra lại các chứng cứ trong vụ án cũng như chứng cứ do các bên tranh tụng chưa cao.
Về chế độ phụ cấp: cho Hội thẩm nhân dân trong quá trình tham gia xét xử chưa tương xứng với thời gian làm việc mà Hội thẩm nhân dân bỏ ra, hiện nay mỗi một hội thẩm tham gia xét xử được phụ cấp 90.000 đồng một ngày nên chưa kích thích được sự nhiệt tình của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử.
2.     Phương hướng hoàn thiện chế định
Từ những tồn tại và hạn chế trên, nhằm cao trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp nước ta, cần thực hiện một số giải pháp sau đây: 
          Pháp luật cần quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn bầu Hội thẩm nhân dân. Hiện nay, pháp luật yêu cầu tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân chỉ cần có sự am hiểu pháp luật, quy định này rất chung chung không mang tính định lượng pháp lý nên khó áp dụng vào thực tiễn để chọn được ra những Hội thẩm nhân dân thực sự đạt trình độ pháp lý tham gia vào hoạt động xét xử.
Pháp luật cần quy định cụ thể để ràng buộc trách nhiệm pháp lý của Hội thẩm nhân dân khi xét xử những vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án hoặc hủy án. Tòa án nhân dân cần có sự liên hệ chặt chẽ về năng lực hoạt động của Hội thẩm nhân dân với cơ quan, đơn vị có cán bộ, công chức, viên chức là Hội thẩm nhân dân. Có thể sử dụng năng lực hoạt động của Hội thẩm nhân dân là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức.
Tòa án nhân dân cần thực hiện tốt công tác tập huấn hàng năm cho Hội thẩm nhân dân, đặc biệt là tập huấn các kỹ năng xét hỏi, bồi dưỡng kịp thời những quy định của pháp lý để Hội thẩm nhân dân nắm bắt và vận dụng vào thực tiễn xét xử
Nhà nước cần quan tâm hơn nữu đến phụ cấp cho Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử trên tinh thần quyền lợi sẽ đi đôi với trách nhiệm.
          Pháp luật cần quy định lại về số lượng của Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử sơ thẩm cho phù hợp với điều kiện thực tế, đó là số lượng Hội thẩm nhân dân ít hơn số lượng của Thẩm phán, tránh trường hợp như hiện nay, những người tham gia xét xử có nghiệp vụ chuyên môn cao nhưng lại chiếm tỷ lệ ít hơn so với những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ pháp lý thấp, có thể nói đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng xét xử vụ án ở nước ta hiện nay. Trong quá trình cải cách tư pháp, cần nghiên cứu thêm quy định Hội thẩm của một số nước trong khu vực và trên thế giới.
KẾT THÚC
Trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, một trong những yêu cầu trọng tâm của tiến trình cải cách tư pháp chính là làm cho vai trò của toà án ngày càng độc lập hơn đối với các cơ quan quyền lực khác. Việc độc lập của toà án không chỉ đòi hỏi nâng cao năng lực xét xử của các thẩm phán, mà các toà án muốn có được vị thế độc lập phải có những cơ chế hữu hiệu trong tổ chức thực hiện quyền lực mới đảm bảo được sự độc lập của mình. Qua đó cũng phải nhận thức và quy định lại chế định về hội thẩm nhân dân, nghĩa là hoàn thiện chế định này theo nghĩa đây là một chế định tham gia của xã hội vào quá trình xét xử của tòa án.
Chi tiết...

NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH


Ngày 24/11/2014, Quốc hội khóa XIII, tại kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Theo đó, luật chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2015 và thay thế cho Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002. Với 11 chương, 98 điều, luật cơ bản thay đổi một số nội dung như quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân,… Trong đó, những quy định về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có những điểm rất mới so với những quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002.
Do đó, em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích những điểm mới về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo pháp luật hiện hành” để làm bài tập học kỳ. Qua đó, làm rõ hơn những điểm mới của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 về vấn đề này.

NỘI DUNG

Theo quy định tại các Điều 22, Điều 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 và các Điều 21, Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 có những điểm mới sau:
1.  Về số lượng thành viên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014 thì số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới 13 người và không quá 17 người.
Trong khi đó, theo Khoản 3, Điều 21 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 chỉ quy định tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không quá 17 người.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định số thành viên của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới 13 người và không quá 17 người, gồm: Chánh án, các Phó Chánh án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tạo nên tính chuyên môn hóa nhưng linh hoạt, tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí.
2.  Về thành phần Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Điểm a và Điểm b Khoản 2 Điều 21 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 quy định thành phần Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bao gồm: Chánh án, các Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; một số Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Khoản 1, Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định thành phần Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bao gồm Chánh án, các Phó Chánh án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Như vậy, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ bao gồm: Chánh án, các Phó Chánh án và một số thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Có thể thấy rằng, ngoài Chánh án và các Phó Chánh án, các thành viên còn lại của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. “Một số thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” này sẽ được chọn ra từ hơn 100 thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, tạo nên sự phân biệt vị thế, năng lực, chuyên môn giữa các thẩm phán.
Trong khi đó, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, thành phần Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ bao gồm Chánh án, các Phó Chánh án là thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và toàn bộ các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn lại. Việc quy định toàn bộ thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đều là thành viên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tạo nên sự tinh giản, tránh cồng kềnh, gây lãng phí, tốn kém, đồng thời, nâng cao hơn nữa chất lượng, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và vai trò của thẩm phán.
Ngoài ra, các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 sẽ do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp 2013). Việc Quốc hội phê chuẩn thể hiện sự tín nhiệm, sự đòi hỏi của Quốc hội và Nhân dân đối với các thẩm phán. Đồng thời, thể hiện sự trao quyền từ Quốc hội, từ Nhân dân đến các thẩm phán để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ, lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
3.   Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
So với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định mở rộng phạm vi quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Theo đó, tại Khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử; Hội đồng có quyền thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của Tòa án nhân dân để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; tham gia ý kiến đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn có quyền được thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và dự thảo văn bản pháp luật giữa Tòa án nhân dân tối cao với cơ quan có liên quan theo quy định của Luật ban hành văn bản pháp luật.
Việc mở rộng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đặc biệt là nhiệm vụ “lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử” (Điểm c, Khoản 2, Điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014) nhằm đáp ứng yêu cầu phải kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử giúp nâng cao hiệu quả xét xử, tạo niềm tin cho nhân dân.
4.  Về hiệu lực pháp luật của quyết định do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đưa ra
Khoản 4 Điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 khẳng định: “Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị”.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị chính là để cụ thể hóa quy định tại Khoản 1 Điều 104 của Hiến pháp năm 2013 về việc “Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Theo nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nguyên tắc hai cấp xét xử), một vụ việc chỉ được giải quyết qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Việc quy định cơ chế xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vô hình chung đã thiết lập thêm một thủ tục đặc biệt nữa nhằm cho phép Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thể xét lại chính quyết định của mình. Mặc dù về căn bản thì thủ tục đặc biệt này vẫn dựa trên các căn cứ xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật giống như thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Hậu quả pháp lý của việc ra quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là vụ án có thể sẽ tiếp tục bị đưa ra xem xét, giải quyết ở cấp dưới, thậm chí xét xử lại ở cấp sơ thẩm. Điều này vi phạm nguyên tắc “toà án xét xử theo 2 cấp”, khiến cho việc xét xử không có điểm dừng, quá trình xét xử lặp đi lặp lại, khiến cho các bên trong quan hệ tố tụng mệt mỏi, gây tốn kém chi phí cho cả Nhà nước và người dân, tạo sự quá tải của toà án và sự chậm trễ trong thực thi công lý[1].
Thông thường các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhất là ở cấp xét xử cao nhất được coi là biểu tượng công lý của các quốc gia. Người dân dù muốn hay không đều phải tôn trọng và tuân thủ các bản án, quyết định này. Việc cho phép xem xét lại các quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao – cơ quan xét xử cao nhất của đất nước, sẽ khiến niềm tin vào công lý bị suy giảm, sự tôn nghiêm của pháp luật, uy tín của hệ thống tòa án cũng bị ảnh hưởng. Do đó, quy định này là hoàn toàn hợp lý.
5.  Về việc tổ chức xét xử của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Theo quy định của Khoản 1, Điều 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phánTòa án nhân dân tối cao. Trong khi đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 không có quy định cụ thể vấn đề này.
Do số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ít, nên không tổ chức các Tòa chuyên trách. Do đó, chức năng xét xử của Tòa án nhân dân tối cao do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đảm nhiệm, cụ thể: do 5 Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nguyên tắc đa số. Đối với những vụ án quá phức tạp, trong quá trình xét xử hội đồng xét xử chuyên trách chưa có sự nhất trí cao và thống nhất đề nghị đưa vụ án ra Hội đồng toàn thể để xét xử; Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thực hiện giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những vụ án đặc biệt quan trọng liên quan đến quyền con người, lợi ích lớn của quốc gia và hàm chứa những mối quan hệ phức tạp trong vụ án, hoặc những vụ án giám đốc thẩm, tái thẩm của các Hội đồng xét xử chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao chưa đạt được sự nhất trí[2].

KẾT LUẬN

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã được sửa đổi, bổ sung căn bản so với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, trong đó, có việc sửa đổi, bổ sung các quy định về Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Việc sửa đổi, bổ sung này là cơ sở pháp lý quan trọng để kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Nghị quyết 49 – NQ/TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
2.     Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014;
3.     Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002;
4.     Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2015.




[1] Tham khảo: http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201503/mot-so-y-kien-ve-thu-tuc-dac-biet-xem-xet-lai-quyet-dinh-cua-hoi-dong-tham-phan-toa-an-nhan-dan-toi-cao-trong-du-thao-luat-to-tung-hanh-chinh-sua-doi-297240/
[2]Tham khảo: http://toaanquangnam.gov.vn/ta/news/Xay-dung-TAND/Doi-moi-to-chuc-va-hoat-dong-cua-Toa-an-nhan-dan-voi-muc-tieu-xay-dung-nen-tu-phap-trong-sach-vung-manh-dan-chu-nghiem-minh-bao-ve-cong-ly-591.html
Chi tiết...