About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử nhà nước và pháp luật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử nhà nước và pháp luật. Hiển thị tất cả bài đăng

Phân tích cải cách ở chính quyền cấp đạo của vua Lê Thánh Tông

Phân tích cải cách ở chính quyền cấp đạo của vua Lê Thánh Tông
Vấn đề tổ chức hành chính quốc gia là một trong những vấn đề then chốt của mọi chế độ chính trị trong lịch sử. Xã hội luôn luôn vận động, vì vậy, nền hành chính cũng phải luôn luôn có sự điều chỉnh, cách tân để đáp ứng sự biến đổi của xã hội. Do đó, trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, cùng với sự biến đổi của thể chế chính trị - xã hội, thường dẫn đến những cải cách từng phần hoặc toàn diện nền hành chính trên phạm vi toàn quốc. Cuộc cải cách của vau Lê Thành Tông là một cuộc cải cách lớn trong lịch sử nước ta và đó cũng là một cuộc cải cách toàn diện và thành công nhất. Chính quyền từ trung ương đến địa phương được thiết lập rất khoa học và hợp lý. Để làm rõ hơn về cải cách chính quyền của vua Lê Thánh Tông, em xin đi chọn để tài: “Phân tích cải cách ở chính quyền cấp đạo của vua Lê Thánh Tông”. Do kiến thực lý luận của em còn hạn chế, trong bài viết không thể tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự chỉ bảo của thấy, cô để em được hiểu và rõ hơn.
B. NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sử của đất nước trước cải cách của vua Lê Thánh Tông.
Trước khi đi tìm hiểu cải cách Lê Thánh Tông, chúng ta cần xem xét bối cảnh của công cuộc cải cách, qua đó mới nhìn nhận được hết các khía cạnh của nú. Mới nhìn, tưởng rằng cuộc cải cách này chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân đơn giản trước mắt là sự yếu kém của bộ máy hành chính đã được cải tổ từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông. Nhưng thực tế nú bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa, mà từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông tuy cũng muốn làm nhưng chưa thực hiện được. Nguyên nhân trước hết là do khủng hoảng thiết chế chính trị diễn ra từ cuối Trần: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và hành chính mang tính phân tán, quyền lực của nhà nước quân chủ quan liêu trung ương tập quyền bị hạn chế. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly nhằm thay thế thiết chế quân chủ quý tộc bằng một thiết chế mới quân chủ quan liêu là đúng đắn, cần thiết, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nú đã thất bại nhanh chóng. Dưới thời thuộc Minh( Trung Quốc), Đại Việt trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh của nhà Minh do ba ty quản lý.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427) thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, bắt tay xây dựng cường quốc mới theo thiết chế cũ của nhà Trần. Ở trung ương, dưới vua là các chức Tả, Hữu tướng quốc, Bình chương, Đại hành khiển, Tả hữu bộc xạ là những trọng thần giúp vua bàn bạc các “quõn quốc trọng sự”. Dưới đó là các chức quan như: Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh…Cỏc bộ chỉ là các ban, phòng nằm trong thượng
Ở địa phương, đất nước rộng lớn đã thống nhất, nhưng Lê Thái Tổ mới chia làm ba đạo, rồi Lê Thái Tông chia làm 5 đạo. Lê Thái Tổ đã xác định xã là cấp cơ sở và đặt xã quan. Nhưng các cấp trung gian lại còn quá nhiều và hỗn độn như: Phủ, huyện, lỵ, trấn… ở thời Lê Thái Tổ. Đến thời Lê Thái Tông lại vẫn thấy: Phủ, lộ, trấn, huyện…
Thiết chế chính trị như trên rõ ràng chưa chặt chẽ, chưa hoàn chỉnh, mang tính phân tán. Nhược điểm này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV và từ đó đã đặt ra yêu cầu cải cách. Giờ đây, trong hoàn cảnh mới nhưng vẫn duy trì thiết chế chính trị đó rõ ràng không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, của xu thế thời đại. Yêu cầu đặt ra cần thiết lập một bộ máy hành chính mới phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.
Mặt khác, sau khi Lê Thái Tổ qua đời, các vua kế vị thường còn ít tuổi (10 tuổi và 2 tuổi). Mọi việc quyết đoán trong triều đình đều nằm trong tay các đại thần. Nhưng mặc dù đã có với nhau gần 10 năm “nằm gai nếm mật”, họ vẫn không thoát khỏi sự đố kị khi trở thành người nắm giữ vận mệnh quốc gia. Hàng loạt “công thần khai quốc” như: Nguyễn Trói, Lưu Nhân Chú, Lê Sát, Lê Ngõn… lần lượt bị giết. Tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng, ăn chơi sa đoạ khá phổ biến, đến nỗi Lê Thái Tông phải ra lệnh chỉ, nêu:“ Nay các khanh không kính giữ phép công, người giữ tiền bạc, sổ sách nhà nước thì chậm trễ hoặc gây khó dễ. Thuế đáng thu hay đáng miễn thì không chịu phê tâu dứt khoát để làm khổ dân. Người coi quan thì không thương dân đau khổ, mượn đồ của dân vứt bỏ bừa bãi đến nỗi hỏng, mất, đến khi có việc lại đến hạch sách. Còn kẻ coi dân thì chỉ vụ lợi riêng, không lo nuôi dưỡng dân, hoặc tha cho người giàu, bắt tội người nghèo mua gỗ làm nhà làm cửa, xử kiện không công bằng, chỉgây bè phái, lo hối lộ…”[2,326]. Ngay trong bản Trung hưng kí, được viết sau khi Lê
hối lộ công hành… phường dốt đặc nổi dậy như ong…Văn giai như Đào Công Soạn tuổi gần 80, tế thần như Lê Ê không biết một chữ. Người trẻ không biết nghĩ, tự ý làm càn; người già không chết đi, thành ra tai hại. Bán quan, mua ngục, ưa giàu, ghét nghốo…kẻ xiểm nịnh được nghe theo, bọn dạn sát thì được bổ dụng”[2, 437].
Thực trạng đó cũng làm cho nhà nước tập quyền thêm suy yếu. Để xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh, đòi hỏi phải chấn chỉnh lại kỉ cương phép nước, phải cải cách cả thiết chế chính trị, cả về cơ chế vận hành của bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, khắc phục tình trạng bất cập giữa tập trung và phân tán. Tình hình trên đặt ra yêu cầu cần tiến hành một công cuộc cải cách, đặc biệt là mặt hành chính nhằm chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nhà nước tập quyền có đủ khả năng ổn định lại tình hình, đưa đất nước phát triển đi lên. Lê Thánh Tông - Vị vua hiền trong triều đại nhà Lê lên ngôi đã đảm đương công việc này.
II. Cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông ở cấp đạo – xứ. 
Đối với cấp đạo, Lê Thánh Tông thực hiện ba biện pháp: Một là chia cả nước thành nhiều đạo nhỏ, hai là không để quyền hành ở đạo tập trung vào tay một người mà được tản ra cho ba cơ quan (tam ti), ba là giám sát chặt chẽ cấp đạo.
Từ năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo và phủ Trung Đô (có thời gian được gọi là phủ Phụng Thiên). Phủ này gồm hai huyện là Quảng Đức và Thọ Xương, là đất kinh đô, được đặt thành một khu hành chính đặc biệt, trực thuộc triều đình. Phủ Trung Đô là đơn vị hành chính tương đương với đạo, khác với những phủ thông thường khác (dưới cấp đạo). Bởi vậy, sử sách có khi nói 12 đạo và Trung Đô phủ, có khi nói 13  đạo (gồm cả Trung Đô phủ). Năm 1471, Lê Thánh Tông đánh chiếm thêm một phần đất của người Chămpa và lập thêm đạo Quảng Nam (gồm Quảng Nam, Quàng Bình, Quảng Ngãi ngày nay). Biên giời Đại Việt lui vào tới đèo Củ Mông. Như vậy, từ năm 1471, Đại Việt có 13 đạo và phủ Trung Đô. Từ năm 1490, đạo được gọi là xứ (hay còn gọi là xứ thừa tuyên), có 13 xứ và Trung Đô phủ.
Việc chia cả nước thành nhiều đạo nhỏ nhằm hai mục đích:
-         Hạn chế tiềm lực và thế lực của những lực lượng phong kiến địa phương, ngăn ngừa sự cát cứ.
-         Chính quyền cấp đạo quản lí địa phương có hiệu lực và hiệu quả hơn.
Đồng thời, Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Hành khiển và thay vào đó bằng ba ti (sử sách thường gọi là tam ti).
Ti Tuyên chính sứ (đứng đầu là tuyên chính sứ) được lập ra ở các đạo từ năm 1464 để thay cho Hành khiển. Sự kiện này đánh dấu quá trình chuyển hình thức cai quản địa phương bởi một cá nhân, hơn nữa chỉ thiên về quản lãnh quân sang hình thức cai quan bằng một cơ quan có một cơ quan đứng đầu và cơ sự phân công chức trách giữa các bộ phận trong ti. Năm 1466, ti Tuyên chính sứ được gọi là Thừa ti chính sứ (Thừa ti) quan đứng đầu được gọi là thừa chính sứ. Năm 1467 bãi bỏ việc đô tổng binh sứ kiêm nhiệm chức thừa chính sứ. Vì rằng, chức thừa chính sứ phần nhiều do tổng binh kiêm nhiệm mà đô tổng binh là hạng võ thường ít hiểu chữ nghĩa, kiêm hai chức e rằng trở ngại đến việc quân ngũ và chính trị.
Đô binh sứ (Đô ti) được lập ra từ năm 1466 để lãnh đạo trách nhiệm về quân sự và trước đó do Thừa ti nắm giữ cả.
Hiến sát sứ ti (Hiến ti) được lập ra sau cùng vào năm 1471.
Như vậy, từ năm 1471, tam ti được hình thành và bao gồm:
-         Thừa ti phụ trách hành chính, tài chính, dân sự. Đứng đầu Thừa ti là thừa ti chính sứ với hàm tòng tam phẩm, chức phó thừa ti sứ hàm tong tứ phẩm.
-         Đô ti trong coi việc quẩn, đứng đầu là đo tổng binh sứ hàm chánh tứ phẩm, phó tong binh hàm tong tứ phẩm.
-         Hiến ti có chức năng xét xử và giám sát hai ti trên, giám sát mọi công việc trong đạo để tâu lên triều đình. Đứng đầu Hiến ti là hiến sát hàm chánh lục phẩm và hiến sát phó sứ hàm chánh thất phẩm.
Sự phân lập quyền hành ở địa phương như vậy nhằm ngăn ngừa khuynh hướng cát cứ và tang cường quyền lực của trung ương.
Ngoài ra để tang cường hơn nữa sự giám sát của trung ương đối với cấp đạo, ngự sử đài ở triều đình đã đặt 6 ti ngự sử tại các đạo. Mỗi ti ngự sử đài giám sát hai hoặc ba đạo. Ti ngự sử không phải là cơ quan địa phương mà là cơ quan của ngự sử đài trung ương. Đứng đầu ti ngự sử là chức quan giám sát ngự sử mang hàm chánh thất phẩm.
Riêng Trung Đô phủ (phủ Phụng Thiên) quan đứng đầu phủ là phủ doãn mang hàm chánh ngũ phẩm, chức phó là thiều doãn với hàm chánh lục phẩm. Như vậy, tuy phủ Trung Đô là đơn vị hành chính trung ương tương đương cấp đạo nhưng có hình thức tổ chức chính quyền khác hẳn cấp đạo.
Quan lại thời Lê Thánh Tông chỉ được tại chức đến năm 65 tuổi, bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các công thần, điều này cũng góp phần hạn chế quyền hành của các đại thần, tránh tình trạng cát cứ.
III. Đánh giá cải cách cấp đạo của Lê Thánh Tông.
Do hoản cách lên ngôi sau một cuộc nổi loạn của các vị đại thần trong triều cũng như rút ra từ các triều đại được trước thì cuộc cải cách của Lê Thánh Tông đã thay đổi mọi mặt trong xã hội. Quyền lực được tập trung vào tay vua và trung ương nhiều hơn không như triều Lý – Trần vua không nắm toàn quyền. Cải cách của Lê Thánh Tông cũng tằng cường việc giám sát quan lại tránh việc lộng quyền của các thế lực phong kiến. Chính những cải cách này đã đưa nước ta phát triển về kinh tế xã hội, văn hóa, củng cố quân đội đảm bảo quốc phòng tránh sự nhòm ngó của phong kiến phương Bắc.
Có thể khẳng định rằng cuộc cải cách của Lê Thánh Tông là thành công và triệt để nhất trong các cuộc cải cách phong kiến.
C. KẾT LUẬN

Qua những cải cách cấp đạo của Lê Thánh Tông ta thấy rõ được tài trí cũng như đúc rút kinh nghiệm của các triều đại trước từ đó đưa nước ta phát triển rực rỡ, giúp nhân dân ấm lo, hạnh phúc.
Chi tiết...

Thống kê các điều khoản và nhận xét về nguyên tắc chiếu cố trong Bộ Quốc triều hình luật

MỞ ĐẦU
Quốc triều hình luật (còn được gọi là Luật Hồng Đức) là bộ luật hoàn chỉnh nhất trong lịch sử pháp luật phong kiến Việt Nam. Bộ luật được xem như là văn bản pháp luật quan trọng nhất, có vai trò to lớn trong việc cai trị đất nước hơn 300 năm của triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV. Đồng thời, đây cũng là bộ luật xưa nhất còn lưu giữ được đầy đủ cho đến ngày nay. Cũng như các bộ luật phong kiến khác, hình luật là nội dung trọng yếu và có tính chất chủ đạo, bao trùm toàn bộ nội dung của QTHL. QTHL đã thể hiện những nguyên tắc hình sự chủ yếu như: nguyên tắc vô luật bất hình, nguyên tắc chiếu cố, nguyên tắc chuộc tội bằng tiền,… trong đó, nguyên tắc chiếu cố vừa thể hiện tính giai cấp, vừa thể hiện tính nhân đạo, có nhiều điểm tiến bộ so với thời đại. Để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này, em đã chọn đề tài: “Thống kê các điều khoản và nhận xét về nguyên tắc chiếu cố trong Bộ Quốc triều hình luật” làm bài tập cuối kì.

NỘI DUNG
I. Các điều khoản chứa đựng nguyên tắc chiếu cố
Chiếu cố là nguyên tắc khá điển hình của cổ luật Việt Nam và Trung Hoa. Đối với QTHL, nguyên tắc chiếu cố là một trong những nguyên tắc hình sự chủ đạo, được quy định tại các điều 1, 3 - 5, 7, 8, 10, 12, 16, 17, 680. Nguyên tắc này được thể hiện ở một số loại người được chiếu cố và một số nội dung chiếu cố.
1. Chiếu cố theo địa vị xã hội
Điều 3 quy định tám hạng người được nghị xét giảm tội (bát nghị), gồm:
1. Nghị thân, là họ tôn thất từ hàng đản miếu (họ hàng nhà vua trong 5 thế hệ) trở lên, họ hoàng thái hậu từ hàng phải để tang ty ma (hạng để tang ba tháng), họ hoàng thái hậu từ tiểu công (hạng để tang năm tháng trở lên).
2. Nghị cố, là những người cố cựu (chỉ những người cũ, đã theo giúp vua lâu ngày hoặc những người giúp vua từ triều trước).
3. Nghị hiền, là những người có đức hạnh lớn.
4. Nghị năng, là những người có tài năng lớn.
5. Nghị công, là những người có công huân lớn.
6. Nghị quý, là những quan viên có chức sự từ tam phẩm trở lên, những quan viên tản chức (chức quan nhàn tản, như chức học quan, hàn lâm) có tước từ nhị phẩm trở lên.
7. Nghị cần, là những người cần cù chăm chỉ.
8. Nghị tân, là con cháu các triều vua trước.
Nội dung nghị giảm được quy định cụ thể ở các điều 4, 5, 8 và 10. Theo đó, những người thuộc diện bát nghị, trừ khi phạm tội thập ác, nếu phạm vào tội tử thì các quan nghị án phải khai rõ tội trạng và hình phạt nên xử như thế nào, làm thành bản tấu dâng lên để vua quyết định, nếu phạm từ tội lưu trở xuống thì được giảm một bậc, những người thuộc nghị thân được miễn tội đánh roi, đánh trượng, thích chữ vào mặt (riêng họ hoàng hậu thì phải dùng tiền để chuộc). Nếu người phạm tội mà được hưởng nhiều bậc nghị giảm thì chỉ được giảm theo bậc giảm nhiều nhất chứ không được giảm cả.
2. Chiếu cố theo tuổi tác và đối với người tàn tật, phụ nữ
Điều 16 QTHL quy định: “Những người từ 70 tuổi trở lên, từ 15 tuổi trở xuống hoặc người bị tàn phế, phạm từ tội lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền, trừ khi phạm thập ác. Từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống hoặc bị ác tật, nếu phạm tội phản nghịch, giết người đáng tội chết, thì cũng phải tâu để vua quyết định, nếu ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc bằng tiền, còn ngoài ra thì không bắt tội. Từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống dầu bị tội chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào xui xiểm thì bắt tội kẻ đó, nếu ăn trộm có tang vật thì kẻ nào chứa chấp tang vật ấy phải bồi thường”.
Điều 17 QTHL quy định: “Khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến khi già cả tàn tật việc mới được phát giác thì xử theo luật già cả, tàn tật. Khi ở nơi bị đồ mà già cả, tàn tật thì cũng thế. Khi còn bé nhỏ phạm tội đến khi lớn mới phát giác thì xử tội theo luật lúc nhỏ”.
Trong lượng hình hoặc thi hành hình phạt đối với phạm nhân nữ, nhà làm luật đã dành một số ưu đãi. Theo điều 1, khi phạm tội đồ hoặc lưu, nam phạm nhân bao giờ cũng bị đánh thêm trượng, còn nữ phạm nhân chỉ phải chịu tội roi. Theo điều 680, nữ phạm nhân tội tử tội xuy mà đang có thai thì phải đủ 100 ngày sau khi sinh con mới được đem ra hành hình hoặc đánh roi.
II. Nhận xét
1.  Ưu điểm
Ở điều 16, 17 đã không quy định một mức độ khoan hồng chung chung cho những người già từ 70 tuổi trở lên hay trẻ em từ 15 tuổi trở xuống và những người bị tàn tật, mà quy định các mức độ khoan hồng khác nhau tùy theo độ tuổi và mức độ tàn tật của họ. Sự giảm nhẹ được tính tỉ lệ thuận với độ tuổi của người già và tỉ lệ nghịch với độ tuổi của trẻ em. Tương tự như vây, người phạm tội bị ác tật được giảm nhẹ hơn người bị phế tật.
Qua các quy định trên cho thấy Quốc triều hình luật đã thể hiện chính sách hình sự đặc biệt nhân đạo đối với những người phạm tội là người già trẻ em và người bị tàn tật, miễn cho họ không phải chịu hình phạt tàn ác bằng cách cho họ được chuộc tội bằng tiền hoặc tha tội nếu họ không phạm tội thập ác, tội tử hình hay tội giết người được quy định là tử hình.
Điều 1 quy định trượng hình chỉ đàn ông phải chịu, kèm theo làm tượng phường binh đàn ông bị đáng 80 trượng, thích vào cổ hai chữ; đàn bà bị đánh 50 roi, thích vào cổ hai chữ đã thể hiện, dù mới chỉ ở một mức độ nhất định sự bênh vực quyền lợi người phụ nữ của pháp luật thời Lê.
Quy định này càng được đánh giá tiến bộ nếu đặt nó trong mối liên hệ với quan niệm phong kiến về địa vị thấp kém của người phụ nữ so với người chồng trong gia đình.
So với bộ Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long, năm 1811) ra đời sau hàng thế kỷ, có thể thấy QTHL chưa có tính khái quát hóa cao và phân ngành rõ như Hoàng Việt luật lệ (HVLL). Tuy nhiên, sự bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong QTHL lại tốt hơn so với HVLL. Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết khi nhận xét về HVLL “Bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn”. (Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, quyển 1, tập 1, Sài Gòn,1973).
Tất cả những biểu hiện trên đều được thể hiện dưới những sắc thái khác trong luật hình sự Việt Nam hiện đại. Tương ứng với những tinh thần đã được nêu trong các quy định trên, BLHS Việt Nam hiện nay đã có các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên, về tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với người phạm tội là người già, người bị bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của mình. BLHS cũng quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc xét xử, không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Từ đó, có thể thấy QTHL mang nhiều biểu hiện của một BLHS thời hiện đại.
2. Nhược điểm
Chiếu cố về địa vị xã hội đã thể hiện bản chất giai cấp của bộ luật. QTHL ra đời mục đích cuối cũng vẫn là tạo ra một trật tự xã hội ổn định để phục vụ cho lợi ích lâu dài của giai cấp thống trị.
QTHL phân biệt rất rõ ràng 2 nhóm người: những người có đặc quyền và những người không có đặc quyền. Như bộ luật của Trung Hoa, QTHL công nhận “tám hạng người có quyền đặc lợi” (bát nghị) dành cho hoàng than, quốc thích, gia quyến của các tông thất tiền triều, người có đạo đức cao cả, các đại thần và một số người khác. Tám hạng người này được đề cao toàn khối khỏi đám đông dân chúng và được hưởng lợi thế về pháp luật cao hơn. Khi hai người trong đó một người thuộc nhóm có đặc quyền và một nhóm không có đặc quyền bị dính líu vào môt vụ hình án, thì hình phạt dành cho họ là khác nhau, tùy thuộc vào sự cách biệt về địa vị xã hội giữa kẻ phạm tội và nạn nhân. Chẳng hạn: một người dân thường mà đánh một quan chức thuộc hạng nhị phẩm thì bị xử phạt tội lưu đày, trong khi một hành vi như thế giữa hai người cùng đẳng cấp có thể chỉ bị phạt đánh 60 trượng.
Quả thật, hệ thống tôn ti về đặc quyền của một nhóm này so với một nhóm kia là điều không thể tránh khỏi, bởi vua chúa không thể giải quyết hết mọi mâu thuẫn của xã hội. Phải thấy rằng, đặc quyền pháp luật gắn bó mật thiết với sự duy trì quyền lực của vua chúa, nghĩa là không một kẻ kém đặc quyền nào được phép thách thức quyền lực của nhà vua, và những kẻ có đặc quyền mà phạm vào các tội như mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn thì cũng bị trừng trị nghiêm khắc như dân thường.
 So sánh với nguyên tắc chiếu cố ở HVLL thì ngoài sự giống nhau trong việc quy định tám hạng người có đặc quyền, HVLL đã cũng cố vững chắc hơn địa vị của tầng lớp thống trị bằng việc mở rộng sự chiếu cố đối với ông bà, cha mẹ, vợ con của những người thuộc diện bát nghị.
KẾT LUẬN
QTHL là bộ luật cổ nổi tiếng của Việt Nam, là sản phẩm của thời kỳ phát triển cực thịnh của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam. QTHL có 13 chương, được ghi chép trong 6 quyển với 722 điều, trong đó, nguyên tắc chiếu cố đã trở thành một nguyên tắc nổi bật nhất, thể hiện những nét tiến bộ của luật pháp triều Lê. Qua tìm hiểu về nguyên tắc chiếu cố trong QTHL trên đã giúp thấy được những tư tưởng tiến bộ, những nét độc đáo riêng trong bộ luật này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2013.
2. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2008.
3. Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2013.
4. Hoàng Việt luật lệ, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1994.
5. Lê Thị Sơn (chủ biên), Quốc triều hình luật - Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2004.
6. Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng, Sài Gòn, 1973.
7. Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam thông khảo, Sài Gòn, 1974.

8. Viện Nhà nước và Pháp luật, Nghiên cứu về pháp luật Việt Nam thế kỉ XV - XVIII, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1994.
Chi tiết...