Nếu như khoa học
sử dụng những khái niệm, định nghĩa để thể hiện mình thì nghệ thuật lấy hình
tượng để diễn tả, tái hiện đối tượng, nội dung mà nó đề cập. Khái
niệm hình tượng nghệ thuật từ lâu đã không còn xa lạ với những ai đã từng tiếp xúc
với bất cứ loại hình nghệ thuật nào như: văn học, hội họa, điêu khắc, ca kịch,…Người
nghệ sĩ dùng hình tượng nghệ thuật để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện
tư tưởng và tình cảm của mình, nhờ những hình tượng đó mà sự vật hiện tượng được
tái hiện một cách sinh động nhưng đồng thời cũng nhờ nó mà cái tâm, cái tài người
nghệ sĩ được thể hiện một cách tròn đầy và vẹn nguyên nhất.
1.
Nguồn
gốc khái niệm hình tượng nghệ thuật
Xuất hiện manh
nha cách đây hơn hai nghìn năm, hình tượng nghệ thuật được hiểu đơn giản là
cách mô phỏng thế giới khách quan. Các nhà triết học cố đại
Hi Lạp – tiêu biểu là Platon và Aristotle đã chú ý đến tính chất nổi bật này của
tác phẩm nghệ thuật. Họ gọi nghệ thuật là sự “mô phỏng tự nhiên”. “Tự nhiên” được
hiểu là toàn bộ thế giới thực tại gồm: tự nhiên và xã hội. Còn khái niệm “mô phỏng”
là khả năng của nghệ thuật trong việc tái tạo lại các hiện tượng riêng lẻ ấy bằng
các loại hình nghệ thuật. Điều đó cho thấy, ở thời cổ đại, mặc dù chưa có khái
niệm hình tượng, song trên thực tế người ta đã hiểu rằng nghệ thuật tái hiện,
tái tạo cuộc sống bằng hình tượng.
Sau này, Hegel
– nhà triết học người Đức, người sáng lập ra chủ nghĩ suy tâm Đức, cũng chia nhận
thức của con người ra làm ba nhóm: triết học nhận thức bằng khái niệm; tôn giáo
nhận thức bằng biểu tượng còn nghệ thuật nhận thức bằng hình tượng. Còn
Beilinski – nhà tư tưởng Nga nổi tiếng thể kỷ 19 thì phân biệt cụ thể hơn, ông
cho rằng: “Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà thơ nói bằng các hình
tượng và bức tranh… Nhà kinh tế chính trị được võ trang bằng cách số liệu thống
kê để tác động đến trí tuệ của người đọc và người nghe […] Nhà thơ được trang bị
bằng sự miêu tả sinh động, đậm nét về hiện thực, tác động vào trí tưởng tượng các độc giả của mình, phơi bày trong một bức
tranh […] Người này chứng minh, người kia phơi bày và cả hai đều thuyết phục,
chỉ có điều người này thì bằng các luận chứng logic, còn người kia lại bằng những
bức tranh”.
Dù
sống ở các thời khác nhau với những cách diễn đạt khác nhau song những tư tưởng
lớn vẫn gặp nhau và thống nhất khi chỉ ra phương thức phản ánh đặc thù của nghệ
thuật đó là hình tượng. Cho đến này, tư tưởng ấy vẫn giữ nguyên được tính đúng
đắn của nó và thực tế đã chứng minh: tính hình tượng được xem là nét đặc trưng
chung, đặc trưng chủ yếu của tất cả các loại hình nghệ thuật.
2.
Khái niệm hình tượng nghệ thuật
a. Khái niệm hình tượng nghệ
thuật nói chung
Tìm hiểu về
hình tượng nghệ thuật, trước hết phải hiểu hình tượng nghệ thuật bắt nguồn từ một
loại tư duy đặc biệt: tư duy hình tượng – một trong ba loại tư duy : tư duy
hành động – trực quan; tư duy khái niệm – logic và tư duy hình tượng – cảm
tính.
Tư duy hình tượng
– cảm tính: này sinh trên cơ sở tiếp xúc trực tiếp với đối tượng. Nó
tái hiện đối tượng một cách toàn vẹn những không thoát li đối tượng mà gắn liền
với những đặc điểm cụ thể, cá biệt, sinh động về đối tượng để qua đó mà bộc lộ
cái khái quát. Loại tư duy này bao hàm cả thái độ đánh giá chủ quan của chủ thể.
Nghệ thuật tái hiện và khái quát cuộc sống dựa trên cơ sở của loại tư duy này.
Nói một các cụ thể, nghệ sĩ xây dựng nên hình tượng nghệ thuật dựa trên cơ sở
các loại tư duy hình tượng – cảm tính, và hình tượng nghệ thuật chính là sự biểu
hiện những quan niệm khái quát về cuộc sống dưới hình thức cụ thể, cảm tính như
hình thức của bản thân đời sống.
Như vậy, hình tượng nghệ thuật là phương tiện đặc thù
của nghệ thuật nhằm phản ánh cuộc sống một cách sáng tạo, bằng những hình thức
sinh động, cảm tính, cụ thể như bản thân đời sống, thông qua đó nhằm lí giải,
khái quát về đời sống gắn liền với một ý nghĩa tư tưởng, cảm xúc nhất định, xuất
phát từ lí tưởng thẩm mĩ của nghệ sĩ. Mỗi hình tượng là một tế
bào góp phần làm nên tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng nội dung cuộc sống,
những thông tin về đời sống, những quan niệm, tư tưởng, cảm xúc của tác giả.
b.
Khái niệm hình tượng nghệ thuật trong mĩ học
Trong mĩ học,
hình tượng nghệ thuật được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
-Nghĩa rộng: chỉ đặc điểm chung về phương thức phản ánh đời sống của tất cả các loại
hình nghệ thuật, để phân biệt nghệ thuật với khoa học và các hình thức ý thức
xã hội khác.
-Nghĩa hẹp:
khái niệm hình tượng được dùng trong phạm vi tác phẩm, chủ yếu là hình tượng cụ
thể về một con người; một tập thể người; một con vật, đồ vật hay một cảnh sắc
thiên nhiên, một cảnh sinh hoạt lao động thường ngày,… Tất cả mọi thứ dù tầm thường nhất khi đi vào
nghệ thuật đều có thể trở thành hình tượng một khi nó mang trong mình những
quan niệm sống, những trải nghiệm cuộc đời, những triết lý nhân sinh sâu sắc.
Để mỗi hình tượng
được tái hiện và tồn tại, người nghệ sĩ phải sử dụng những phương tiện vật chất
cụ thể như: ngôn từ (văn học), âm thanh (âm nhạc), màu sặc, đường nét (hội họa),
lời nói, hành động (sân khấu),… Đằng sau lớp vỏ vật chất ấy là một thế giới đời
sống muôn hình muôn vẻ gắn liền với vô vàn những cung bậc cảm xúc, tình cảm nghệ
thuật mà người tác giả gửi gắm. Mỗi tác phẩm nghệ thuật
không chỉ đơn thuẩn mô phỏng lại thế giới khách quan qua con mắt tinh tế, nhạy
cảm của người nghệ sĩ mà nó còn mang trong mình những thông điệp đẹp đẽ về tư
tưởng, triết lý sống, những bài học hay, những kinh nghiệm quý giá do chính tác
giả trải qua và chiêm nghiệm, rút đúc từ cuộc đời mình. Bởi vậy mà khi nhìn vào
một tác phẩm nghệ thuật, người ta có thể đánh giá được cái tài, cái tâm của người
nghệ sĩ sáng tác ra nó. Nhờ đó, khi khám phá nghệ thuật, người ta không những
được cảm thụ, thưởng thức cái đẹp, được tiếp cận với nguồn tri thức vô hạn của
nhân loại mà đồng thời, qua đó người ta còn được tiếp nhận những chân lí về đời
sống. Đây chính là biểu hiện đỉnh cao của hình tượng, là cái đích mà bất cứ người
nghệ sĩ nào trong suốt cuộc đời theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật, theo đuổi cái đẹp,
cái hoàn mĩ của mình cũng muốn đạt được.
3. Nét đặc trưng của hình tượng nghệ thuật
a,
Hình tượng nghệ thuật gắn liền với đời sống
Nhắc đến hai
chứ nghệ thuật đôi khi người ta nhầm tưởng nó là hiện thân của những cái hoa
mĩ, diễm lệ, của những thứ lãng mạn, viển vông, xa rời thực tế, nhưng thực chất
nghệ thuật luôn đi liền với đời thực, nó bám sát cuộc sống, nó dựa hơi người, đời,
vật để nảy sinh, tồn tại và trường tồn cùng thời gian. Hơn
bao giờ hết, nghệ thuật luôn gần gũi với cuộc đời, sống trong cuộc đời, phát
triển theo nhịp sống của cuộc đời như một người bạn đồng hành tận tụy, một người
thư ký trung thành của thời đại. Hình tượng nghệ thuật tái hiện cuộc sống nhưng
lại không đơn thuần là sao chép y nguyên những hiện tượng có thật mà là tái hiện
một cách có chọn lọc, sáng tạo thông qua tài năng và trí tưởng tượng của nghệ
sĩ, bằng sự khéo léo và tinh tế của mình, họ biến những sự vật dù tầm thường nhất
cũng có thể trở thành các hình tượng đẹp có sức truyền cảm mạnh mẽ, mang những ấn
tượng sâu sắc đến với người cảm thụ.
b,
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của cái cụ thể, cá biệt, cảm tính với
cái khái quát
Đây là nét đặc
trưng tiêu biểu nhất và dấu hiệu dễ nhận biết nhất của hình tượng nhưng đồng thời
cũng quan trọng nhất để phân biệt sự khác nhau giữa hình tượng và khái niệm. Mọi
sự vật, hiện tượng trong thể giới khách quan đều tồn tại ở dạng riêng biệt, là
một cá thể độc lập, cụ thể. Ngay chính bản thân con người cũng tồn tại là những
cá nhân cụ thể, độc đáo, không lặp lại. Song không phải vì thế mà chúng sống
tách rời, riêng rẽ, mọi sự vật hiện tượng chỉ có tồn tại được khi chúng được đặt
trong mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác xung quanh (ví dụ: sấm và
sét là hai hiện tượng thiên nhiên có tích chất hoàn toàn khác nhau, nhưng sấm
sét luôn cùng nhau xuất hiện khi trời mưa lớn). Vì vậy, trong mỗi hiện tượng, sự
vật cá biệt đều chứa đựng sự thống nhất giữa hai mặt đối lập nhau: cái chung và
cái riêng. Nghĩa là, nó mang những dấu hiệu cụ thể, cá biệt, không lặp lại ở những
hiện tượng khác, lại vừa mang những đặc điểm bản chất đại diện cho những hình
tượng cũng loại, điển hình cho loại của mình. Để khám phá được quy luật của cuộc
sống, nghệ thuật cũng như khoa học, đều không dừng lại ở hiện tượng mà thâm nhập
vào bản chất sự vật. Một người nghệ sĩ xuất sắc hay một nhà bác học tài năng
cũng đều phải biết nắm bắt những gì chủ yếu thuộc về bản chất của sự vật, hiện
tượng, để biết tập trung sự chú ý của mình vào những sự kiện, những quá trình của
sự vật, hiện tượng mà trong đó bộc lộ đầy đủ nhất ý nghĩa của đối tượng mình
nghiên cứu và khám phá.
Thay vì tiếp cận
chân lí bằng cách gặt bỏ những chi tiết cụ thể, cá biệt, những yếu tố ngầu
nhiên, tách rời những thuộc tính chung, điển hình của sự vật, hiện tượng ra khỏi
những đặc điểm cụ thể, những yếu tố riêng lẻ để đúc kết thành quy luật tổng
quát dưới dạng công thức, khái niệm, phạm trù; thì nghệ thuật khái quát chân lí
cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật không bao giờ tách khỏi những hiện tượng cụ
thể, cá biệt. Nếu như khoa học sử dụng những sự vật, hiện tượng cụ
thể chỉ để làm ví dụ minh họa cho các thuộc tính, quy luật được khái quát được
rõ ràng và dễ hiểu hơn thì nghệ thuật dùng những hình tượng cụ thể, cá biệt
mang tính điển hình để làm đại diện cho cái lớn lao, cái toàn thể. Điều này được
thể hiện rất rõ trong lĩnh vực văn học: “Chí Phèo” của Nam Cao là một tác phẩm
điển hình với hai hình tượng nhân vật tiêu biểu là Chí Phèo và Bá Kiến. Bằng
ngòi bút sắc bén của mình, Nam Cao sử dụng ngôn từ để vẽ lên chân dung Chí – một
anh nông dân lành như cục đất, thế nhưng từ bốn bức tường lao lí ra cuộc đời
Chí đã trở thành một “con quỷ” của làng Vũ Đại. Chí mang những nét tính cách
riêng, cá biệt mà chẳng ai có được: hắn mãi chìm sâu trong cơn say, ngủ trong
lúc say. Cứ mỗi lần say là hắn chửi, tiếng chửi của hắn trở thành nỗi ám ảnh
trong lòng người đọc. Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí như một chân dung điển
hình cho những người nông dân bế tắc lâm vào bước đường cùng để rồi mất dần đi
cả nhân hình, nhân phẩm, họ phản kháng lại xã hội, phản kháng lại bất công của
cuộc đời bằng con đường lưu manh hóa. Bên cạnh chân dung một anh Chí lưu manh
là hình ảnh của Bá Kiến – tên Lý trưởng hách dịch. Nam Cao đã dựng lên chân
dung tên địa chủ với những nét vẽ sinh động, đầy ấn tượng và mang tính điển
hình cao: giọng quát “rất sang”, “cái cười Tào Tháo”, giọng nói “ngọt nhạt”, những
thủ đoạn thống trị khôn ngoan “mềm nắn rắn buông”, “bắm thằng có tóc không ai
bám thằng trọc đầu”, bóp người ta thì “chỉ bóp đến nửa chừng”, “hãy ngầm ngầm đẩy
người ta xuống sông rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”,… Tất cả những chi tiết
trên đã đủ để Bá Kiến trở thành hình tượng điển hình cho bọn địa chủ, cường hào
phong kiến của xã hội cũ với bản chất gian hùng, nham hiểm, độc ác và cáo già.
Từ chính đặc
điểm này mà hình tượng nghệ thuật có khả năng tái hiện lại cuộc sống một cách
hoàn chỉnh và toàn vẹn. Vậy nên, khi tiếp xúc với những tác phẩm
nghệ thuật, ta như được tậm mắt chứng kiến, được tham gia vào câu chuyện đời thực
mà tác giả đề cập. Cảm giác này thể hiện càng rõ hơn trong những loại hình nghệ
thuật mà hình tượng giàu tính tạo hình, có khả năng tác động trực tiếp vào giác quan người thưởng thức như: hội họa,
điêu khắc, sân khấu, điện ảnh,… Nhưng riêng với loại hình văn học, người ta
không chỉ được sống dậy cảm giác mà còn thức dậy tất cả các giác quan, văn học
kéo người ta về quá khứ rồi lại đẩy người ta tiến đến tương lai. Khả năng tác động
vào cảm giác con người của văn học có thể nói là vô biên bởi có không có rào cản
của không gian, thời gian, hoàn cảnh,… Khi nhận xét về sáng tác của nhà văn hiện
thực Nga thế kỉ 19, M.Gorky đã nói về khả năng biểu đạt của văn học như sau:
“Ngôn từ của họ đúng là thứ đất sét để từ đó, như những vị thần, ho nhào nặn
nên các hình dáng và nét mặt con người, sinh động đến mức lừa được người, đến nỗi
khi người ta đọc sách của họ sẽ cảm thấy: tất cả những nhân vật nhờ sức mạnh
màu nhiệm của ngôn từ mà trở nên có hồn, đang vậy quanh ta, động chạm vào da thịt
ta, ta cảm thụ đến đau đớn nỗi khổ của họ, cười và khóc với họ, căm thù và yêu
họ, thấy rõ ánh sáng niềm vui và làn sương mù ẩm ướt u buồn trong mắt họ, ta sống
cuộc sống với họ như bạn bè, và tất cả những cái đó dằn vặt ta một cách tuyệt vời
như cuộc sống thật vậy, chỉ có điều trọn vẹn hơn và đẹp hơn thật”.
Bằng những hình tượng cụ thể, sinh động mang
tính điển hình, nghệ thuật đã truyền đến con người không chỉ những thông tin, những
kiến thức mới mẻ về cuộc sống mà còn đem đến cho họ những xúc cảm mới lạ, gọi dậy
những tình cảm thiêng liêng khiến con người ta nghĩ tốt và sống đẹp hơn, có ích
hơn.
c,
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan
Nghệ thuật là
hình ảnh của cuộc sống khách quá được phản chiếu qua đôi mắt chủ quan của người
nghệ sĩ đa cảm, tinh tế, sâu sắc. Trong nghệ thuật, yếu tố
chủ quan chi phối đến cả quá trình sáng tạo của tác giả, hơn thế tính chất chủ
quan còn in dấu rõ nét trên mỗi tác phẩm nghệ thuật, và chính điều đó làm đã
làm nên phong cách riêng của người nghệ sĩ. Nghệ thuật phản ánh thế giới khách
quan qua cái nhìn chủ quan của người nghệ sĩ. Vì vậy, trong một tác phẩm nghệ
thuật luôn có sự hòa quyện không thể tách rời của hai yếu tố khách quan và chủ
quan.
Hà Nội – mảnh
đất kinh kỳ, niềm tự hào của bao người con đất Việt, đã trở thành đề tài muôn
thưở của rất nhiều các nhạc sĩ. Viết về Hà Nội có biết
bao tác phẩm đã thành công và trở thành những bài ca bất hủ, đi vào tâm khản
người Việt, để rồi mỗi khi nhắc đến hai chữ Hà Nội, người ta nhớ ngay đến những
giai điệu quen thuộc ấy, như: Có phải em mùa thu Hà Nội – nhạc: Trần Quang Lộc,
thơ: Tố Như Châu; Hà Nội mùa lá bay – Hữu Xuân; Hoa sữa – Hồng Đăng, Hà Nội đêm
trở gió – nhạc: Trọng Đài, lời: Chu Lai – Trọng Đài,… Nhưng có lẽ để lại ấn tượng
hơn cả là hai tác phẩm: Nhớ mùa thu Hà Nội của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và Hà
Nội mùa thu của nhạc sĩ Vũ Thanh. Cùng viết về mùa thu Hà Nội, song với những
rung động khác nhau, với những cảm nhận khác nhau, hai nhạc sĩ đã viết nên hai
bài hát mang hai vẻ đẹp rất riêng. Mỗi giai điệu cũng vì thế mà có những cách
đi vào lòng người bằng các con đường cũng khác nhau. Một Trịnh Công Sơn với “Nhớ
mùa thu Hà Nội” buâng khuâng, bồi hồi trong sắc vàng của cây cơm nguội, màu đỏ
của cây bàng, màu nâu thẫm của những mái ngói nhà cổ, màu xanh của cốm Vòng. Sắc
thu Hà Nội nhẹ nhàng, dịu dàng và đầy quyến rũ. Một Vũ Thanh với “Hà Nội mùa
thu”, Hà Nội mang sức sống mãnh liệt của một thủ đô từng trải qua biết bao cuộc
kháng chiến trường kỳ với những khó khăn, gian khổ nhưng “vẫn ngát xanh, xanh
mùa thu”.
Như
vậy, trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ đặt tình cảm chủ quan của
bản thân vào trong chính hình tượng mình xây dựng. Hình tượng nghệ thuật do đó
không chỉ phản ánh hiện thực mà còn biểu hiện thái độ chủ quan của người nghệ
sĩ đối với hiện thực ấy. Đó chính là điểm làm nên sự khác biệt giữa nghệ thuật
và khoa học.
d,
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa lí trí và tình cảm
So với những
hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật có sức tác động kỳ diệu đến tư tưởng,
tình cảm của con người. Sự ám ảnh kỳ lạ của nó có thể khiến cho
con người ta dù ở thế hệ nào, thời đại nào, tầng lớp nào cũng đều bị cuốn theo
những ấn tượng về xúc cảm đó, để rồi cứ thế say mê, thèm muốn hai chứ “nghệ thuật”.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí trí và tình cảm là nhân tố đưa các tác phẩm nghệ
thuật trở thành những kiệt tác trường tồn cùng thời gian. Một tác phẩm càng chứa
đựng nhiều cung bậc cảm xúc thì càng dễ đi vào lòng người vì vậy mà càng dễ chiến
thắng cái khắc nghiệt của không gian và thoát khỏi quy luật bào mòn của thời
gian.
Chắc hẳn không
ít người đã từng rơi nước mắt khi đọc những trang văn cảm động viết về cảnh đời
bất hạnh, hẳn không ít người thấy bâng khuâng xao xuyến khi nghe một bản nhạc
hay về tình quê, tình người, hẳn không ít người phải bàng hoàng, thờ thẫn khi đứng
trước những bức tranh làm sống dậy một thời tuổi thơ đẹp đẽ,… Mỗi tác phẩm nghệ
thuật đều mang đến cho người cảm thụ chúng những cảm xúc riêng, có quen, có lạ,
có tốt, có xấu, điều đó không chỉ phụ thuộc vào cách diễn đạt của người nghệ sĩ
mà còn ở cái cách tiếp nhận của mỗi người… Và, mang được cảm xúc của mình truyền
đến mọi người, đó chính là thành công lớn nhất của người nghệ sĩ.
Nhắc đến nghệ
thuật, người ta nghĩ ngay đến cảm xúc, nhưng không vì thế mà quá đề cao yếu tố
tình cảm để rồi coi nhẹ yếu tố lí trí – một phần quan trọng cấu thành nên chỉnh
thể tác phẩm nghệ thuật. Lí trí là những nhận thức đúng đắn, sáng
suốt về cuộc sống, về thực tại. Lí trí là định hướng cho người người nghệ sĩ,
giúp họ không đi trệch khỏi quỹ đạo “nghệ thuật gắn liền với đời sống” trong
quá trình sáng tạo của mình. Tình cảm dù có mãnh liệt đến đâu cũng sẽ không đem
lại giá trị cho hình tượng nếu nó không được đặt dưới sự kiểm soát của lí trí,
không đi theo sự chỉ dẫn của lí trí. Sự chi phối của yếu tố lí trí bộc lộ ở
năng lực nắm bắt, phát hiện bản chất của cuộc sống ở tầm khái quát, thể hiện
trong việc lựa chọn những chi tiết quan trọng và chủ yếu để xây dựng hình tượng.
Hơn nữa nó còn chi phối cả hoạt động hư cấu và tưởng tượng của người nghệ sĩ.
Từ tất cả những
điều trên, ta có thể khẳng định một cách khái quát rằng, trong hình tượng nghệ
thuật, tình cảm không những đối lập với lí trí mà chúng còn có quan hệ trống nhất
chặt chẽ với nhau. Tình cảm được kiểm định bằng lí trí, lí
trí mượn tình cảm để đi vào lòng người. Đó là sự kết hợp hoàn hảo giữa tình cảm
và lí trí trong một chỉnh thể nghệ thuật
e,
Hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ
Ước lệ là biện
pháp tái hiện sự vật, hiện tượng bằng hình tượng có tính quy ước. Nghệ
thuật được hiểu là một cách thức mô phỏng lại cuộc sống. Song, dù phản chiếu cuộc
sống chân thực đến đâu nghệ thuật cũng không thể mất đi yếu tố sáng tạo, tưởng
tượng trong mỗi tác phẩm mà tất cả những yếu tố ấy gọi chung là tính ước lệ của
hình tượng. Không có tính ước lệ, nghệ thuật sẽ chỉ là một bản sao đơn điệu của
cuộc sống, sẽ chỉ là cái khuôn đúc khô cứng không có hơi thở của sự sống. Nghệ
thuật tái hiện cuôc sống một cách có chọn lọc, có sáng tạo bằng hoạt động hư cấu
trông qua trí tưởng tượng của nghệ sĩ. Kết quả của quá trình đó là những hình
tượng nghệ thuật mang tính ước lệ. Người nghệ sĩ thực sự tài năng là người có
thể mang cả cái hơi thở phập phồng của sự sống vạn vật vào trong tác phẩm của
mình.
Cuộc sống luôn
vận động và phát triển nó không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, trong
khi nghệ thuật lại chịu sự chi phối về giới hạn của ngôn từ. Mà
nhiệm vụ của nghệ thuật là phải khái quát được phạm vi rộng lớn của hiện thực cả
về chiều rộng và chiều sâu mà vẫn không phá vỡ tính hoàn chỉnh, toàn vẹn của tổng
thể tác phẩm. Bởi vậy, sự xuất hiện của tính ước lệ như một lối thoát cho người
nghệ sĩ. Bằng hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, người nghệ sĩ có thể thả
sức sáng tạo. Song, tính ước lệ không đồng nghĩa với việc xa rời thực tế, càng
không hề đồng nghĩa với việc xuyên tạc sự thực, chân lí. Ngược lại, nhờ tính ước
lệ mà nghệ thuật có thể phản ánh chân thực cuộc sống, nhờ tính ước lệ mà bản chất
cuộc sống được thể hiện một cách đầy đủ về cả chiều rộng và chiều sâu.
Xuất hiện khá
nhiều và trở thành nét điển hình không thể thiếu, tính ước lệ của hình tượng
nghệ thuật trở thành một đặc điểm nổi bật trong văn học cổ Việt Nam. Người
xưa thường dùng hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt, cây, cỏ,… để diễn tả ngoại
hình, dáng vẻ, cốt cách, phẩm giá của con người. Hình ảnh cây thông (cây tùng)
bốn mùa có tán lá xanh tươi, quanh năm đứng vững chãi trên dốc núi cheo leo bất
chấp bão bùng sương tuyết là hiện thân cho nhân cách cứng cỏi, bản lĩnh phi thường,
khí phách hiên ngang của con người không bị chi phối trước uy quyền, danh lợi.
Hay hình ảnh những bông hoa mỏng manh, yêu đuối nhưng thơm ngát, tinh khôi thường
để miêu tả người phụ nữ đẹp. Đó là những sáng tạo nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ
cao. Phương pháp nghệ thuật cổ không miêu tả hiện thực theo dạng tả chân thực,
theo thẩm mĩ văn học cổ dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng đem lại cho lời văn lời
thơ trang nhã, bóng bẩy, súc tích. Ví dụ: Nguyễn Du là một bậc thầy về nghệ thuật
dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng và điều đó được thể hiện rất rõ trong Truyện
Kiều – một kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Từ những hình ảnh ước lệ tượng
trưng quen thuộc, Nguyễn Du đã chọn lọc một cách tài tình để miêu tả chân dung những
nhân vật của mình với nhiều vẻ đẹp khác nhau để lại một ấn tượng sâu sắc trong
long người đọc. Chị em Thúy Kiều đẹp trong hai nét đẹp riêng. Một Thúy Vân với:
“Khuôn
trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa
cười ngọc thốt đoan trang
Mây
thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Bằng
việc sử dụng những hình ảnh ước lệ như: “khuôn trăng”, “nét ngài”, “ngọc”,
“mây”, “tuyết”, Nguyễn Du đã vẽ nên chân dung một cô gái đoan trang, phúc hậu
được mặt, được cả lòng người, cô gái ấy luôn tạo cho mọi người xung quanh một
tình cảm yêu mến, độ lượng. Một Thúy Kiều có nhan sắc không thua kém mà có phần
nhỉnh hơn:
“Làn
thu thủy, nét xuân sơn
Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Những hình ảnh
ước lệ như: “làn thu thủy”, “nét xuân sơn” được Nguyễn Du sử dụng để miêu tả
ánh mắt, đôi lông mày của người con gái, ông mượn vẻ đẹp của thiên nhiên, cái
hoàn mĩ của tạo hóa để diễn tả vẻ đẹp của người phụ nữ. Thay
vì lấy “hoa”, lấy “liễu” để “vẽ” nên Kiều, Nguyễn Du để thiên nhiên còn phải
ghen tức với vẻ đẹp của người con gái họ Vương, từ đó càng nhấn mạnh vẻ đẹp của
Kiều vượt lên cả những chuẩn mực của cái đẹp thông thường, đó là vẻ đẹp “sắc sảo”,
“mặn mà” hiếm có trong trời đất. Một Từ Hai – đấng đại trượng phu:
“Râu
hùm hàm én mày ngài
Vai
năm tấc rộng thân mười thước cao”
Cách ước lệ
“râu hùm”, “hàm én”, “mày ngài”, tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp đường bệ, uy
nghi đến phi thường của một nhân vật anh hùng, hiệp sĩ. Đại
thi hào Nguyễn Du đã vận dụng nhiều hình ảnh mang tính ước lệ kết hợp với các
biện pháp linh hoạt sáng tạo để làm nên một kiệt tác “Truyện Kiều” có sức hút mạnh
mẽ, chinh phục độc giả và biết bao thế hệ nhà văn, nhà thơ hậu thế.
Tề
Bạch Thạch – một danh họa của Trung Quốc, đã từng nói: “Nghệ thuật hay ở chỗ vừa
giống vừa không giống, không giống quá thì dối đời, giống quá thì mị đời”. Hẳn
vậy, tính ước lệ của hình tượng cho phép nghệ thuật tái hiện chân thực mà không
lặp lại hay sao chép cuộc sống, làm cho hình tượng trở nên sinh động, hấp dẫn,
vừa thực lại vừa hư, vừa ẩn lại vừa hiện, khiến ta không thể đồng nhất nó với bản
thân cuộc sống. Nhớ tính ước lệ mà hình tượng nghệ thuật mang tính hàm súc cao,
nó có thể truyền đạt được những nội dung cuộc sống phong phú trong một bức
tranh, một pho tượng, một vở kịch, một bản nhạc, một bộ phim, hay chỉ trong một
câu truyện ngắn,…
f,
Hình tượng nghệ thuật mang tính đa nghĩa
Nghệ thuật là một trong những lĩnh vực
sáng tạo phức tạp nhất của con người để phản ánh thực tại. Sản
phẩm của quá trình sáng tạo đó là những hình tượng nghệ thuật chứa đựng trong bản thân nó sự thống nhất biện
chứng giữa các mặt đối lập: hiện thực khách quan hòa nhập với thế giới chủ
quan; tình cảm được soi sáng trong lí trí; sự thật cuộc sống được phản ánh
trong cái ước lệ, tượng trưng,... Sự thống nhất giữa các mặt đối lập đã làm cho
hình tượng nghệ thuật trở thành một tín hiệu đặc biệt chứa đựng những thông điệp
về cuộc sống, lưu giữ những tín hiệu chồng chéo về cuộc đời.
Bởi vậy, một
hình tượng nghệ thuật có thể đem đến cho người thưởng thức những cách nhìn nhiều
chiều, những cách lí giải ở nhiều góc độ khác nhau. Đó
chính là tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Tính đa nghĩa cũng là một
trong những đặc điểm nổi bật làm nên tính khác biết giữa hình tượng nghệ thuật
với các khái niệm khoa học. Nếu như khái niệm khoa học chỉ có một nghĩa và phải
rõ ràng thì trong nghệ thuật, một hình tượng được coi là điển hình và xây dựng
thành công là khi nó có khả năng chứa đựng, bao hàm nhiều tầng nghĩa mà khi
càng tìm hiểu người ta càng phát hiện ra những lớp ý nghĩa sâu xa hơn. Đôi khí
có những ý nghĩa còn nằm ngoài ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ. Nguyên lí “Tảng
băng trôi” của Hemingway là một khẳng định vững vàng cho tính đa nghĩa của hình
tượng nghệ thuật.
Nhận thấy hội
họa cũng không nằm ngoài quy luật đó của nghệ thuật. Một
bức tranh cũng có thể truyền tải nhiều ý nghĩa, thông điệp đến người thưởng thức.
Dưới đây là một trong những bức tranh tiêu biểu cho dòng tranh siêu thực, The
persistence of memory của Dali - danh họa người Tây Ban Nha nổi tiếng thế kỷ 20
Bức tranh là
hình ảnh những chiếc đồng hồ méo mó, chảy rữa. Đó có chăng là sự
kéo dãn của thời gian, nỗi ám ảnh về sự dai dẳng của thời gian. Như những chiếc
đồng hồ kia, vật đo đếm thời gian khi đứng trước cái khắc nghiệt triền miên của
thời gian cũng phải chảy rữa thì vạn vật, thiên nhiên, con người hay cả những
ký ức sâu sắc nhất cũng sẽ trở nên méo mó, xô lệch trước sự hủy hoạt tàn nhẫn của
thời gian. Song, bức tranh còn có thể mang một ý nghĩa khác. Phải chăng được hiểu:
thời gian là thứ quý báu mà một khi đã đánh mất sẽ chẳng ai có thể lấy lại được,
bởi vậy mà người ta luôn phải nâng niu, trân trọng, tiết kiệm từng giây từng
phút của cuộc đời mình để khỏi uổng phí một đời người. Nhưng nếu như thế giới
mà không có sự xuất hiện hiện của bóng dáng con người thì mọi thứ, dù quý giá mấy
cũng trở nên vô nghĩa. Trái đất sẽ chỉ là một hoang mạc hịu quạnh và thời gian
sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa, nó chỉ như những thứ đồ bỏ đi bị vất rải rác mọi
nơi và tự nó tan chảy trong chính sự dai dẳng của mình. Để từ đó, người nghệ sĩ
đề cao giá trị của con người vượt lên tấc cả.
Đằng sau lớp vỏ
bọc vật chất của hình tượng luôn là tầng tầng lớp lớp ý nghĩa sâu sắc, đó là những
quan điểm, quan niệm về cuộc đời, đó là những triết lý nhân sinh về con người,
là những bài học quý giá về kinh nghiệm sống, là cách đối nhân xử thế… là vô
vàn những điều bổ ích khác về đời người. Cái tiềm năng lớn lao ấy
chính làm phép màu làm mới nghệ thuật. Theo thời gian, hình tượng có thể cũ mòn
nhưng ý nghĩa của nó thì luôn phát triển theo nhịp sống và ngày càng trở nên
phong phú, mới mẻ hơn. Điều đó lý giải vì sao có những tác phẩm nghệ thuật cứ
trường tồn mãi cùng thời gian mà vẫn không đánh mất đi cái giá trị lớn lao của
mình.
Sẽ không có
nghệ thuật nếu không có hình tượng. Hình tượng đối với một tác phẩm nghệ thuật
cũng như những tế bào đối với một cơ thể sống. Nó không chỉ là phương thức tái
hiện thế giới khách quan, là nhân tố góp phần truyền tải thông điệp của tác giả
tới mọi người mà còn là tâm hồn, bản ngã của người nghệ sĩ, nó khẳng định
phong cách, cái tôi của người nghệ sĩ trên con đường sự nghiệp của mình.