About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiển thị tất cả bài đăng

co-so-hinh-thanh-tthcm-ve-dai-doan-ket-dan-toc

co-so-hinh-thanh-tthcm-ve-dai-doan-ket-dan-toc
MỞ ĐẦU
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
 Trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước Dân tộc ta đã đi qua rất nhiều khó khăn và thử thách, chiến thắng nhiều kẻ thù hung bạo để xây dựng được đất nước hưng thịnh như ngày hôm nay. Để có được những thắng lợi này một trong những yếu tố không thể thiếu là sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta mà Bác Hồ đã là người dẫn đường, soi sáng cho lý tưởng này Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên”. Có thể nói trong những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Người là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng;  đại đoàn kết dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng cũng như trong hoạt động của Hồ Chí Minh . Chính vì thế để tìm hiểu sâu về vấn đề này em xin chọn đề tài số 11: “ Phân tích những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân của Người”

NỘI DUNG

I.         NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên những cơ sở tư tưởng – lý luận rất phong phú. Có thể khái quát những cơ sở quan trọng sau đây:
1.     Những giá trị truyền thống dân tộc
     Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải đối mặt với bao nhiêu thử thách đầy khắc nghiệt của thiên tai, dịch bệnh; những cuộc đấu tranh trường kỳ chống lại kẻ thù xâm lược, có biết bao xương máu của con Người Việt Nam đã đổ xuống...Chính những thử thách và khó khăn đó đã hun đúc nên những giá trị truyền thống dân tộc đầy thiêng liêng và lớn lao.
Những giá trị truyền thống dân tộc bao gồm chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân nghĩa và tinh thần đoàn kết; ý chí đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực, tự cường; tinh thần tương thân, tương ái, vị tha, lạc quan, yêu đời của con người và dân tộc được hình thành, hun đúc trong những điều kiện chính trị, môi trường tự nhiên, nền kinh tế, cấu trúc xã hội (làng – xã – nước) đặc trưng của người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử tạo thành sức mạnh to lớn để dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, dịch bệnh. Do vây, những giá trị truyền thống dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Những giá trị truyền thống dân tộc đó đã trở thành một tình cảm tự nhiên, một triết lý nhân sinh, một phép ứng xử và tư duy lý luận, tư duy chính trị của người Việt Nam xuyên suốt chiều dài lich sử dân tộc cho đến ngày nay như: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng; Tình làng, nghĩa nước; Nước mất nhà tan... Triết lý nhân sinh trong đạo làm người của con người luôn lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy khoan dung, hòa mục để ứng xử trong quan hệ với mọi người và luôn trọng trí thức, hiền tài trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh đó, những giá trị truyền thống dân tộc đã được các anh hùng ở mọi thời kỳ đúc kết kinh nghiệm và nâng lên thành các  phương pháp đánh giặc giữ nước và phép trị nước như: “rên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”; “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc giữ nước”; “chở thuyền cũng là dân, lật thuyến cũng là dân”...
Sớm tiếp thu được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Bác đã nhận thức được sức mạnh dân tộc, những quan điểm nhân sinh và phương pháp đánh giặc của ông cha ta và kết hợp với những giá trị thời đại để chuyển thành hệ thống quan điểm sức mạnh của mình để áp dụng vào cách mạng nước ta “ Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
2.     Quá trình tổng kết thực tiễn các phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
Hồ Chí Minh thấy rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào cứu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đó là sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối, về gia cấp lãnh đạo; chưa quy tụ, tập hợp được lực lượng của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh của đất nước...chính những điều đó đã dẫn tới sự non kém, rời rạc về tổ chức, thiếu đoàn kết lực lượng. Bài học rút ra là cần phải có Đảng chân chính lãnh đạo vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, quy tụ được cả nước, xây dựng được khối đoàn kết dân tộc. Chính vì đi tìm giải pháp cho kết quả đặt ra Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước với lý tưởng “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.
Không chỉ có vậy Hồ Chí Minh còn nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế giới. Nghiên cứu cách mạng Pháp và cánh mạng Mỹ, Người cho rằng đây là những cuộc cách mạng “chưa đến nơi”  do tính chất không triệt để của nó: cách mạng sau khi thành công, nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn; cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn, nhưng chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết và chưa có tổ chức. Đến khi tiếp cận và nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh thấy được đây là một Cách mạng triệt để, là cuộc cách mạng “ đến nơi” “cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Và từ cuộc cách mạng này Người đã tổng hợp, rút kinh nghiệm  và để lại nhiều bài học sâu sắc như về việc huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo trong việc dành và giữ chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ xã hội và  xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Ngoài tìm hiểu các nước phương Tây Bác Hồ cũng nghiên cứu các cuộc cách mạng phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ,..để học hỏi và thực hiện cách mạng ở nước ta.
3.     Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin:
      Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân;
      Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử;
      Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc;
      Liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng;
      Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế theo tinh thần “Vô      sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”...
Chủ nghĩa Mác – Lênin là ánh sáng soi đường cho Hồ Chí Minh trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Và cũng nhờ những quan điểm trên mà Bác Hồ đã có sơ sở khoa học để thu hái những hiểu biết của các tư tưởng đi trước để lại và chuyển hóa chúng thành hệ thống tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc.
II.    TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân thể hiện ở một số điểm như sau:
Quan điểm về “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng. Dân là đồng bào, là anh em một nhà; “Dân” là toàn dân, toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm dân tộc đa số, thiểu số; “Dân” vừa được hiểu là mỗi cá nhân, vừa là toàn thể đồng bào. Như vậy, “Dân” là người chủ của đất nước, là chủ thể đại đoàn kết, là lực lượng quyết định mọi thắng lợi của cánh mạng. Trong “Dân”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra giai cấp công nhân, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị áp bức nặng nề nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất...Như vậy, “Dân” được hiểu là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ nhận thức về dân, Hồ Chí Minh quan niệm đại đoàn kết dân tộc có nghĩa là phải huy động và tập hợp được mọi người dân vào khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Muốn làm được điều đó phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung độ lượng với con người và xóa bỏ mọi định kiến, cách biệt... Người nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo...
Những điểm chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập, thống nhất của tổ quốc, là cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng đồng thời là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là liên minh công, nông và lao động trí óc...
 Muốn thực hiện đoàn kết toàn dân phải chú trọng một số nguyên tắc nhất định:
·        Phải hiểu dân, tin dân, dựa vào dân.
·        Phải khai thác được những yếu tố tương đồng, hạn chế những điểm khác biệt trong các mối quan hệ phức tạp: cá nhân - tập thể; gia đình - xã hội; bộ phận – toàn cục; giai cấp – dân tộc.
·        Phải  xác định rõ vai trò, vị trí của các giai tầng xã hội, bởi dân không phải là một khối đồng nhất. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là đại đa số nhân dân: là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó có nòng cốt là liên minh công - nông.
III.      VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
1.     Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi hội nhập thế giới trong giai đoạn hiện nay
Thế giới của chúng ta đang từng ngày, từng giờ thay đổi một cách nhanh chóng và khó lường. Trong giai đoạn phát triễn như hiện nay, những  thời cơ và thách thức đan xen và tồn tại song hành cùng nhau buộc các quốc gia trên thế giới cần có cái nhìn toàn diện, thông minh và sáng tạo nhằm phát huy được thời cơ và trách được những khó khăn để đưa đất nước đi lên. Các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang từng ngày phải đối mặt với những thách thức đó. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn như:
          Về mặt thuận lợi: Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh giữ nước đến nay ta đã xây dựng được đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh; người dân được sống trong no đủ, trẻ em được cắp sách đến trường ngày một nhiều hơn; đã bước đầu xây dựng được cơ sở vật chất cho xã hội chủ nghĩa; xây dựng được nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; nước ta từ một nước nghèo vươn lên nước thoát nghèo và trở thành nước có thu nhập khá; tham gia vào nhiều tổ chức trên thế giới và nhận được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới; có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vị trí và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao...
          Về mặt khó khăn: Đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa từ một nước lạc hậu, xuất phát thấp nên cơ sở vật chất còn yếu kém; trình độ của người dân còn chưa cao nhất là những dân tộc thiểu số ít người; bất đồng ngôn ngữ so với các nước trên thế giới; hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang diễn ra ngày một nhiều....
2.     Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh vào xây dựng đất nước hiện nay
Đứng trước những khó khăn và thách thức như hiện nay đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Hồ Chí Minh  để đứng vững và xây dựng đất nước giàu mạnh, trong đó vận dụng tư tưởng dại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và chiến lược lâu dài mà Đảng và Nhà nước ta nên quan tâm thực hiện để phát huy những thuận lợi và khắc phục được những khó khăn trên.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân rộc và sức mạnh thời đại. Cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức rõ những khó khăn, thử thách, những nhân tố khách quan, chủ quan đang thách thức tính bền chặt của khối đại đoàn kết để có biện pháp cũng cố, tăng cường và giữ vững sự ổn định xã hội là vấn đề có ý nghĩa quyết định thành bại của công cuộc đổi mới, tạo môi trường thúc đẩy sự phát triễn đất nước.
Thực tiễn cách mạng cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua thể hiện sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của Tư Tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. Việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc biến nó thành chiến lược cách mạng như tập hợp mọi người dân yêu nước không phân biệt giới tính, tôn giáo, dân tộc, độ tuổi... vào Mặt trận dân tộc thống nhất tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc. Sức mạnh đó là nguồn gốc của thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945, kháng chiến chống Pháp (1945-1954), chống Mỹ cứu nước (1954-1975)... Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng  và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trước đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, với việc phát triễn nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì thực hiện tư tưởng đại đoàn kết của Người lại càng có ý nghĩa quan trọng. Những tư tưởng chủ đạo được thể hiện nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng ta trong những năm đổi mới là:
Về chính trị, tư tưởng: Đảng nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, chủ trương xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ, tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, mọi người Việt Nam trong nước và nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng và phát triễn đất nước, lấy liên minh công nông làm nòng cốt vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ...
Về kinh tế - xã hội- văn hóa: Nhà nước bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo thiết thực, chính đáng, lợi ích hợp pháp của nhân dân, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợ ích tập thể và lợi ích toàn xã hội, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triễn, thực hiện các chính sách “đền ơn đáp nghĩa”, “xóa đói giảm nghèo”, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước trong quần chúng nhân dân, xây dựng và phát triễn nền giáo dục của nước ta, đề cao cảnh giác trước những âm mưu xuyên tạc, tung tin kích động chia rẽ dân tộc, tôn giáo của các phần tử trong và ngoài nước....
Về đối ngoại: Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa quan hệ quốc tế theo phương châm “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập,hợp tác và phát triễn”. Đảng ta cũng luôn chú trọng đại đoàn kết  quốc tế, kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế, cùng nhau thực hiện mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, ổn định, dân chủ và tiến bộ. Đại đoàn kết trong thời đại hội nhập đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước, đồng thời nắm vững bài học của Bác Hồ “ cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược”...

 KẾT LUẬN
Qua phân tích và tìm hiểu nói trên ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa rất lớn cho dân tộc ta. Nó là kim chỉ nang dẫn đường, soi sáng cho toàn Đảng và nhân dân ta. Nhờ có tư tưởng đoàn kết dân tộc của người và xem đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân đã giúp dân tộc chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù, đi lên và xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh. Ở thời điểm nước ta đang bước sang thế kỷ XXI nơi mà những thách thức và thời cơ đan xen, tác động với nhau hàng ngày thì việc xây dựng khối đại đoàn kết cho dân tộc ta lại càng nên chú trọng để nước ta có thể giữa vững được bản sắc dân tộc nhưng vẫn hội nhập được với các nước khác trách sự bão hòa, đánh mất bản sắc dân tộc. Do vậy, muốn đi lên và thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa thì việc kiên trì,vững vàng, quán triệt, phát triễn, hoàn thiện tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh phải được mở rộng và thực hiện đồng bộ trên cả nước.
Chi tiết...

HOÀN CẢNH DẪN ĐẾN SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC

        
      Trong quá trình đấu tranh, dựng nước và giữ nước bất kì quốc gia, dân tộc nào đều phải lựa chọn cho mình một con đường đi phù hợp. Sự lựa chọn con đường đi đúng đắn của mỗi đất nước trong từng thời kỳ lịch sử thường gắn với tên tuổi của một anh hùng dân tộc lỗi lạc và vĩ đại. Đối với Việt Nam cũng thế, trong lịch sử đấu tranh cũng có những sự lựa chọn con đường đi cho dân tộc nhưng con đường đi đúng đắn nhất, tiêu biểu nhất và có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn đối với dân tộc đó là sự lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Vậy đó là con đường Cách mạng nào?
B.Nội dung
1.Bối cảnh lịch sử của Việt Nam cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX ảnh hưởng  tới sự lựa chọn con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
1.1.Đất nước bị xâm lược, giải phóng dân tộc là yêu cầu cấp thiết.
       Vào cuối thế kỷ XIX, cũng như nhiều quốc gia, dân tộc phương Đông khác, đất nước ta bị tư bản phương Tây xâm lược. Từ một dân tộc tự do, vốn có hàng ngàn năm văn hiến, Việt Nam đã trở thành một dân tộc thuộc địa. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nền độc lập và chủ quyền của dân tộc ta bị xâm phạm, nhân dân Việt Nam không chỉ bị bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị mà còn phải chịu nỗi đau mất nước. Chính vì thế mà xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản và ngày càng sâu sắc: mâu thuẫn giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam với bên kia là thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân với giai cấp phong kiến địa chủ ngày càng trở nên gay gắt.
         Do vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải giải phóng dân tộc, giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho dân tộc.
1.2.Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, yêu cầu phải tìm ra con đường cứu nước mới.
        Trong bối cảnh đất nước bị cai trị làm cho xã hội rối ren, mâu thuẫn sâu sắc, nảy sinh một vấn đề cấp bách: để giải quyết hai mâu thuẫn trên, cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường nào? Phải chọn con đường nào để cứu nước, giành lại độc lập tự do cho dân tộc, chủ quyền cho đất nước. Yêu cầu khách quan đòi hỏi phải giải quyết là như vậy, nhưng lịch sử phong trào chống Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX trở về trước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đó.
        Các phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ khắp nơi: từ phong trào Cần Vương, Văn Thân đến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, từ phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến phong trào chống thuế ở Trung Kỳ và rất nhiều các cuộc đấu tranh quần chúng dấy lên hết đợt này đến đợt khác nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của các phong trào đó là do những nhà yêu nước cách mạng- những người đứng đầu đã không nhận thức được đúng và đầy đủ những yêu cầu cấp bách của lịch sử nước ta vào đầu thế kỷ XX. Các phong trào chưa phân tích được một cách toàn diện những biến động của xã hội Việt Nam cũng như thế giới vào thời điểm bản lề của lịch sử. Hơn nữa, giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò và đã quá lỗi thời, còn giai cấp tư sản với hệ tư tưởng tư sản cũng đang tỏ ra sự yếu ớt, bất lực, không đủ năng lực để tập hợp toàn thể dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ách áp bức nô dịch của chủ nghĩa thực dân, không biết gắn phong trào yêu nước của dân tộc mình với cuộc đấu tranh của các dân tộc khác có cùng chung cảnh ngộ bị áp bức, bóc lột và nô dịch.
         Chính vì thế, yêu cầu cấp thiết là cần có một đường lối cứu nước đúng đắn, cần một con đường cứu nước mới.
1.3.Hoàn cảnh sống của Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ.
        Sống trong hoàn cảnh mất nước và chịu áp bức bóc lột của thực dân Pháp, Nguyễn Tất Thành luôn nghĩ: Làm thế nào để đánh đuổi được chủ nghĩa thực dân xâm lược, giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào? Câu hỏi đó ngày đêm nung nấu, day dứt tâm can Nguyễn Tất Thành.
      Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn đầy biến động của đất nước Người được kế thừa truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương ngay từ nhỏ. Khi còn là một thiếu niên 15 tuổi, Người đã sớm biết đau nỗi đau mất nước, xót xa trước nỗi thống khổ của đồng bào, đã sớm có chí đuổi giặc, cứu nước, giải phóng đồng bào. Nhưng bằng con đường nào? Liên minh với ai, dựa vào ai để chiến đấu? Trước khi đi đến quyết định, theo tinh thần “cách vật, trí tri”, anh cần tìm hiểu đến tận cùng thực chất của thời cuộc. Hơn nữa, Người còn sớm được tiếp xúc với nền văn minh của Pháp Người quyết định sang phương Tây để tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào để được văn minh rồi trở về giúp đồng bào giải phóng dân tộc.
2.Phân tích sự lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
2.1.Vượt qua những hạn chế trên của các bậc tiền bối, với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và sự trăn trở về vận mệnh dân tộc, Nguyễn Tất Thành- Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc.
         Theo Nguời, con đường của Hoàng Hoa Thám mang nặng tư tưởng phong kiến lỗi thời, lạc hậu sẽ không thể giải phóng dân tộc cũng như dẫn tới thắng lợi. Sau đó là con đường cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu thì chẳng khác gì việc “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Còn con đường của Phan Châu Trinh chẳng qua chỉ là sự “xin giặc rủ lòng thương”. Chính vì thế, mặc dù rất kính mến, trân trọng và khâm phục lòng yêu nước của các bậc tiền bối nhưng Nguyễn Tất Thành đã không tán và đi theo con đường của họ. Bởi lẽ những con đường ấy không thể giúp đồng bào mình giải phóng và Người đang muốn đi tìm một con đường cứu nước mới.
        Do vậy, xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, từ khát vọng cứu nước, giải phóng dân tộc trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các bậc tiền bối Nguyễn Tất Thành quyết định không đi sang Nhật Bản mà sang phương Tây tìm đường cứu nước cho dân tộc. Ngày 5/6/1911 Người lấy tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên tàu buôn Pháp Latusơ Tơrêvin từ bến cảng Nhà Rồng Người đi tìm đường cứu nước. Đó chính là bước ngoặt, một sự lựa chọn lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu cho quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.
2.2. Sau khi không chấp nhận con đường cứu nước cũ, vấn đề rất quyết định đối với Nguyễn Tất Thành lúc đó là chọn hướng đi nào?
       Người đã không đi Trung Quốc hay sang Nhật Bản mà ý tưởng của Người là hướng về Tây Âu, trước hết nước Pháp. Tại sao lại như vậy? Năm 1923, tại Mát-xcơ-va, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Tạp chí “Ngọn lửa nhỏ”, Người đã giải thích quyết định về sự lựa chọn của mình như sau: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ tiếng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái - đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là người Pháp - thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”.
       Như vậy, ý nghĩ tìm hiểu về nước Pháp đã xuất hiện rất sớm ở Nguyễn Tất Thành. Nguyên nhân khiến Người muốn tìm hiểu về nước Pháp đó là những truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái và nền văn minh của chính quốc, đồng thời đó cũng là nơi sinh ra chế độ thực dân thối nát và cực kỳ tàn bạo mà Người đã thấy trên đất nước mình. Nguyễn Tất Thành muốn hiểu cho được cái mà Pháp gọi là văn minh, luôn cho nước mình là một nước văn minh nhưng Pháp lại đi ngược lại với cái văn minh ấy là đi xâm lược và cai trị các nước khác trong đó có Việt Nam bằng chế độ thực dân tàn bạo. Bởi theo Nguyễn Tất Thành: muốn tìm được con đường cứu nước thì trước hết phải hiểu thật đúng, thật đầy đủ về những kẻ đang cướp nước mình. Muốn đánh đổ được chủ nghĩa thực dân để giải phóng cho đồng bào thì trước hết phải hiểu cho được cái gốc rễ, cái bản chất của chủ nghĩa thực dân. Đây chính là sự khác biệt về sự lựa chọn của Nguyễn Tất Thành so với tất cả những người Việt Nam đi sang nước Pháp lúc bấy giờ.
2.3.Từ chỗ xác định rõ động cơ, mục đích, hướng đi như vậy, Nguyễn Tất Thành đã chọn một cách đi riêng cho mình.
        Trong thời gian đi tìm đường cứu nước từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới, học tập kinh nghiệm của nhiều nước. Người đã bôn ba qua nhiều nước của các châu lục Á, Phi, Mĩ làm nhiều nghề khác nhau, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, lại vừa hoạt động Cách mạng. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Pháp, Mĩ, Anh. Với chuyến đi thực tế cùng những cuộc khảo nghiệm đó, Người đã tiếp thu được những kiến thức vô cùng phong phú với một tầm nhìn hết sức rộng lớn và bao quát.
        Qua đó, Người đã nhận thấy giai cấp tư sản ở thế kỷ này không còn là giai cấp tiến bộ của thời đại nữa và con đường cách mạng tư sản không phải là con đường chúng ta nên đi.Từ những nhận thức trên Người đã rút ra kết luận gần như một chân lý bất hủ: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Đồng thời, giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước đều là bạn còn chủ nghĩa đế quốc thực dân ở đâu cũng là kẻ thù.
2.4.Trên cở sở những nhận thức căn bản đó, điều mong muốn tìm cho được con đường cứu nước đúng đắn càng thôi thúc, giục giã Nguyễn Tất Thành.
       Trong quá trình đi tìm đường cứu nước Người đã tìm cách móc nối liên hệ, trao đổi thư từ với cụ Phan Châu Trinh và một số người Việt Nam yêu nước khác đang sống ở Pháp. Tham gia vào nhiều tổ chức khác nhau như: Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp, tổ chức lao động hải ngoại - một tổ chức bí mật của những người lao động từ các thuộc địa khác nhau đang sống ở nước Anh. Đặc biệt, khoảng đầu năm 1919, Người gia nhập tổ chức tiến bộ nhất ở Pháp lúc bấy giờ là Đảng Xã hội Pháp - một chính đảng nhân danh đại biểu cho giai cấp công nhân mà lúc đó phần nào quan tâm đến quyền lợi của những người lao động, phần nào đồng tình với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.
        Từ đây, Nguyễn Tất Thành đã thực sự bước vào cuộc chiến đấu với tư cách một nhà hoạt động cách mạng. Người không còn dừng lại ở việc quan sát hay suy ngẫm riêng mình, mà đã thực sự đi vào hoạt động, vào tổ chức, hòa mình vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và quần chúng lao động ngày càng rộng lớn hơn. Bằng những hoạt động sôi nổi như vậy, Nguyễn Tất Thành đã nhanh chóng nắm bắt được thời cuộc, trên cơ sở đó có sự lựa chọn và định hướng đúng đắn cho bản thân và cho dân tộc.
2.5.Bước ngoặt của sự lựa chọn đó trước hết là ảnh hưởng vang dội của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
       Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp, Cách mạng tháng 10 Nga thành công đã ảnh hưởng đến xu hướng và quyết định lựa chọn của Người. Nguyễn Ái Quốc hăng hái tham gia phong trào đấu tranh, bảo vệ nước Nga Xô Viết non trẻ.Tuy lúc đầu chưa hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về sự kiện vĩ đại này, song do sự nhạy cảm về chính trị, lại phải chứng kiến thực tiễn cuộc sống của nhân dân bị áp bức và việc ấp ủ, nung nấu nhiều ý tưởng, mong muốn giải phóng dân tộc nên Người đã nhận thấy đây là biến cố lớn “có một sức lôi cuốn kỳ diệu”, và ảnh hưởng của nó được Người ví “tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói có cơm ăn”.
        Bước ngoặt thứ hai trong sự lựa chọn của Người đó là khi Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V. I. Lê-nin vào năm 1920 đăng trên báo “Nhân đạo” của Đảng Xã hội Pháp. Bản Luận cương đã thu hút sự chú ý đặc biệt của Người và qua lăng kính của chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn để giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Như vậy, là cùng với ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, sự tiếp nhận tư tưởng của V.I. Lê-nin đã dẫn đến sự chuyển biến về chất trong nhận thức cũng như trong hành động của Nguyễn Ái Quốc, quyết định việc Người đứng về phía V.I. Lê-nin và Quốc tế Cộng sản.
       Sự kiện cuối cùng thể hiện sự khẳng định về sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc đó là quyết định bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920). Việc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp đã đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc và cũng là sự khởi đầu một bước ngoặt căn bản trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Đến đây, Nguời đã quyết định sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của mình đó là con đường Cách mạng vô sản và đây là một quyết định đúng đắn và có ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam.
3.Ý nghĩa sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
        Từ đây, lịch sử cách mạng Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, đế quốc, và đi tới thắng lợi cuối cùng là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trong thắng lợi chung đó, lịch sử dân tộc ta mãi mãi ghi nhận công lao và vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn - sự lựa chọn lịch sử, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra của cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
C.Kết luận.
        Như vậy, với hành trình đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã nhận thức và phân tích một cách toàn diện nhất để đưa ra sự lựa chọn đúng đắn nhất cho Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đó là con đường Cách mạng vô sản, đem lại thắng lợi hoàn toàn cho Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã khẳng định sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Người và ý nghĩa to lớn đối với dân tộc của sự lựa chọn ấy.

            DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB. Chính trị quốc gia.Hà Nội năm 2003.
2. Sách tham khảo Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, TS.Nguyễn Mạnh Tường. NXB .Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001.
3. Sách giáo khoa Lịch sử Việt Nam 12.NXB.Bộ giáo dục Việt Nam, năm 2010.
4. Cuốn sách: Hồ Chí Minh với con đường giải phóng. NXB. Chính trị quốc gia- Sự thật năm 2012.
5. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB. Văn học, Hà Nội, 1970.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002.

5.Trang web: http://www.cpv.org.vn/print_preview.asp?id=BT2790460343.
Chi tiết...

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC


Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của thế giới, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, là tấm gương sáng cho Đảng và nhân dân ta cùng các thế hệ người Việt Nam phấn đấu suốt đời học tập và noi theo. Trong đó, tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc và của toàn nhân loại, là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Trong Di chúc mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, trong 6 vấn đề lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới, Người đặc biệt chú trọng đến vấn đề đoàn kết, là vấn đề mà Người lo ngại và trăn trở nhất. Người đã từng nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”[1]. “Nói về Đảng” có 5 lần Người nhắc lại “đoàn kết”, và Người nhắn nhủ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”[2].
Với ý nghĩa đó, đồng thời, để làm rõ thêm tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc, em đã chọn đề tài: “Phân tích những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc” để làm bài tập cá nhân cuối kỳ.


I. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên cơ sở tư tưởng – lý luận và thực tiễn rất phong phú. Đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1. Những giá trị truyền thống của dân tộc
Đó là tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, ý chí bất khuất, tự lực, tự cường, tinh thần tương thân, tương ái, lạc quan, yêu đời gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử tạo nên sức mạnh to lớn để nhân dân ta đấu tranh dựng nước và giữ nước, chống lại thiên tai, địch họa, tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
Với mỗi người Việt Nam, yêu nước, nhân nghĩa, đoàn  kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên, một triết lý nhân sinh, thành phép ứng xử và tư duy chính trị. Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống. Và truyền thống ấy được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gươm, Người trong một nước, phải thương nhau cùng”, “Tình làng, nghĩa nước, Nước mất thì nhà tan”, hay “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”,… Truyền thống ấy, được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phản động tay sai.
Hồ Chí  Minh đã sớm tiếp thu được những giá trị của truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Hơn nữa, Người còn kết hợp những truyền thống đó với những giá trị của thời đại để hình thành hệ thống quan điểm cách mạng của mình.
2. Quá trình tổng kết thực tiễn các phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
Trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, đã có rất nhiều xu hướng khác nhau để cứu nước nhưng cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều thất bại. Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đoạn này. Từ thực tiễn đó, Người đã chỉ ra rằng: chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể đánh bại các đế quốc thực dân xâm lược. Vận mệnh của đất nước đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo cách mạng mới, đề ra được một đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ, tập hợp được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và thực dân, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì giành được thắng lợi.
Trong 30 năm bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước. Thực tiễn của cách mạng thế giới đã giúp Người nhận thức một sự thực: “Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”. Từ thực tiễn cách mạng thế giới Người đã rút ra kết luận: Cách mạng Mỹ, Pháp là những cuộc cách mạng chưa đến nơi vì sau khi cách mạng thành công, nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn. Cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh to lớn, nhưng chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết và chưa có tổ chức. Chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để vì “cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[3].
Phong trào cách mạng ở các nước như Trung Quốc và Ấn Độ đã để lại những bài học quý giá về việc huy động lực lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp cách mạng.
Những kết luận trên đã giúp Người chuẩn bị những nhân tố cần thiết, những kinh nghiệm để huy động, tập hợp lực lượng quần chúng cho việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng của mình.
3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; nhân dân là người sáng tạo lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành  giai cấp dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, …
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lênin cho rằng: sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự  đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin vì nó đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, chỉ ra sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên toàn thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đề quốc, thực dân.
Hồ Chí Minh đã sớm nắm được nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, qua đó, Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác các yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, những bài học rút ra từ các cuộc cách mạng các nước, từ đó hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
Chiến lược đại đoàn kết là chiến lược vận động, tập hợp mọi lực lượng nhân dân, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và giai cấp. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết thành chân lí: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”[4], “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”[5], “Đoàn kết là then chốt của thành công”[6],…
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau. Người cho rằng: Đại đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng, và đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng:
Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của thành công. Cách mạng muốn thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, quy mô của đoàn kết quyết định quy mô,mức độ của thành công.
2. Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng mà sức mạnh của Đảng là sức mạnh của khối đoàn kết giữa các thành viên. Vì vậy, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân để củng cố khối đại đoàn kết trong các tổ chức chính trị xã hội nói chung. Hồ Chí Minh cho rằng: Vấn đề đoàn kết phải được quán triệt từ chủ trương, đường lối, chính sách cho đến những hoạt động thực tiễn của Đảng, luôn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng.
Về mục tiêu của Đảng, tại Đại hội lần thứ hai năm 1951, Người chỉ ra: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm tám chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”[7]. Từ đó, Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
3. Đại đoàn kết dân tộc là để thực hiện khối đoàn kết toàn dân
 “Dân” vừa được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con dân nước Việt, con Rồng, cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, tín ngưỡng,… Như vậy, “dân” được hiểu là chủ thể, là đối tượng, là lực lượng của đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa là không chỉ huy động lực lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong toàn lãnh thổ Việt Nam mà còn huy động tập hợp lực lượng những người Việt Nam đang sinh sống và định cư ở nước ngoài vào khối đại đoàn kết dân tộc.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công – nông – lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì quần chúng nhân dân phải được tổ chức mới tạo thành sức mạnh vật chất. Quy tụ quần chúng nhân dân vào một tổ chức yêu nước phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng là sự quan tâm ngay từ đầu của Hồ Chí Minh và là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.
Tổ chức thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đó là một tổ chức chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài ngước, phấn đấu vì mục tiêu độc lập, thống nhất của tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Mặt trận Dân tộc thống nhất được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc:
Thứ nhất, Mặt trận Dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ đó, Mặt trận được mở rộng và thực sự quy tụ cả dân tộc, tập hợp toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ hai, Mặt trận Dân tộc thống nhất hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, phải làm cho mọi người đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và trước hết.
Thứ ba, đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đó là sự đoàn kết chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, đoàn thể, … trong Mặt trận, thực hiên hợp tác lâu dài, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – lấy cái chung, đề cao cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Về vị trí của Đảng Cộng sản trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
Đảng vừa là Đảng của giai cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đại bộ phận nhân dân Việt Nam coi Đảng cộng sản là Đảng của mình. Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải vừa là đạo đức, vừa là văn minh, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại, phải thực sự đoàn kết nhất trí.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ phận tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời cũng là một thành viên của mặt trận. Quyền lãnh đạo mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình mà là được nhân dân thừa nhận.
Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết toàn dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường. Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống xã hội hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.
5. Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hoà bình thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công 3 tầng Mặt trận: Mặt trận Đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận Đoàn kết Việt – Miên – Lào và Mặt trận Nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ, là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
III. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị biểu hiện tập trung ở những điểm sau:
Đoàn kết là bài học hàng đầu có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ thì thất bại.
Đoàn kết phải có nguyên tắc. vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời.
Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau.
Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
Đoàn kết đi liền bao dung, thực hiện nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải xây dựng khối đại đoàn kết trong Đảng.
Thực hiện đồng bộ đoàn kết Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, thế giới.
KẾT LUẬN
Đại hội XI của Đảng ta xác định: “Hơn bao giờ hết cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”[8].
Hiện nay, hơn bao giờ hết phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết trong tình hình mới. Qua hơn một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn Khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, H. 2003.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.CTQG, H. 2005.
3. TS. Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhận thức và vận dụng (sách tham khảo), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2013.
4. TS. Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nhận thức cơ bản (sách tham khảo), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
5. Song Thành, Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. LLCT, Hà Nội, 2009.
6. Nguyễn Bá Linh, Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nội dung cơ bản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995.
7. Song Thành, Hồ Chí Minh – Nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010.
8. TS. Nguyễn Mạnh Tường, Nhân dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh, Tạp chí lịch sử Đảng, 1/1997, tr. 51 – 53.
9. Phạm Văn Đồng, Những nhận thức cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội. 1998.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011.
12. Một số trang web:
PHỤ LỤC
Một số câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết:
1. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước”[9].
2. “Theo tinh thần “bốn bể đều là anh em”, tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến thanh niên Việt Nam. Đối với tôi, sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của một người Việt Nam đều đáng quý như nhau. Hỡi các bà mẹ Pháp! Tôi kêu gọi tinh thần yêu nước cao quý và tình mẫu tử của các bà. Các bà hãy giúp chúng tôi ngăn chặn những hiểu lầm và mau chóng gây dựng mối tình hữu nghị và tinh thần hoà hợp giữa con em chúng ta”[10].
6. “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”[11].
7. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta vẫn thật thà đoàn kết với họ[12].
8. “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[13].
9. “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường than ái, vì nước, vì dân”[14].
10. “Rằng đây bốn biển một nhà; Vàng đen trắng đỏ đều là anh em”.
11. “Dễ trăm lần, không dân cũng chịu; Khó ngàn lần, dân liệu cũng xong”.
Một số hình ảnh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nhịp bài ca Kết đoàn.


Biểu tượng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội nghị toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh – Hội Liên Việt, thành lập Mặt trận Liên hợp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt), tháng 3/1951.


Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất, tháng 9/1955, thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội nghị thành lập Liên minh Việt – Miên – Lào, tháng 3/1951.


Nhân dân xuống đường, đoàn kết ủng hộ Đảng, Chính phủ đấu tranh đòi Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam, tháng 5/2014.




[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 10, tr. 607.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 12, tr. 510.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1995, t. 2, tr. 270.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 7, tr. 392.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 11, tr. 22.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 11, tr. 154.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 6, tr. 183.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H. 2011.
[9] Hồ Chí Minh: ghi ở tựa sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước.
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1995, t.4, tr.303.
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 11, tr.130.
[12], 13 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 7,  tr.438.

[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 9, tr.137
Chi tiết...