About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Pháp luật Phòng chống tham nhũng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Pháp luật Phòng chống tham nhũng. Hiển thị tất cả bài đăng

Hãy nêu điểm mới của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 quy định về tội tham nhũng

Hãy nêu điểm mới của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 quy định về tội tham nhũng
MỞ BÀI
        Tham nhũng là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hôi. Tính nguy hiểm này thể hiện ở chỗ nó làm phương hại đến lợi ích quốc gia, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bất công trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người nhân đối với nhà nước. Về đối ngoại, tham nhũng  làm giảm niềm tin của các đối tác nước ngoài, uy tín của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, cản  trở hoạt động đối ngoại và các nguồn đầu tư. Tuy Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 đã bị hoãn hiệu lực thi hành, tuy nhiên nó  cũng có những điểm mới, tiến bộ quy định về chế định tham nhũng so với HBLS 1999. Để tìm hiểu thêm về vấn đề tham nhũng trong giai đoạn hiện nay em xin chọn đề tài số 01: “ Hãy nêu điểm mới của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 quy định về tội tham nhũng”  làm bài tập học  kỳ lần này của mình. 

NỘI DUNG
I.      KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM THAM NHŨNG
1.     Tội phạm về chức vụ
Để hiểu về tội phạm, Điều 8 BLHS 1999 quy định như sau : “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Điều 277 BLHS 1999 quy định : “ Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ”.
Luật cũng quy định thêm “ người có chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất đính trong khi thực hiện nhiệm vụ”.
Như vậy khi những cá nhân mang chức vụ, thực hiện những hành vi như trên thì có thể bị truy tố về các tội phạm về chức vụ tùy vào mức độ vi phạm.
2.     Tội phạm tham nhũng
Tội phạm về tham nhũng là một trong số những loại tội phạm về chức vụ thường gặp nhất.
Theo khoản 2  Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2012 đưa ra khái niệm tham nhũng như sau: “ Là hành vi của  người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.Cũng theo Điều 3 Luật này quy định có 12 loại hành vi được xét là hành vi tham nhũng, tuy nhiên dựa theo Điều 2 Nghị định số 59//2013/NĐ-CP  và BLHS năm 1999 đã xác định 7 hành vi được xét vào tội phạm tham nhũng.
Như vậy, theo khái niệm này, hành vi tham nhũng là hành vi vi phạm pháp luật nhưng gắn bó với quyền lực nhà nước và là mặt trái của sự vận hành quyền lực nhà nước ở góc độ của sự lạm quyền và tha hóa của một số người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, đơn vị vũ trang  nhân dân, đơn vị sự nghiệp…. vì mục đích vụ lợi làm ảnh hưởng đến quản lý, uy tín của  cơ quan nhà nước.
II.  ĐIỂM MỚI CỦA BLHS 2015 SO VỚI  BLHS 1999  QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM THAM NHŨNG.
1.    Điểm giống nhau giữa BLHS 2015 và BLHS 1999 quy định về tội phạm tham nhũng.
Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn chặn và đầy lùi tệ nạn tham nhũng, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa đem lại hiệu quả, tình trạng tham nhũng vẫn rất nghiêm trọng, vẫn đang là một trong những nguy cơ làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa, trực tiếp làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Trên tinh thần đó BLHS 2015 đã có những điểm mới về BLHS 1999 quy định về vấn đề tội phạm tham nhũng ( từ điều 353 đến 359 ) song cũng kế thừa những quy định của BLHS 1999 như:
Đầu tiên, vẫn tiếp tục thừa nhận và quy định 7 trong 12 hành vi tham nhũng là tội phạm tham nhũng là Tội tham ô tài sản (Điều 353); Tội nhận hối lộ ( Điều 354); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ( Điều 355); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356); Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358); Tội giả mạo trong công tác ( Điều 359).
Các khung hình phạt thì được quy định thành nhiều mức khác nhau, trong đó cũng đề cao giá trị tài sản chiếm đoạt để làm căn cứ tăng nặng cho các tội phạm có yếu tố chiếm đoạt. Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật.
Các biện pháp xử phạt thể hiện sự răn đe của nhà nước như phạt tiền, cách chức, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình…. Đều được BLHS 2015 và BLHS 1999 áp dụng.
2.  Điểm mới giữa nhau giữa BLHS 2015 và BLHS 1999 quy định về tội phạm tham nhũng.
           Đối với các tội phạm về tham nhũng so với BLHS 1999 thì BLHS năm 2015 nói chung không có sữa đổi, bố sung lớn. Tuy nhiên trong từng điều Luật cụ thể, nhà làm luật quy định các tình tiết là yếu tố định tội hoặc yếu tố định khung hình phạt cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay.
Đối với tội tham ô tài sản ( Điều 353): Mức định lượng tài sản quy định là yếu tố định tội quy định tại khoản 1 điều luật  theo hướng mở rộng hơn có lợi cho người phạm tội, nếu khoản 1 Điều 278 BLHS 1999 quy định tham ô 2.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng  bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì khoản 1 Điều 353  BLHS 2015 quy định tham ô  từ 2.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự và mức phạt cho cấu thành tội cơ bản cho tội danh vẫn giữ nguyên là từ 02 năm đến 07 năm.
Các tình tiết định khung hình phạt cũng được quy định lại và rõ ràng hơn trước. BLHS năm 2015 thay cụm từ “ gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả nghiêm trong khác” bằng các quy định cụ thể hơn như “chiếm đoạt tài sản sử dụng vào mục đích xóa đói giảm nghèo; tiền, phụ cấp đối với người có công với cách mạng…” hay “ ảnh hưởng xấu đến  đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan tổ chức”  . Đặc biệt, ngoài việc chiếm đoạt tài sản thì việc gây thiệt hại về tài sản cũng là một yếu tố mới làm tăng mức hình phạt của tội phạm; định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cũng thay đổi theo hướng có lợi cho người phạm tội ( ví dụ như khoản 2 tội này thay mức từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng bằng  từ 100.000.000  đến dưới 500.000.000 triệu đồng..). Bố sung  với tội này là khoản 6 Điều 353 là quy định “ Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh ghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.”
Đối với tội nhận hối lộ ( Điều 354): khoản 1 Điều 354 đã thay thế và bổ sung đầy đủ, hoàn thiện về hành vi của người phạm tội này hơn so với khoản 1 Điều 279 từ “…trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị..” bằng “ trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người và tổ chức khác”; như vậy chủ thể của tội phạm ở đây được quy định về hành vi một cách rõ ràng hơn, đầy đủ hơn và mở rộng hơn trước. Tại khoản 1 điều 354 tách riêng ra mức tài sản bị chiếm đoạt thành một điểm cụ thể chứ không quy định chung như Điều 297, đặc biệt ở điểm b khoản 1 Điều 354 đã bổ sung “lợi ích phi vật chất” đây là lần đầu tiên lợi ích phi vật chất được đề cao và nêu ra ở tội nhận hối lộ, hay là ở Điều 2 có khoản “ đòi hối lộ,sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt”. Các mức tài sản  hối lộ quy định lại có lợi cho người phạm tội hơn với năm 1999 như 100.000.000 triệu đến 500.000.000 triệu…Ngoài ra cũng như tội Tham ô tài sản BLHS 2015 cũng thay thế các cụm từ “ gây hậu quả nghiêm trọng khác” bằng các hành vi cụ thể và bổ sung khoản  6 như Điều 6 của Điều 353.

Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ( Điều 355): khác với các tội khác thì tội phạm này được quy định chặt chẽ và nghiêm khắc hơn trước, yếu tố chiếm đoạt tài sản được đặt ra với mức chiếm đoạt hay gây thiệt hại cao như “ chiếm đoạt tài sản từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ; chiếm đoạt tài sản từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng…” hay “ gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng; từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng”…mức tài sản giá trị cao hơn so với BLHS 1999. Tại khoản 2 còn quy định điểm mới “ chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ giúp, ưu đãi với người có công với cách mạng..”  hay lần đầu quy định tội này cho các doanh nghiệp như “ dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động”,  và còn “ gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.  so với BLHS 1999 thì hình phạt bổ sung với tội này được tăng lên từ 10.000.000 đồng đến 50.000.0000 thành từ 30.000.000 đồng lên đến 100.000.000 đồng thể hiện mức độ nguy hiển cho xã hội của tội phạm.
                 Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ( Điều 356):kế thừa những tư tưởng chủ đạo của BLHS 1999, BLHS 2015 góp phần làm rõ hơn quy định đó như: thay cụm từ “ gây hậu quả nghiêm trọng”  bằng “ gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”  ( khoản 2 Điều 356); tương ứng như thế ở Khoản 3 cũng thay cụm từ “ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng cụm từ “gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên” việc quy định rõ ràng như thế này giúp cho người dân cũng như các nhà áp dụng luật được thực hiện một cách nhất quán, dễ hiểu và dễ làm. Việc áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cũng được tăng lên từ “  ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”  thành “  bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”.
Đối với tội làm quyền trong khi thi hành công vụ ( Điều 357): được  cấu tạo lại thành 4 khoản ( ngoài hình phạt bổ sung ) theo hướng không có lợi cho tội phạm như Điều 282 BLHS 1999. Ngoài ra còn quy định chi tiết, rõ ràng hơn mức tài sản chiếm đoạt trong tội phạm này để cấu thành tội phạm tại khoản 1 Điều 357 mà tại khoản 1 Điều 282 không đề cập tới đó là “ làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; cũng tại khoản 1 Điều 357 cũng quy định về việc gây thiệt hại cho tổ chức mà tại BLHS 1999 chưa đề cập đến. Mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 là 1 năm tù, khoản 2 là 5 năm tù, khoản 3 là 10 năm tù và khoản 4 là 15 năm tù. Các cụm từ như “ gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”  thành lượng giá trị cụ thể  như 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hay từ 1.500.000.000 đồng trở lên .. Ở hình phạt bổ sung thì số tiền có thể bị phạt của người phạm tội này được tăng lên từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
          Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 358). Cũng cơ bản giống như các tội khác BLHS 2015 cũng có nhiều thay đổi so với tội này ở BLHS 1999. Đầu tiên ở khoản 1 Điều 358 đã thay thế chi tiết là “ đòi, nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào”  cho chi tiết ở khoản 1 Điều 283 HLHS 1999 là “ đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác” mở rộng hơn về hành vi của người phạm tội ; tách khoản 1 ra thành 2 Điểm mới, trong đó tại khoản b bổ sung chi tiết rất quan trọng là “ lợi ích phi vật chất” mà trước đây BLHS chưa đề cập tới.  Mức tài sản để cấu thành tội tại các khoản theo hướng cho người phạm tội hơn BLHS 1999; các cụm từ “ gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”  thành lượng giá trị cụ thể  như 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hay từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng…Ở hình phạt bổ sung thì số tiền có thể bị phạt của người phạm tội này được quy định từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng thay thế cho Điều 283 là “ có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền hoặc giá trị tài sản đã trục lợi” theo em, điều nay có thể có lợi hơn cho người phạm tội so với quy định ban đầu.
         Đối với tội giả mạo trong công tác ( Điều 359):về cơ bản tội phạm này không có gì thay đổi so với BLHS 1999 mà chỉ quy định rõ ràng  hơn. Khoản 2  được thu hẹp lại từ 4 điểm còn 3 điểm; khoản 3 và 4 được mở rộng thêm 2 điểm, quy định các tình tiết định tội cho người phạm tội. Cụm từ “ phạm tội nhiều lần”  được thay  bằng cách liệt kê số lượng giấy tờ được làm, cấp giấy tờ giả. Khoản 3 được thay bằng “ để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạmnghiêm trọng” cho trước đây tại khoản 3 điều 284 là “phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng”; khoản 4 được thay bằng “để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” cho trước đây là “phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" như vậy tội phạm người phạm tội có thể vi phạm nặng hơn nhưng mức hình phạt lại không thay đổi là theo hướng đã có lợi cho người phạm tội. Mức phạt tiền bổ sung được tăng lên thành từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng mà trước đây chỉ từ ba triệu đến ba mươi triệu đồng.
Như vậy các tội phạm về tham nhũng đã có những điểm mới so với trước đây nhằm hoàn thiện hơn chế độ về tham nhũng.
3. Đánh giá vể điểm mới của BHLS 2015 so với BLHS 1999 về quy định tội phạm tham nhũng.
Các tội phạm về tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức; xâm phạm đến tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. BLHS 2015 đã kế thừa và có bổ sung, thay thế, sữa chữa các quy định của BLHS 1999 về loại tội phạm này, tuy nhiên theo cá nhân em đánh giá về một số điểm mới mà em cho là tiêu biểu như sau:
Thứ nhất em thấy các quy định của BLHS 1999 mới chỉ dừng lại đối với các hành vi tham nhũng trong khu vực công do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện mà chưa ghi nhận về tội phạm tham nhũng trong khu vực tư. Còn về tiến bộ BLHS 2015 đã mở rộng nội hàm khái niệm tội phạm tham nhũng trong khu vực tư ( ngoài nhà nước) với 2 tội danh là Tội pham ô tài sản ( Điều 353) và Tội nhận hối lộ ( điều 354). Việc quy định như thế này theo em là hoàn toàn hợp lý vì do tính chất nghiêm trọng và mức độ ảnh hưởng ngày càng lan rộng của tham nhũng trong khu vực tư. Các hành vi tham nhũng hiện nay thường có xu hướng gắn kết chặt chẽ với nhau giữa các tổ chức nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài quy định như trên sẽ có tính chất răn đe, phòng ngừa hơn.Tuy nhiên, có thể thấy sự bất cập trong chính sách xử lý đối với các hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi do có sự phân biệt giữa khu vực nhà nước và khu vực tư, thậm chí nhiều hành vi tương tự như tham nhũng nhưng diễn ra trong khu vực tư nhân thì không thể xử lý được. Mặt khác, xuất phát từ thực tiễn về việc xử lý hành vi tham nhũng đối với tài sản của doanh nghiệp có phần vốn góp của Nhà nước, trong đó có sự đan xen về sở hữu mà trong nhiều trường hợp không thể tách biệt giữa tài sản, phần vốn góp của Nhà nước với tài sản, phần vốn góp của tư nhân, việc xác định xử lý trách nhiệm của cá nhân là người có chức vụ, quyền hạn trong loại hình doanh nghiệp này rất khó khăn.
           Thứ hai là BLHS 2015 đã mở rộng nội hàm “của hối lộ” tại các điều khoản liên quan. Theo quy định của BLHS năm 1999, để có thể xử lý được người phạm tội thì "của hối lộ" trong các cấu thành tội phạm liên quan như đưa hối lộ, nhận hối lộ, môi giới hối lộ... phải là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá được bằng tiền. Tuy nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, bên cạnh việc dùng tiền hay các lợi ích vật chất khác để hối lộ người có chức vụ quyền hạn như vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản, thì lợi ích tinh thần bao gồm nhiều hình thức khác nhau có thể mang lại giá trị về mặt tinh thần cho người thụ hưởng (ví dụ tình dục, vị trí, việc làm...) cũng được các đối tượng sử dụng để hối lộ nhằm đạt được mục đích của mình. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn  BLHS năm 2015 đã bổ sung “lợi ích phi vật chất” vào các cấu thành định tội đối với tội nhận hối lộ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, tội đưa hối lộ, tội môi giới hối lộ và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Tuy nhiên có thể thấy rằng trên thực tế việc xác định được sự có mặt của “ lợi ích phi vật chất” là rất khó khăn và không có tính răn đe, phòng ngừa cao.
                Thứ bađã tăng mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tham ô, chiếm đoạt, của hối lộ và đã bổ sung  thêm giá trị của hình phạt tiền, bố sung các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.Theo quy định của BLHS năm 1999 thì giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là một trong các tình tiết định tội, định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự cơ bản của hầu hết các tội phạm về chức vụ. Tuy nhiên, có thể thấy, BLHS năm 1999 chưa có sự phân hóa phù hợp về giá trị tài sản giữa các khung trong một điều luật cụ thể, chưa bảo đảm mức độ tương xứng giữa giá trị tài sản và mức hình phạt trong khung, cũng như chưa phù hợp với tình hình phát triển mới về kinh tế - xã hội và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. BLHS năm 2015 đã nâng mức định lượng về giá trị tiền, tài sản tại các điều khoản có liên quan…Thể hiện sự bảo đảm, sự phù hợp với thực tiễn xử lý loại tội phạm này, phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế, đồng thời nhằm cá thể hóa trách nhiệm hình sự, bảo đảm mức độ tương xứng giữa hình phạt với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội khi căn cứ vào giá trị tiền, tài sản tham ô, của nhận hối lộ hoặc thu lời bất chính.
Ví dụ: BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung mức định lượng giá trị tiền, tài sản về đối với nhóm tội liên quan đến hối lộ:Nâng giá trị tiền, tài sản là căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khung 1 các Điều 345 (tội nhận hối lộ), Điều 364 (tội đưa hối lộ), Điều 365 (tội môi giới hối lộ) từ “hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng” theo quy định tại các điều khoản tương ứng của BLHS năm 1999 lên “từ hai triệu đồng đến dưới một trăm triệu đồng; hình phạt tiền từ ba đến ba mươi triệu lên mười triệu đến một trăm triệu đồng;  bố sung tình tiết tăng nặng như “Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng…;  Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng; Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức”, hay thay thế các cụm từ “ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nghiêm trọng.. bằng các hành vi cụ thể…”

KẾT THÚC
          Cuộc đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh trên mọi mặt trận, trong đó việc xử lý các hành vi phạm tội về tham nhũng là một việc rất quan trọng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi và từng bước loại trừ tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng phải xác định rằng không thể ngày một ngày hai chúng ta có thể loại trừ tệ nạn này được, đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go và quyết liệt và trong tình hình kinh tế xã hội nước ta hiện nay thì tính chất phức tạp càng gấp bội. Các nhà làm luật đã nhận định thực tế đối với loại tội phạm này trong thực tiễn, có các quy định mới theo hướng phù hợp với thực tế hiện nay, tuy nhiên BLHS 2015 quy định về tội phạm này còn gặp một số, bất cập cần phải được thay thế và sữa chữa để nó ngày một hoàn thiện, là công cụ thiết yếu để đấu tranh, phòng ngừa với loại tội phạm này.


PHỤ LỤC
Sau đây chúng ta sẽ cùng điểm qua một số vụ án tham nhũng được xem là những vụ trọng án trong thời gian gần đây.
1, Điển hình là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) chiếm gần như tuyệt đối với những người từng giữ các cương vị cao như Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc và các Giám đốc chi nhánh thuộc Ngân hàng này tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Có những bị cáo rất “nổi tiếng” như Vũ Quốc Hảo, nguyên Tổng Giám đốc Công ty cho thuê tài chính 2 (ALC II), trực thuộc Agribank là bị cáo của các vụ án khác nhau, đã bị tuyên tử hình nhưng vẫn phải hầu Tòa trong các vụ án khác có liên quan. Người ta không thể quên ông với hành vi biến giá trị của thiết bị lặn 100 triệu đồng thành 130 tỷ đồng để chia chác, bỏ túi. Hành vi khai khống là một thủ đoạn khá phổ biến của tham nhũng được gọi bằng những cái tên khác nhau như “rút ruột”, “làm giá”... gặp rất nhiều trong các vụ án tham nhũng lớn, nhỏ tương tự.
2, Vụ Lâm Ngọc Khuân và đồng bọn đã được đưa ra xét xử, hàng chục cán bộ ngân hàng ở Sóc Trăng đã phải trả giá bằng nhiều năm tù. Song, “đại gia thủy sản” cầm đầu vụ này đã ôm 800 tỷ đồng vay mượn được sang Mỹ, đã có lệnh truy nã quốc tế nhưng sự hiện diện của bị cáo này trước vành móng ngựa sắp tới là rất thấp. Một vụ khác, số tiền mất vào tay bọn lừa đảo cũng rất lớn là gần 600 tỷ đồng (vụ Phạm Văn Cử, nguyên Giám đốc Agribank chi nhánh 7). Tương tự, vụ Dương Thanh Cường, nguyên Tổng Giám đốc Công ty Bình Phát (TP. Hồ Chí Minh) cũng lừa Agribank Bình Chánh chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng, vụ này từng được xét xử sơ thẩm nhưng rồi hoãn lại để điều tra bổ sung.
3, Dư luận cũng chú ý đến vụ Trần Quốc Đông và đồng phạm ở Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam bị cáo buộc nhận 16 tỷ đồng từ phía Nhật để bôi trơn dự án, một vụ nhận hối lộ nhưng bị cáo bị buộc tội với tội danh “lợi dụng chức vụ, quyền hạn...” mà thôi! Đáng chú ý là, các thuộc cấp của ông này đã ra sức “khắc phục hậu quả” bằng cách trả lại tiền đã nhận, riêng ông này thì “khắc phục” ở mức độ thấp nhất. Theo lời ông, 11 tỷ đồng từ phía Nhật chi ra là để “tiếp khách, nghỉ mát”, điều này đã khiến dư luận hết sức bất bình.
4, Vụ án của Giang Kim Đạt tham ô tài sản của Nhà nước, Ông Đạt nguyên là cán bộ công ty vận tải viễn dương Vinashin và đồng phạm tham ô 18,6 triệu USD của Nhà nước. Trong Chuyên án này, Giang Kim Đạt, nguyên quyền trưởng phòng kinh doanh của công ty TNHH một thành viên vận tải viễn dương Vinashin thuộc tập đoàn Vinashin  có dấu hiệu sai phạm “cố ý làm trái mua tàu Hoa Sen”. Quá trình triển khai, Cơ quan điều tra đã phát hiện tổng cộng có 40 nhà biệt thự, căn hộ cao cấp, đất đai vị trí “vàng” trên khắp cả nước cùng nhiều xe ô tô đắt tiền các loại. Tổng số tiền chiếm đoạt lên tới 18,6 triệu USD.

5, Vụ Phạm Thị Bích Lương, nguyên Giám đốc Agribank chi nhánh Nam Hà Nội. Vụ này có dính líu tới các Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc Agribank thời đó. Quá trình phạm tội của nhóm người này kéo dài 4 năm (8/2008 - 8/2012) với thủ đoạn giải ngân cho các đối tượng lừa đảo người nước ngoài gây thiệt hại cho Nhà nước gần 3.000 tỷ đồng. Đổi lại, phía “đối tác” đã thực hiện việc “bôi trơn” với các cán bộ nhà nước này gần 900.000 đô la, có “phi vụ” giải ngân 420 tỷ đồng được “lại quả” 3 tỷ đồng. Riêng ông Tổng Giám đốc nhận 310.000 đô la trong 900.000 đô la tiền “bôi trơn” và cũng đã thừa nhận việc này. Cũng như vụ Trần Quốc Đông, các tội danh cáo buộc cho vụ này không có tội “Nhận hối lộ”. Phải chăng, kẻ dùng tiền bôi trơn đã cao chạy xa bay, ẵm theo gần 3.000 tỷ đồng lừa đảo nên không có nhân chứng? Cũng như vụ Lâm Ngọc Khuân ở Sóc Trăng, “đại gia thủy sản” này ẵm 800 tỷ đồng rồi lặn không sủi tăm, chỉ còn đồng phạm ở lại, ra Tòa với cái tên “vụ án Lâm Ngọc Khuân và đồng phạm”, còn thủ phạm vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Điều đau xót nhất là tiền bạc của Nhà nước và nhân dân đã mất và không thể thu hồi.
Chi tiết...

Bài tập học kỳ - Pháp luật Phòng chống tham nhũng: Đề số 1


Tham nhũng là những hiện tượng đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người và ngày càng phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Tham nhũng là nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển của mỗi quốc gia và cả thế giới. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng (PCTN) là vấn đề không chỉ của riêng quốc gia nào mà là vấn đề có tính toàn cầu. Ở nước ta hiện nay, nếu không kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và quét sạch những kẻ thoái hóa, biến chất làm biến dạng quyền hạn và công vụ được nhân dân giao phó thì rất dễ nảy nòi một tầng lớp “tham quan ô lại mới” - một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang quyết tâm xây dựng.
Để làm rõ hơn vấn đề này, trong phạm vi bài tập học kỳ, em xin lựa chọn đề bài số 01 để lần lượt giải quyết vấn đề, bình luận cũng như đưa ra các kiến nghị đ ể hoàn thiện. Trong quá trình làm bài, không tránh mắc phải những sai sót nhất định, rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của thầy cô.
Đề số 1:
 Câu1. Qua kiểm tra hồ sơ di chuyển từ tỉnh HN đến tỉnh ĐB, Bảo hiểm xã hội tỉnh ĐB đã phát hiện hồ sơ hưởng BHXH giả của bà Hoàng Thị Yến, 48 tuổi, thường trú tại thị xã ML (tỉnh ĐB) nên đã chuyển sang cơ quan điều tra. Qua xác minh, điều tra được biết, tháng 4/2009, Hoàng Thị Yến đã chủ động gặp và đưa cho Đinh Văn Tính, 55 tuổi, ở thôn SĐ, huyện PS tỉnh ĐB 50 triệu đồng, nhờ Tính “lo lót” làm giả hồ sơ, giấy tờ để được hưởng chế độ mất sức lao động. Đinh Văn Tính đã chuyển cho Phạm Anh Đức – 45 tuổi, phó phòng Bảo hiểm xã hội huyện TN tỉnh ĐB số tiền 30 triệu đồng nhờ Đức làm giả giấy tờ cho bà Yến, số tiền còn lại Tính chiếm đoạt bỏ túi riêng. Phạm Anh Đức đã làm một bộ hồ sơ giả mang tên Hoàng Thị Yến được hưởng chế độ BHXH tại tỉnh HN, rồi chuyển cho Yến làm thủ tục hưởng chế độ BHXH tại tỉnh ĐB. Sau khi làm xong hồ sơ giả cho bà Yến, Đức đã gọi điện yêu cầu bà Yến đưa thêm cho Đức 20 triệu đồng nữa. Bà Yến đồng ý và đã giao cho Đức đủ số tiền 20 triệu đồng. Với hồ sơ giả trên, bà Yến đã chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội với tổng số tiền là 144 triệu đồng. Cũng qua xác minh, cơ quan điều tra còn phát hiện thêm Phạm Anh Đức đã làm giả ba bộ hồ sơ của 3 cá nhân khác ( hồ sơ khống) và đã chiếm  đoạt số tiền bảo hiểm xã hội từ 3 hồ sơ đó là 465 triệu đồng.
Câu hỏi: trên cơ sở quy định của BLHS, hãy hãy định tội danh đối với Hoàng Thị Yến, Đinh Văn Tính và Phạm Văn Đức.
Câu 2. Anh, chị hãy bình luận quy định của Mục 4 – Minh Bạch tài sản, thu nhập (từ Đ 44 đến Đ 55) của Luật phòng chống tham nhũng.
Câu 3. Theo anh, chị, có nên hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về phòng chống tham nhũng.

NỘI DUNG
Câu 1. Định tội danh đối với Hoàng Thị Yến, Đinh Văn Tính và Phạm Văn Đức
Trả lời: Hoàng Thị Yến phạm tội  Đ ưa hối lộ.
Bởi lẽ:  Hoàng Thị Yến đã có hành vi đưa tiền trung gian cho Tính rồi từ Tính đến tay của Đức. Số tiền mà Yến đưa lên tới 50 triệu đồng. Mục đích của Yến trong trường hợp này là nhờ Tính “lo lót” Đức để làm giả hồ sơ nhằm vì lợi ích của Yến.
Đinh Văn Tính phạm tội Làm môi giới hối lộ.
Bởi lẽ:  Đinh Văn Tính đã làm trung gian để chuyển yêu cầu của Yến đến Đức. Tội môi  giới hối lộ hoàn thành khi đạt được sự thỏa thuận của người đưa và người nhận về của hối lộ, do Đức đã nhận 30 triệu đồng và đồng ý giúp đỡ, nên tội phạm đã hoàn thành.
Phạm Văn Đức phạm tội nhận hối lộ
Bởi lẽ: Đức là người có chức vụ, quyền hạn qua trung gian của Tính, Đức đã nhận 30 triệu đồng từ Yến để làm giả hồ sơ theo yêu cầu của Yến nhằm chiếm đoạt tài sản. Ở đây, đã có sự thống nhất giữa Đức và Tính, Yến để Đức làm một việc vì lợi ích của Yến.
Ngoài ra, cả Yến, Tính và Đức đều phạm tội Lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bởi lẽ: Cả 3 đều biết thông tin trong hồ sơ là không đúng sự thật, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi đưa ra thông tin để người khác tin đó là sự thật nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
Câu 2. Anh, chị hãy bình luận quy định của Mục 4 – Minh Bạch tài sản, thu nhập (từ Đ44 đến Đ55) của Luật phòng chống tham nhũng.
Hiện nay, hệ thống minh bạch tài sản ở Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở kê khai tài sản đơn thuần, còn thiếu nhiều yếu tố để Nhà nước có thể kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Luật PCTN đã quy định những nội dung cơ bản nhất của một hệ thống minh bạch tài sản, bao gồm những vấn đề chính như sau:
- Cán bộ, công chức phải kê khai tài sản hàng năm để tránh che giấu, tẩu tán tài sản tham nhũng; ngoài việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ, công chức còn phải kê khai tài sản của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên nhằm ngăn chặn việc phân tán tài sản tham nhũng, tránh sự phát hiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Việc xác minh tài sản được tiến hành trong một số trường hợp nhất định khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi xem xét đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử hoặc có hành vi tham nhũng thì thủ trưởng cơ quan tổ chức việc xác minh tài sản để xem cán bộ, công chức có kê khai trung thực hay không.
- Bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài sản được công khai trong một số trường hợp nhất định theo yêu cầu và trên cơ sở quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật nếu kê khai không trung thực, nếu là người ứng cử thì sẽ bị loại khỏi danh sách bầu cử, người được dự kiến bổ nhiệm, phê chuẩn thì sẽ không được bổ nhiệm, phê chuẩn vào chức vụ dự kiến.
Với tinh thần đó, việc minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức đã khác với trước kia chỉ quy định về kê khai tài sản thu nhập của cán bộ, công chức, nay mục tiêu là tiến tới minh bạch tài sản cán bộ, công chức. Luật PCTN không đặt vấn đề công khai bản kê khai tài sản mà chỉ quy định công khai kết luận về tính minh bạch, trung thực của việc kê khai sau khi đã tiến hành xác minh theo các hình thức và ở những địa điểm thích hợp.
·     Về đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai:
Theo quy định tại Điều 44 của Luật PCTN, không phải mọi cán bộ, công chức đều phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, mà chỉ cán bộ có chức vụ từ phó trưởng phòng của cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên hoặc tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ, công chức làm tại một số vị trí nhất định (sẽ do Chính phủ quy định). Cụ thể, những người sau đây phải kê khai tài sản:
- Cán bộ từ phó trưởng phòng của uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên và tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Một số cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn; người làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân;
- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.
Để cụ thể hoá quy định này, tại Điều 6 Nghị định số số 37/2007/NĐ-CP ngày 09/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập đã quy định cụ thể người có nghĩa vụ kê khai tài sản.
Ngày 03/07/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 85/2008/QĐ-TTg ban hành danh mục người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập hiện đang làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, lực lượng vũ trang.
Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP ngày 13/11/2007 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 37/2007/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP) đã cụ thể hóa thêm một bước nữa về vấn đề này, bổ sung thêm nhóm đối tượng thứ hai là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động minh bạch tài sản, thu nhập, bao gồm: cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người có nghĩa vụ kê khai công tác; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu xác minh; cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định xác minh; cơ quan, tổ chức, đơn vị tiến hành xác minh và cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan.
Ngày 22/01/2010, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư 01/2010/TT-TTCP sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Thông tư số 2442. Theo đó, những đối tượng sau đây có nghĩa vụ phải kê khai:
- Người có nghĩa vụ kê khai tại khoản 2, Điều 6, Nghị định số 37/2007/NĐ-CP là những người có chức vụ từ phó trưởng phòng UBND cấp huyện và tương đương trở lên, bao gồm:
+ Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan và đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện; trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân (QĐND) không phải là hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân (CAND) không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp;
+ Những người được Đảng, Nhà nước điều động, phân công và người được tuyển dụng, bổ nhiệm theo chỉ tiêu biên chế được giao làm việc trong tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
- Người có nghĩa vụ kê khai tại khoản 8, Điều 6, Nghị định số 37/2007/NĐ-CP: đối với tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước, công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước thì đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập đáp ứng đủ hai điều kiện sau:
+ Giữ một trong các chức danh tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị, phó chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, trưởng ban kiểm soát, phó trưởng ban kiểm soát, thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng, trưởng ban, phó trưởng ban, trưởng phòng, phó trưởng phòng trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước, công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước;
+ Các chức danh trên do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử giữ, bổ nhiệm; hoặc do hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị của công ty cổ phần bầu, bổ nhiệm và là người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại công ty đó.
·     Quyền và nghĩa vụ của người kê khai tài sản
Theo quy định của pháp luật, người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai tài sản, biến động về tài sản thuộc sở hữu của mình và tài sản thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên. Người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai trung thực và chịu trách nhiệm về việc kê khai. Khi kê khai, người có nghĩa vụ kê khai phải ghi rõ những thay đổi về tài sản so với lần kê khai trước.
Cụ thể hoá nội dung về quyền và nghĩa vụ của người kê khai tài sản, Điều 7 Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09/3/2007 của Chính phủ quy định:
- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập có các quyền sau:
+ Được bảo đảm bí mật nội dung của bản kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật;
+ Khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập tại Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 37/2007/NĐ-CP;
+ Được khôi phục danh dự, uy tín, được bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập gây ra.
- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập có các nghĩa vụ sau:
+ Kê khai trung thực, đầy đủ, đúng thời hạn về số lượng tài sản, thu nhập phải kê khai và những thay đổi so với lần kê khai gần nhất trước đó;
+ Giải trình trung thực, đầy đủ, kịp thời về nội dung liên quan đến kê khai tài sản, thu nhập khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền;
+ Thực hiện đầy đủ các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền phục vụ cho việc xác minh tài sản, thu nhập.
 Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thì ngoài việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ được quy định nói trên còn phải thực hiện các nghĩa vụ về kê khai tài sản, thu nhập do tổ chức đó quy định.
Người có nghĩa vụ kê khai phải tự kê khai và tự chịu trách nhiệm về nội dung và sự trung thực của việc kê khai. Việc kê khai hằng năm được tiến hành theo trình tự sau:
Để đảm bảo công tác kê khai đúng quy định và thời hạn, tháng 11 hằng năm, đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị lập danh sách người có nghĩa vụ kê khai trình người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phê duyệt. Việc phê duyệt hoàn thành chậm nhất là ngày 30/11 hằng năm.
Sau khi danh sách người có nghĩa vụ kê khai được phê duyệt, đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ phát mẫu bản kê khai và hướng dẫn kê khai. Người có nghĩa vụ kê khai thực hiện việc kê khai và nộp bản kê khai cho đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được Mẫu bản kê khai.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được bản kê khai, đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ phải kiểm tra lại bản kê khai; nếu thấy việc kê khai chưa đúng mẫu quy định thì yêu cầu kê khai lại; thời hạn kê khai lại là năm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Khi tiếp nhận bản kê khai, người tiếp nhận phải làm Giấy giao nhận theo mẫu và ký nhận. Việc kê khai và nộp bản kê khai có thể chậm hơn các thời hạn nói trên nếu người có nghĩa vụ kê khai có lý do chính đáng (ốm, đi công tác vắng,..).
 Việc lưu giữ bản kê khai thực hiện như sau:
- Nếu người kê khai không thuộc diện cấp ủy quản lý theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ thì bản kê khai được lưu cùng hồ sơ cán bộ của người đó tại đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ; người kê khai có trách nhiệm lưu giữ bản sao bản kê khai của mình.
- Nếu người kê khai thuộc diện cấp ủy quản lý theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ thì đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ sao y 02 bản; nộp bản gốc cho ban tổ chức cấp ủy cùng cấp; lưu 01 bản sao tại đơn vị mình; gửi 01 bản sao cho ủy ban kiểm tra cấp ủy cùng cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ (để phục vụ công tác giám sát và xác minh theo quy định).
Đối với bản kê khai của người kê khai thuộc diện cấp ủy quản lý mà trước đây đã sao y 3 bản (gửi 1 bản cho ủy ban kiểm tra cấp ủy cùng cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ; gửi 1 bản cho cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp; lưu 1 bản tại đơn vị phụ trách công tác tổ chức, cán bộ) thì cơ quan, đơn vị này thực hiện quản lý bản kê khai theo quy định về quản lý hồ sơ cán bộ.
Tất cả các hoạt động trên phải hoàn thành chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 của năm kê khai.
Việc kê khai phục vụ công tác bổ nhiệm được thực hiện theo trình tự dưới đây: Khi có kế hoạch, dự kiến bổ nhiệm thì người có thẩm quyền bổ nhiệm yêu cầu người dự kiến được bổ nhiệm thực hiện việc kê khai.  Thời hạn kê khai, nộp bản kê khai do người có thẩm quyền bổ nhiệm ấn định để bảo đảm việc bổ nhiệm được thực hiện theo đúng quy trình, nhưng phải hoàn thành trước thời điểm lấy phiếu tín nhiệm và đảm bảo đủ thời gian 10 ngày cho người kê khai thực hiện việc kê khai.
* Về tài sản phải kê khai
So với quy định trước kia thì vấn đề tài sản phải kê khai được quy định đầy đủ hơn, bao gồm:
- Nhà, quyền sử dụng đất;
- Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và các loại tài sản khác mà giá trị của mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên;
- Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;
- Thu nhập phải chịu thuế theo quy định của pháp luật.
Cụ thể:
- Các loại nhà, công trình xây dựng sau:
 + Nhà, công trình xây dựng khác đang thuê hoặc đang sử dụng thuộc sở hữu của Nhà nước;
+ Nhà, công trình xây dựng khác thuộc sở hữu của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu;
+ Nhà, công trình xây dựng khác thuộc sở hữu của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu đứng tên người khác.
- Các quyền sử dụng đất sau:
+ Quyền sử dụng đất của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng;
+ Quyền sử dụng đất của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đứng tên người khác.
- Tài sản, tài khoản ở nước ngoài của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên.
- Thu nhập từ mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân trở lên theo quy định của pháp luật.
- Kim khí quý, đá quý, tiền, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, séc, các công cụ chuyển nhượng khác, mô tô, ôtô, tàu, thuyền và các loại tài sản khác mà giá trị của mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên.
Thủ tục kê khai tài sản được thực hiện tương tự như trước: Việc kê khai tài sản được thực hiện hằng năm tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người có nghĩa vụ kê khai làm việc và được hoàn thành chậm nhất vào ngày 31 tháng 12.
Bản kê khai tài sản được nộp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản.
·     Về xác minh tài sản thu nhập và xử lý vi phạm
Việc xác minh tài sản là để đánh giá về tính trung thực của việc kê khai, góp phần đánh giá cán bộ, công chức hoặc người tham gia ứng cử vào các cơ quan quyền lực để bảo đảm bộ máy nhà nước có một đội ngũ cán bộ trung thực, liêm chính, không tham nhũng. Tuy nhiên, quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân cần được tôn trọng và bảo vệ. Vì vậy, Luật PCTN quy định vấn đề này rất chặt chẽ, việc xác minh chỉ được tiến hành trong trường hợp có đủ hai điều kiện:
- Phải có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản.
- Chỉ được thực hiện trong các trường hợp Luật định.
Cụ thể, Điều 47, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định như sau:
- Việc xác minh tài sản chỉ được thực hiện khi có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản.
- Việc xác minh tài sản được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
+ Phục vụ cho việc bầu cử, bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ luật đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản khi xét thấy cần thiết;
+ Theo yêu cầu của hội đồng bầu cử hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
+ Có hành vi tham nhũng
Trên thực tế, việc xác minh tài sản là vấn đề cực kỳ phức tạp vì liên quan đến việc phân cấp quản lý cán bộ, công chức, trong đó có vai trò của các cơ quan Đảng bởi vì nhiều cán bộ, công chức là đảng viên thuộc diện cấp uỷ quản lý. Thông tư số 2442/2007/TT-TTCP đã chia thành các nhóm đối tượng khác nhau, nội dung, trình tự xác minh cũng như việc công khai kết luận xác minh và việc xử lý đối với những người kê khai không trung thực.
Qua xác minh, nếu người bị kết luận là không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập thì tuỳ theo tính chất, mức độ bị xử lý bằng một trong các hình thức kỷ luật sau:
- Khiển trách;
- Cảnh cáo;
- Hạ bậc lương;
- Hạ ngạch.
Đối với người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực là người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, HĐND, đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, người dự kiến được phê chuẩn, bổ nhiệm thì bị xử lý như sau:
- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND mà bị kết luận là kê khai tài sản, thu nhập không trung thực thì bị xoá tên khỏi danh sách người ứng cử trong thời hạn một nhiệm kỳ.
- Người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, HĐND, đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, người dự kiến được phê chuẩn, bổ nhiệm mà bị kết luận là kê khai tài sản, thu nhập không trung thực thì không được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm trong thời hạn một năm, kể từ ngày bị kết luận là kê khai không trung thực.
- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, người dự kiến được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm bị kết luận là kê khai tài sản, thu nhập không trung thực mà người đó là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc QĐND; sĩ quan trong các cơ quan, đơn vị thuộc CAND ngoài việc bị xử lý theo quy định trên thì còn bị xử lý kỷ luật.
Câu 3. Theo anh, chị, có nên hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về phòng chống tham nhũng?
Trả lời: Nên hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về phòng chống tham nhũng.
Điều 20 Công ước quốc tế về chống tham nhũng (UNCAC), quy định: “Trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nước mình, mỗi Quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp cần thiết khác nhằm quy định là tội phạm, nếu được thực hiện một cách cố ý, hành vi làm giàu bất hợp pháp, nghĩa là việc tài sản của một công chức tăng đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể như vậy”.
Hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp không phải là quy định bắt buộc, nhưng xuất phát từ đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, việc bổ sung hành vi này là tội phạm là cần thiết. Hiện nay, Luật PCTN và Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 về minh bạch tài sản, thu nhập đã quy định về các biện pháp phòng ngừa nhằm phát hiện hành vi làm giàu bất hợp pháp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiện chưa có cơ chế khả thi để kiểm soát tính chính xác của việc kê khai tài sản; chưa có biện pháp xử lý đối với tài sản có giá trị lớn tăng lên bất thường mà người kê khai không chứng minh được tính minh bạch, hợp pháp của tài sản tăng thêm.
Tuy chưa có một báo cáo chính thức của các cơ quan, tổ chức nào về vấn đề này nhưng qua nhiều nguồn phản ánh khác nhau, có thể thấy rằng tình trạng làm giàu bất chính vẫn đang diễn ra ở nhiều lĩnh vực đời sống và có tính chất rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội, nhưng các chế tài xử lý hiện không đủ sức răn đe cũng như xử lý triệt để, khiến một số người dân mất niềm tin về công cuộc đấu tranh PCTN.
Dự thảo BLHS (sửa đổi) dự định hình sự hóa một số hành vi, trong đó có hành vi hoàn toàn mới và khá nhạy cảm là làm giàu bất chính. Cụ thể, tội làm giàu bất hợp pháp là trường hợp tài sản của một công chức tăng đáng kể so với thu nhập hợp pháp của họ mà khi được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu, họ không giải thích được một cách hợp lý về sự tăng đáng kể đó. Thực tế hiện nay xuất hiện nhiều trường hợp quan chức giàu lên nhanh chóng mà không thể lý giải hợp lý nguồn gốc tài sản tăng thêm này. Điều đó cho phép ta nghi ngờ về một sự làm ăn không minh bạch, vi phạm pháp luật hoặc phạm tội trước đó.
BLHS hiện hành có quy định tội chứa chấp, hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (điều 250); và tội hợp pháp hóa tiền tài sản do phạm tội mà có (điều 252). Tuy nhiên, cả hai tội này, muốn kết tội, đều phải chứng minh hành vi phạm tội nguồn. Nếu không chứng minh được, thì không thể xử lý hành vi giàu lên nhanh chóng mà không chứng minh được nguồn gốc, chính hạn chế này của hai điều luật nói đã tạo cơ hội để những người có chức vụ, quyền hạn tham nhũng hoặc tham nhũng rồi tẩu tán tài sản cho người thân.
Việc hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính là hết sức cần thiết và phù hợp với yêu cầu của Công ước quốc tế về PCTN mà Việt Nam là một thành viên. Nếu việc hình sự hóa hành vi này thành hiện thực thì sẽ tạo ra đột phá trong công cuộc đấu tranh PCTN - thể hiện ở việc triệt tiêu được động cơ của hành vi tham nhũng, cũng như các hành vi phạm tội khác, nâng cao hiệu quả đấu tranh PCTN ở Việt Nam.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi khi hình sự hóa hành vi này như có thời gian để triển khai các giải pháp khác như: quản lý thu nhập qua tài khoản, thực hiện việc tăng lương, nâng cao thu nhập cho công chức, viên chức và người lao động,…thì cần tiếp tục nghiên cứu, quy định bổ sung tội làm giàu bất chính vào thời gian thích hợp.
KẾT LUẬN

Tiếp tục thực hiện việc minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, Chiến lược quốc gia PCTN đến 2020 yêu cầu: sửa đổi, bổ sung các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập theo hướng từng bước công khai và quy định trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập; thực hiện việc chi trả qua tài khoản đối với tất cả các khoản chi từ ngân sách nhà nước cho cán bộ, công chức; Tăng cường thanh, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về công vụ, công chức, nhất là việc minh bạch tài sản, thu nhập, việc thực thi công vụ ở vị trí trực tiếp giải quyết yêu cầu của công dân, tổ chức, doanh nghiệp.
Chi tiết...