About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học Mác - Lênin. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triết học Mác - Lênin. Hiển thị tất cả bài đăng

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại và vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại và vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn
MỞ BÀI
      Trong cuộc sống muôn hình vạn trạng, bất kì một sự vật, một hiện tượng tồn tại nào cũng là một thể thống nhất, dính kết giữa hai mặt chất và lượng. Chất và lượng tuy là hai phương diện khác nhau, cùng song song tồn tại khách quan trong một sự vật một hiện tượng, thế nhưng chúng lại không tách rời nhau mà thậm chí ngược lại, chúng tác động lẫn nhau, biện chứng cho nhau, cái này kéo theo cái kia như một hệ quả hiển nhiên, tất yếu. Mặc định lượng thay đổi tất yếu sẽ kéo theo sự chuyển hóa về chất, đồng thời chất mới sẽ tác động trở lại đối với lượng. Để tìm hiểu sâu về vấn đề trên em xin chọn đề tài 3:” Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại và vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn”. Để khẳng định cho điều vừa nói trên, ta có thể lấy một ví dụ điển hình rất thức tế trong bước ngoặt lịch sử việt nam để chứng minh, đó chính là cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945- một dấu son nổi bật tạc trên trang văn lịch sử hào hùng của dân tộc việt. 

NỘI DUNG
I.      NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN TỚI SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
     1.  Định nghĩa phạm trù chất và lượng
        Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng.
       Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn    có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng cũng như của các thuộc tính của nó.
Chất và lượng là hai phương diện khác nhau của sự vật, hiện tượng khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong nhận thức về sự vật chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
2.     Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
·     Chất và lượng luôn thống nhất hữu cơ với nhau
     Bất kỳ chất nào cũng có một lượng nhất định, bất kỳ lượng nào cũng là lượng của một chất nhất định. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
     Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển hóa  về chất của sự vật, hiện tượng.
·       Chất và lượng là hai mặt đối lập nhau
      Chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên thay đổi.
       Sự biến đổi có thể xảy ra theo hai hướng : sự tăng lên hoặc giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay hoặc thay đổi dần dần về chất.
      Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất và ngược lại.  Ở  một giai đoạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất người ta gọi đó là độ.
·       Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và
chất, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng và chưa chuyển hóa thành sự vật hiện tượng khác.
·        Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm tại đó sự
thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện xác định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới.
·       Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thay đổi căn bản về
chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của chất đó gây nên; là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng. 
·       Sự biến đổi về chất tác động trở lại biến đổi về lượng: khi chất mới ra đời,
nó quy định quy mô, mức độ và nhịp độ phát triễn của lượng mới.
3.     Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
     Bởi bất kì sự vật hiện tượng nào cũng có hai phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định, tác động biện chứng và chuyển hóa lẫn nhau. Do đó trong nhận thức và thực tiễn chúng ta cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu trên, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.
     Do những sự thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất và ngược lại, cho nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích hoàn cảnh cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất; bên cạnh đó có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.
    Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, vì lẽ đó trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh, đồng thời phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn.
    Vì bước nhảy của sự vật hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức và thực tiên cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt hơn, trong đời sống xã hội, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất. 
II. VẬN DỤNG NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG VÀ CHẤT VÀO VÍ DỤ: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM, QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ VÀ SỰ THÀNH CÔNG CỦA CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG 8/1945
1.     Quá trình chuẩn bị
      Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời tháng 2/1930. Từ đó phong trào đấu tranh của nhân dân ta đã có một chính đảng lãnh đạo. Tiếp theo đó là sự thành lập của các tổ chức chính trị-xã hội khác như Đoàn thanh niên cộng sản Đông Dương(1931), Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ(1929)- tiền thân của công đoàn việt nam và một số tổ chức khác, góp phần vào việc tuyên truyền lý tưởng cách mạng cho đông đảo quần chúng ở nhiều giai tầng trong xã hội .
+ Giai đoạn 1930-1931
    Trước tình hình thế giới và trong nước đầy biến động, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời nêu cao hai khẩu hiệu: “ Độc lập dân tộc, Người cày có ruộng”. Đánh đúng vào nhu cầu, ước nguyện của đông đảo quần chúng. Cho nên các phong trào đấu tranh diễn ra rộng khắp trên cả nước, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Mở đầu là hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, Hãng dầu Xôcôni (Sài Gòn), đồn điền cao su Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một). Tiếp đến là các cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, của 4.000 công nhân nhà máy dệt Nam Định (tháng 4 - 1930), của nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương.. Tiểu biểu là cuộc biểu tình của nhân dân Huyện Hưng Nguyên (Nghệ An). Mặc dù cuộc khởi nghĩa đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man song cũng không làm dập tắt được phong trào. Cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ- Tĩnh là cuộc tập dượt lần một cho sự thắng lợi của CMT8 với nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc, đem lại một tiếng vang lớn trên toàn đất Đông Dương, tăng thêm ảnh hưởng của Đảng Cộng Sản trên các xứ thuộc địa. 
Cao trào 1930-1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh
 + Giai đoạn 1936-1939
     Phong trào dân chủ 1936-1939 với các cuộc đấu tranh tiêu biểu : đấu tranh đòi quyền tự do, dân sinh, dân chủ; đấu tranh nghị trường, báo chí..... Tiêu biểu là phong trào Đông Dương đại hội ( 8 - 1936 ). Đảng phát động quần chúng, hội thảo đưa yêu sách gửi lên phái đoàn điều tra Pháp chuẩn bị sang Đông Dương. Năm 1936, ở Nam Kì có 600 Ủy ban hành động được thành lập và phân phát truyền đơn, báo chí, tổ chức mít tinh, hội thảo, đưa yêu sách dân sinh, dân chủ. Tháng 9 - 1936 ở Bắc Kì và Trung Kì thì các Ủy ban cũng nối tiếp nhau ra đời. Phong trào này đã có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, mở rộng lực lượng của mặt trận dân chủ, vạch trần chính sách phản động thuộc địa của thực dân, tay sai và đấu tranh đòi quyền dân chủ cho Đông Dương, là cuộc tập dượt lần hai trước sự thành công quyết định của cuộc cách mạng tháng 8. 
+ Giai đoạn 1939-1945
     Sau hội nghị lần VI và VIII, ngọn cờ giải phóng dân tộc được dâng cao. Trung ương Đảng, chính phủ, và chủ tịch Hồ Chí Minh đã gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa từng phần, tiểu biểu là cao trào phá kho thóc Nhật,… và tổng khởi nghĩa tháng Tám. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Ngày 9/3/1945, Nhật tiến hành đảo chính Pháp và đây là điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa từng phần từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945. Đây là cuộc tập dượt cuối cùng cho CMT8. Cao trào phá kho thóc Nhật, giải quyết nạn đói.
+ Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945
    Tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển, Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện, thời cơ chín muồi cho tổng khởi nghĩa đã đến. Cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra trong vòng 15 ngày và dành được thắng lợi hoàn toàn trên địa bàn cả nước. 
Cuộc biểu tình của nhận dân ở Bắc Bộ Phủ, Hà Nội ngày 19/8/1945
Chiều 30/8/1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị trước toàn thể nhân dân, chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là ngày hội non sông, mãi đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi bằng vàng, đánh dấu sự chuyển mình của đất nước. Bác Hồ đọc tuyên ngôn mừng ngày độc lập cùng với sự góp mặt đông đảo của toàn thể nhân dân Việt Nam.
2.     Phạn trù Lượng và Chất thể hiện trong ví dụ trên
     Bây giờ chúng ta sẽ nhìn nhận ví dụ trên qua góc nhìn của quy luật chuyển hóa giữa chất và lượng như sau:
    Chất ban đầu chúng ta cần xác định, đó chính là nước Việt Nam trong thời điểm trước năm 1945 là nước nửa thuộc địa nửa phong kiến, chịu sự áp bức của “một cổ đôi tròng”. Nhân dân ta trong cảnh lầm than, chịu hai tầng  áp bức. Nhân dân không có được những quyền cơ bản của con người, cũng chưa có một tổ chức nào đại diện cho ý nguyện của họ cả. 
    Lượng ở đây được thể hiện ở nhiều dạng:
• Một là sự phát triển của phong trào cách mạng ở nước ta, thể hiện qua các cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức như trên. Sự gia tăng về lượng chính gia tăng các sự kiện đấu tranh của nhân dân và quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền qua các giai đoạn 1930-1931, 1936-1938, 1939-1945. Các phong trào tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng (quy mô, tổ chức, thành phần tham gia). Lượng tăng dần và giai đoạn tăng vọt về lượng chính là giai đoạn 1939-1945 cùng với sự phát triển của khởi nghĩa từng phần. 
• Hai là sự thành lập của các tổ chức chính trị xã hội, các đội tuyên truyền về cách mạng cho toàn thể nhân dân, làm cho nhân dân có nhận thức đúng đắn về cách mạng và làm tăng ý thức cách mạng của họ, xây dựng được mặt trận thống nhất dân tộc. Nổi bật nhất là vai trò của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương đóng vai trò tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự chuẩn bị tích cực, chu đáo về mọi mặt chính trị, quân sự… Đảng đã xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu; từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc, có chỗ đứng chân ngày càng vững chắc trong căn cứ địa cách mạng, giữ vai trò nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
• Ba là những yếu tố khách quan thuận lợi trong thời điểm này, đúng với những gì mà học thuyết Mac-Lê Nin đã chỉ ra: Trên thế giới phe phát xít đã suy yếu, kiệt quệ làm cho phát xít Nhật ở Đông Dương như rắn mất đầu, hoang mang tột độ. Lực lượng quân Đồng minh chưa kịp vào nước ta làm nhiệm vụ giải giáp vũ khí quân đội Nhật theo thỏa thuận tại hội nghị Ianta. Lực lượng trung gian đã ngả hẳn về phía cách mạng, cùng với đó đảng và nhân dân ta đã sẵn sàng hành động, kiên quyết hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Nhờ vậy mà cuộc tổng khởi nghĩa của chúng ta giành được tháng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.
• Bốn là sự đấu tranh gian khổ và anh dũng của biết bao nhiêu Đảng viên vàquần chúng cách mạng. Hồ Chí Minh nói: "Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”.
Qua 4 ý trên về sự biểu hiện của lượng, đây cũng chính là các yếu tố mang lại thành công cho Cách mạng tháng 8/1945. Sự tăng dần về lượng dần dần sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất.
3.     Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất trong ví dụ trên
     Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự vận động và thành công của cách mạng tháng 8/1945 cũng không nằm ngoài quy luật đó.
     Độ ở đây chính là cả quá trình chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa , có sự thay đổi rõ rệt về lượng nhưng chưa làm thay đổi về chất vì nước ta thời điểm đó vẫn là nước nửa phong kiến nửa thuộc địa.
     Điểm nút chính là thời điểm chín muồi để thực hiện cuộc tổng khởi nghĩa. Do đã hội tụ đầy đủ những yếu tố thuận lợi, tất yếu về cả chủ quan lẫn khách quan như  trên. Từ sự tăng lên về lượng đã đến lúc để thay đổi về chất. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 lật đổ chính quyền nữa thực dân nữa phong kiến của triều đình bù nhìn nhà Nguyễn và thực dân pháp, thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (2/9/1945). Đây chính là bước nhảy, một bước nhảy lớn trong cả quá trình chuẩn bị tổng khởi nghĩa – một quá trình thể hiện rõ mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.  Chất mới được sinh ra sau quá trình chuyển hóa giữa lượng và chất đó chính là nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nước Việt Nam bây giờ là một nước Cộng hòa, độc lập, có chính quyền riêng, không phải phụ thuộc vào ai, quyền lực là của nhân dân. Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là của dân, do dân và vì dân. Bây giờ, nhân dân lao động đã có những quyền xứng đáng được hưởng, họ đã có nhà nước là tổ chức thực hiện ý nguyện của mình.Trong ví dụ này, ta thấy được rõ mối quan hệ thống nhất không thể tách rời được của hai yếu tố là lượng và chất. Chất cũ-nước Việt Nam nữa phong kiến nữa thuộc địa đã thúc đẩy quá trình đấu tranh của nhân dân ta, dẫn đến sự thay đổi ngày càng lớn về mặt lượng và đến thời điểm tất yếu, sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất- đó là sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nếu không có sự thay đổi về lượng – nghĩa là không có sự chuẩn bị tổng khởi nghĩa thì sẽ không bao giờ xày ra việc CMT8 thắng lợi và sự ra đời của một nhà nước mới. Và nếu không có sự biến đổi về chất thì sự tăng lên về lượng cũng không có ý nghĩa gì, quá trình chuẩn bị sẽ là vô ích.
      Cho nên sự tác động qua lại này là tất yếu phải xảy ra và hai yếu tố này có sự thống nhất chặt chẽ, không thể tách rời.Chất mới ra đời có sự tác động trở lại tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển. Cụ thể là: Cách mạng Việt Nam đã bước qua trang sử mới. Nhà nước riêng của chúng ta được hình thành, có chủ quyền quốc gia, chúng ta có thể danh chính ngôn thuận tuyên bố với thế giới về chủ quyền dân tộc, đấu tranh chính diện với các thế lực thù địch trên cả 3 mặt trận là quân sự, chính trị, ngoại giao. Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một quy mô, trình độ mới, yêu cầu một sự phát triển cao hơn về mọi mặt. Điều này chính là sự thúc đẩy lượng mới biến đổi và phát triển. Để dẫn đến kết quả cuối cùng là chúng ta đã hoàn toàn thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống hai cường quốc lớn mạnh hàng đầu thế giới là thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, giành độc lập và thống nhất đất nước năm 1975.
        Tuy nhiên trong quá trình này cũng có xuất hiện những tư tưởng nôn nóng tả khuynh, lượng chưa tích đủ, chưa đến điểm nút thích hợp mà đã thực hiện bước nhảy, như phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh, thời cơ và sự chuẩn bị chưa chu đáo, dẫn đến chính quyền chỉ dành được ở phạm vi hẹp, nhanh chóng bị đàn áp, gây tổn thất nặng nề cho cách mạng, cũng giống như các cuộc khởi nghĩa thời trước đó cũng thế ( khởi nghĩ Hương Khê, Yên Thế, Bãi Sậy…). Mặt khác lại có những tư tưởng bảo thủ chỉ quan tâm đến quá trình tích lũy về lượng mà không biết đến sự biến đổi về chất dẫn đến đánh mất thời cơ tốt để thực hiện bược nhảy mà tất yếu phải có. Đó chính là sự mẫu thuẫn cơ bản của mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
      Tóm lại qua ví dụ trên cho ta thấy rõ ràng mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. Trong cả quá trình nêu trên, Đảng ta, dưới sự lãnh đạo của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại đã đánh giá đúng sự thống nhất của hai mặt lượng và chất và tầm quan trọng ngang nhau của hai yếu tố đó để vận dụng vào trong quá trình tổng khởi nghĩa dành chính quyền, nên đã giành được thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh đó nhờ hiểu được mặt đối lập của mối quan hệ để vận dụng khắc phục được những khó khăn, làm cho thắng lợi diễn ra nhanh hơn và giảm thiểu được nhiều xương máu nhất.

KẾT THÚC
     Qua bài viết này chúng ta thấy rõ được mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. Mối quan hệ này hiện hữu rất nhiều trong các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tu duy. Hiểu được quy luật biến đổi này là chúng ta đã hiểu được một trong những phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động của sự vật hiện tượng xung quanh ta và dễ dàng áp dụng nó vào cuộc sống của mình để có được những kết quả như mong muốn.

Chi tiết...

Lý luận tiền công của C.Mác và sự vận dụng lý luận này trong cải cách chính sách tiền công ( tiền lương ) ở Việt Nam hiện nay

Lý luận tiền công của C.Mác và sự vận dụng lý luận này trong cải cách chính sách tiền công ( tiền lương ) ở Việt Nam hiện nay
MỞ ĐẦU
Tiền lương là một trong những vấn đề căn bản và quan trọng trong kinh tế học. Theo đó, chính sách tiền lương là mối quan tâm rất lớn của Chính phủ của bất kỳ quốc gia nào. Chính sách tiền lương sẽ có những tác động rất lớn đến tăng trưởng, phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Có tầm quan trọng như thế nhưng ở Việt Nam, chế độ tiền lương hiện hành đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cấp. Quan tâm đến đời sống công nhân, để tìm hiểu rõ bản chất của các nhà tư bản C. Mác đã tìm ra chân lý và bản chất của tiền công, qua đó vận dụng chân lý của người vào thực tiễn để có các giải pháp cải cách tiền công cho công nhân. Để tìm hiểu sâu vào vấn đề này em xin chọn đề tài 01: “ Lý luận tiền công của C.Mác và sự vận dụng lý luận này trong cải cách chính sách tiền công ( tiền lương ) ở Việt Nam hiện nay”. Bài làm chắc chắc sẽ không tránh khỏi sai sót mong, thầy cô góp ý và sữa đổi đề bài tập của em thêm hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG
I.                  LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ TIỀN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1.     Hàng hóa sức lao động
a.     Sức lao động và hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
Đầu tiên chúng ta cần hiểu sức lao động là gì? Sức lao động là toàn bộ những năng lực ( thể lực và trí lực ) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất.
Có hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
Thứ nhất, người lao động phải là người tự do về thân thể, có khả năng chi phối sức lao động ấy và chỉ bán lao động đó trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, để tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sinh sống.
b.     Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tinh là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị của hàng hóa sức lao động: Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta. Giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử . Nó được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả sức lao động hay còn gọi là tiền công. Giá trị hàng hóa  sức lao động có xu hướng tăng do sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu về lao động phức tạp tăng, nhu cầu tư liệu sinh hoạt tăng theo đà tiến bộ của lực lượng sản xuất. Xu hướng giảm giá trị hàng hóa sức lao động do năng suất lao động tăng nên giá cả các tư liệu sinh hoạt, dịch vụ giảm.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động: Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện ở quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân để sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ nào đó. Quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với quá trình tiêu dùng hàng hóa thông thường vì với hàng hóa thông thường thì sau quá trình sử dụng cả giá trị  và giá trị sử dụng điều mất đi. Trái lại quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất  ra một loại hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình sáng tạo ra giá trị mới, tức là có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là đặc điểm riêng chỉ có ở hàng hóa sức lao động.
2.     Tiền công trong chủ nghĩa tư bản
a.     Bản chất kinh tế của tiền công
Bản chất của tiền công: Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, nó chính là giá cả của hàng hóa sức lao động.
Tiền công không phải là giá cả của lao động bởi vì: Thứ nhất, nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản. Thứ hai, tiền công được trả theo thời gian lao động ( giờ, ngày, tuần, tháng), hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được. Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động mà là sức lao động . Tiền công không phải là giá cả hay giá trị của lao động, mà chỉ là giá cả hay giá trị của hàng hóa sức lao động.
b.     Hai hình thức trả công
Có hai hình thức trả tiền công:
Tiền công tính theo thời gian:là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tùy theo thời gian lao động của người lao động. Muốn đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cương độ lao động. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.
Tiền công tính theo sản phẩm: là hình thức tiền công mà số lượng của nó phù thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số công việc đã hoàn thành.
Về thực chất, tiền công tính theo sản phẩm là hình thức biến tướng của tiền công tính theo thời gian.
c.      Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
 Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.
Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa.
Các loại tiền công luôn luôn vận động và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tiền công danh nghĩa có thể tăng lên hay giảm xuống tùy theo sự biến động trong quan hệ cung-cầu về hàng hóa sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả của tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống và ngược lại. Mác đã vạch ra xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy.

II.               CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN CÔNG ( TIỀN LƯƠNG) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.     Thực trạng cải cách chính sách tiền công ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân.
Trong các thời kỳ phát triển đất nước, Việt Nam đã nhiều lần cải cách chính sách tiền công hay còn gọi là tiền lương để phù hợp với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập. Dù đã đạt được một số thành công nhất định, song vẫn còn rất nhiều hạn chế, nhất là cơ chế tạo nguồn chưa được tháo gỡ dẫn đến việc cải cánh tiền lương bị rơi vào vòng luẩn quẩn.
·        Một số kết quả đạt được
-         Quan điểm, chủ trương về chính sách cải cách tiền lương của Đảng ta từ năm 2003 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt việc xác định vị trí việc làm sẽ là cơ sở và căn cứ để tính toán được biên chế công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng quản lý trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Chính sách tiền công đều đã được cải thiện( đều cao hơn các năm trước) ở mức lương tối thiểu của các doanh nghiệp, các vùng, của Cơ quan nhà nước... vd đối với doanh nghiệp nhà nước đưa ra những nguyên tắc chung xây dựng thang lương, bảng lương, quy định mức lương của lao động đã qua đào tạo cao hơn 7% mức lương tối thiểu vùng, không phân biệt trình độ đào tạo...
-         Tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành chính nhà nước (HCNN) và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công; Chú ý gắn cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) với cải cách hành chính và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế khu vực HCNN. Tếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp lương, trả lương gắn với chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần xã hội hóa. Đây cũng là định hướng rất quan trọng trong cải cách và trong cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương.
-          Tiền lương danh nghĩa có xu hướng tăng do nhiều lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở bù trượt giá và tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa, từng bước tiền tệ hóa các khoản ngoài lương nhằm khắc phục bình quân, bao cấp và ổn định đời sống của công nhân. Theo Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung cho người lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 8 lần từ 210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 1/5/2012, mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn đồng/tháng.  Và đến này 27/06/ 2013 tăng lên 1.150.000 nghìn đồng/ tháng.
Theo Vụ Tiền lương, sẽ cố gắng đến năm 2018 điều chỉnh lương tối thiểu của công chức đảm bảo nhu cầu tối thiểu - khoảng 3 triệu đồng/tháng và phụ cấp công vụ khoảng 30%. Tuy nhiên, theo PGS., TS.Trần Văn Thiện, mặc dù đã qua 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng nếu tính tới chỉ số lạm phát và giá cả tiêu dùng thì lương tối thiểu thực tế chỉ tăng hơn 0,05 lần. Tính ra, trung bình mỗi năm lương tối thiểu thực tế chỉ tăng 0,64%.
·        Hạn chế trong cải cánh chính sách tiền công những năm gần đây và nguyên nhân
Tuy đạt được một số kết quả tuy nhiên  cải cánh tiền công ở nước ta còn gặp nhiều hạn chế như:
-         Duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp đối. Các lần cải cách vừa qua luôn bị chi phối tuyệt đối bởi khả năng của ngân sách nhà nước (NSNN)  nên đã thực hiện một chính sách tiền lương quá thấp đối với công nhân và gắn chặt với tiền lương tối thiểu chung vốn rất thấp (chỉ đáp ứng 65% - 70% nhu cầu mức sống tối thiểu của người lao động).. Theo kết quả điều tra  lương tối thiểu trong khu vực nhà nước mới đáp ứng  được khoảng 37,5% nhu cầu sống tối thiểu, mức lương tại các khu vực doanh ghiệp cũng chỉ đạt 75%  nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Nếu lấy gốc so sánh là năm 2002, từ năm 2003 đến năm 2007, tiền lương thực tế sau 5 năm tăng 46%(theo chỉ số giá chung) hoặc 23,7%( nếu tính theo giá lương thực, thực phâm) và sau 9 năm là tăng 59,9%. Mức điều chỉnh tiền lưng thực tế bình quân hàng năm từ 2003 đến 2011 chỉ bằng ½ đến ¼ mức điều chỉnh  bình quân hàng năm từ 1993 đến 2002, trong khi tổng quỹ lương và trợ cấp mỗi năm bình quân tăng gấp 2 lần.
-         Tiền lương trả cho CBCCVC được quy định bằng hệ số được tính trên cơ sở tiền lương tối thiểu chung, thang lương cứng nhắc, lỗi thời và xã rời thực tế; tiền lương chưa được trả đúng với vị trí làm việc, chức danh và hiệu quả công tác, chất lượng cung cấp dịch vụ công. Theo Bộ Nội vụ, giai đoạn 2016-2020 thực hiện mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa từ mức 1 - 2,34 - 10 hiện nay lên mức 1 - 3,2 - 15.
-         Mức lương tối thiểu chung và mức lương tối thiểu vùng hiện nay chưa phù hợp với cơ chế thị trường, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng không kịp so với mức tăng của giá cả sinh hoạt hàng ngày và mức tăng trưởng kinh tế, do đó tiền lương thực tế của CBCCVC, người lao động có phần giảm sút và không đảm bảo trang trải cho các nhu cầu thiết yếu của bản thân, chưa kể đến gia đình của họ, nhất là trong tình trạng lạm phát tăng cao. Theo nghị định 122/2015 của Chính phủ , có hiệu lực 1/1/2016 mức lương tối thiểu của vùng cao nhất là 3.500.000 đồng/tháng và vùng thấp nhất là 2.400.000đồng/tháng không đáp ứng đủ nhu cầu hiện nay của người lao động.
-         Hệ thống thang lương, bảng lương chưa phát huy được tác dụng khuyến khích người lao động trong sáng tạo, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hệ số lương khởi điểm các ngạch có trình độ đại học (2,34); ngạch nhân viên văn thư (1,35), nhân viên phục vụ (1,0) là quá thấp; một số thang bảng lương còn bất cập, một số chế độ phụ cấp chưa phù hợp.
Chính sách tiền lương dù đã “cải cách” vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài năng và cống hiến. Tiền lương thấp không kích thích được CBCCVC gắn bó với Nhà nước, không thu hút được nhân tài; ngược lại, người làm việc giỏi, người có tài bỏ khu vực nhà nước ra làm việc cho khu vực ngoài nhà nước, nơi có tiền lương và thu nhập cao, có xu hướng tăng...
2.     Nguyên nhân của thực trạng cải cách tiền lương ở Việt Nam
Nói chung là có cải cách, có nâng tiền công lên theo thời gian, theo lộ trình... nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế là do: quá trình cải cách vẫn chậm, chưa kịp thời với sự biến động của giá cả hàng hoá tiêu dùng, chưa đồng bộ với các giải pháp khác, duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ công) còn chậm và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó khăn cho cải cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho CBCCVC, các lần cải cách luôn bị chi phối bởi khả năng của ngân sách nhà nước... khiến cho tiền công thực tế của người lao động thấp, đời sống khó khăn.
3.     Một số phương hướng cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả cải cách chính sách tiền công ở nước ta hiện nay.
Chính sách tiền lương có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội và có tác động lớn đến hệ thống chính sách kinh tế-xã hội của các nước trên tầm vĩ mô, tác động lớn đến rất nhiều người lao động hưởng lương. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã không ngừng quan tâm cải cách, sửa đổi bổ sung nhiều lần góp phần cải thiện đời sống người lao động hưởng lương, thúc đẩy người lao động, sáng tạo, hăng say sản xuất. Tuy nhiên tính đến nay, mức lương tối thiểu chung còn thấp, cơ chế áp dụng tuền lương tối thiểu chung còn thấp, cơ chế áp dụng tiền lương tối thiểu giữa các đối tượng hưởng lương khác nhau còn chưa phù hợp với thể chế cơ chế thị trường. Do đó, vấn dụng quan điểm của Mác em xin đưa ra một số giải pháp cải cánh tiền công ở Việt Nam ta như sau:
Cải cách tiền công, trả lương theo thời gian làm việc của CBCCVC và người lao động. Muốn đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Theo đó, cần tiếp tục mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu-trung bình-tối đa nhằm khắc phục hiện tượng bình quân trong chi trả lương, động viên khuyến khích người có tài, có trình độ yên tâm công tác trong khu vực công nói chung, đặc biệt là khắc phục  triệt để tính bình quân, cào bằng trong chi trả lương hiện nay, phát huy khả năng, trí tuệ của mọi người trong sản xuất.
Cải cách tiền công, trả lương  theo sản phẩm đạt được  cần có các quy định rõ ràng về vấn đề này, “ làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít” tránh tình trạng “ làm nhiều, làm ít cũng hưởng lương như nhau” dẫn đến tiền lương chưa phù hợp với mức độ cống hiến, chưa phản ánh đúng năng lực, kết quả lao động. Gắn cải cách tiền tiền lương với cải cách hành chính. Việc này cũng đồng nghĩa với việc tiền công sẽ được trả theo chức vụ, chức danh nghiệp vụ chuyên môn, công tác. Hệ số lương khởi điểm các gạch cần nâng cao hơn phù hợp với lượng sản phâm, công việc của họ làm ra và đạt được trong công việc.
Cải cách tiền công theo thực tế mức lương tối thiểu hiện nay chưa phù hợp với cơ chế thị trường, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng không kịp so với mức tăng của giá cả sinh hoạt hằng ngày và mức tăng trưởng kinh tế. Do đó, thay bằng tăng tiền lương theo thời kỳ dài ta tăng theo thời gian, theo sự tăng lên hay giảm xuống của  giá cả sinh hoạt hằng ngày và theo mức tăng trưởng của nền kinh tế theo thời gian. Khuyến khích các cơ quan nhà nước, doang nghiệp trả lương cho người lao động cao hơn mức lương tối thiểu vùng, trả lương theo hình thức khen thưởng và khuyến khích. Nhà nước chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản và hãy giao quyền tự chủ cho người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp tự xây dựng thang lương, bảng lương , tiền lương làm thêm giờ, tiền thưởng ..và phụ cấp lương tự chủ trong việc trả lương trên thực tế, trả lương phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất, tổ chức lao động của từng doanh nghiệp và phải đăng ký thang lương, bảng lương với cơ quan quản lý lao động địa phương và làm cơ sở đóng, hưởng chế độ BHXH và thực hiện các quyền lợi khác của người lao động theo quy định của pháp luật.
Cải cách tiền công trên danh nghĩa:  nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tiền lương theo cơ chế thị trường đảm bảo tiền lương được trả đúng cho người lao động theo cơ chế thị trường, theo sức lao động công nhân đã bán đi. Cần có quan điểm đầu tư vào tiền lương là đầu tư cho phát triển, từ đó điểu chỉnh mạnh chi tiêu công, cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước; trong đó, tăng huy động các nguồn ngoài ngân sách nhà nước như vốn đầu tư của doanh nghiệp,trong nhân dân... cho đầu tư toàn xã hội, dành nguồn cho trả tiền lương cho công chức, viên chức đảm bảo cho họ có mức tiền lương bình quân trên trung bình của lao động khu vực thị trường.
KẾT LUẬN
Tiền lương là giá cả của lao động và phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, và ngày càng góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng sống của người lao động.  Tuy nhiên, với tư cách yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh, được phân phối theo kết quả đầu ra, tiền lương phụ thuộc vào năng suất cá nhân, hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp và mức sống chung của đất nước. Cho nên, chính sách tiền công phải được đạt trong tổng thể chính sách phân phối và tái phân phối, bảo đảm công bằng xã hội, việc làm và gắn với vị trí lao động cụ thể, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động trên thị trường và có sự quản lý của Nhà nước. Hy vọng trong tương lai Nhà nước ta se đưa ra các chính sách tiền lương phù hợp để nâng cao chất lượng cho đời sống của người lao động.
Chi tiết...