Lý luận tiền công của C.Mác và sự vận dụng lý luận này trong cải cách chính sách tiền công ( tiền lương ) ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU
Tiền lương là một trong những vấn đề căn bản và quan trọng trong kinh tế học. Theo đó, chính sách tiền lương là mối quan tâm rất lớn của Chính phủ của bất kỳ quốc gia nào. Chính sách tiền lương sẽ có những tác động rất lớn đến tăng trưởng, phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Có tầm quan trọng như thế nhưng ở Việt Nam, chế độ tiền lương hiện hành đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cấp. Quan tâm đến đời sống công nhân, để tìm hiểu rõ bản chất của các nhà tư bản C. Mác đã tìm ra chân lý và bản chất của tiền công, qua đó vận dụng chân lý của người vào thực tiễn để có các giải pháp cải cách tiền công cho công nhân. Để tìm hiểu sâu vào vấn đề này em xin chọn đề tài 01: “ Lý luận tiền công của C.Mác và sự vận dụng lý luận này trong cải cách chính sách tiền công ( tiền lương ) ở Việt Nam hiện nay”. Bài làm chắc chắc sẽ không tránh khỏi sai sót mong, thầy cô góp ý và sữa đổi đề bài tập của em thêm hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG
I.                  LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ TIỀN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1.     Hàng hóa sức lao động
a.     Sức lao động và hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
Đầu tiên chúng ta cần hiểu sức lao động là gì? Sức lao động là toàn bộ những năng lực ( thể lực và trí lực ) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất.
Có hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
Thứ nhất, người lao động phải là người tự do về thân thể, có khả năng chi phối sức lao động ấy và chỉ bán lao động đó trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, để tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sinh sống.
b.     Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tinh là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị của hàng hóa sức lao động: Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta. Giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử . Nó được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả sức lao động hay còn gọi là tiền công. Giá trị hàng hóa  sức lao động có xu hướng tăng do sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu về lao động phức tạp tăng, nhu cầu tư liệu sinh hoạt tăng theo đà tiến bộ của lực lượng sản xuất. Xu hướng giảm giá trị hàng hóa sức lao động do năng suất lao động tăng nên giá cả các tư liệu sinh hoạt, dịch vụ giảm.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động: Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện ở quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân để sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ nào đó. Quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với quá trình tiêu dùng hàng hóa thông thường vì với hàng hóa thông thường thì sau quá trình sử dụng cả giá trị  và giá trị sử dụng điều mất đi. Trái lại quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất  ra một loại hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình sáng tạo ra giá trị mới, tức là có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là đặc điểm riêng chỉ có ở hàng hóa sức lao động.
2.     Tiền công trong chủ nghĩa tư bản
a.     Bản chất kinh tế của tiền công
Bản chất của tiền công: Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, nó chính là giá cả của hàng hóa sức lao động.
Tiền công không phải là giá cả của lao động bởi vì: Thứ nhất, nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản. Thứ hai, tiền công được trả theo thời gian lao động ( giờ, ngày, tuần, tháng), hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được. Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động mà là sức lao động . Tiền công không phải là giá cả hay giá trị của lao động, mà chỉ là giá cả hay giá trị của hàng hóa sức lao động.
b.     Hai hình thức trả công
Có hai hình thức trả tiền công:
Tiền công tính theo thời gian:là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tùy theo thời gian lao động của người lao động. Muốn đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cương độ lao động. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.
Tiền công tính theo sản phẩm: là hình thức tiền công mà số lượng của nó phù thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số công việc đã hoàn thành.
Về thực chất, tiền công tính theo sản phẩm là hình thức biến tướng của tiền công tính theo thời gian.
c.      Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
 Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.
Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa.
Các loại tiền công luôn luôn vận động và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tiền công danh nghĩa có thể tăng lên hay giảm xuống tùy theo sự biến động trong quan hệ cung-cầu về hàng hóa sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả của tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống và ngược lại. Mác đã vạch ra xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy.

II.               CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN CÔNG ( TIỀN LƯƠNG) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.     Thực trạng cải cách chính sách tiền công ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân.
Trong các thời kỳ phát triển đất nước, Việt Nam đã nhiều lần cải cách chính sách tiền công hay còn gọi là tiền lương để phù hợp với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập. Dù đã đạt được một số thành công nhất định, song vẫn còn rất nhiều hạn chế, nhất là cơ chế tạo nguồn chưa được tháo gỡ dẫn đến việc cải cánh tiền lương bị rơi vào vòng luẩn quẩn.
·        Một số kết quả đạt được
-         Quan điểm, chủ trương về chính sách cải cách tiền lương của Đảng ta từ năm 2003 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt việc xác định vị trí việc làm sẽ là cơ sở và căn cứ để tính toán được biên chế công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng quản lý trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Chính sách tiền công đều đã được cải thiện( đều cao hơn các năm trước) ở mức lương tối thiểu của các doanh nghiệp, các vùng, của Cơ quan nhà nước... vd đối với doanh nghiệp nhà nước đưa ra những nguyên tắc chung xây dựng thang lương, bảng lương, quy định mức lương của lao động đã qua đào tạo cao hơn 7% mức lương tối thiểu vùng, không phân biệt trình độ đào tạo...
-         Tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành chính nhà nước (HCNN) và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công; Chú ý gắn cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) với cải cách hành chính và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế khu vực HCNN. Tếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp lương, trả lương gắn với chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần xã hội hóa. Đây cũng là định hướng rất quan trọng trong cải cách và trong cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương.
-          Tiền lương danh nghĩa có xu hướng tăng do nhiều lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở bù trượt giá và tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa, từng bước tiền tệ hóa các khoản ngoài lương nhằm khắc phục bình quân, bao cấp và ổn định đời sống của công nhân. Theo Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung cho người lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 8 lần từ 210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 1/5/2012, mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn đồng/tháng.  Và đến này 27/06/ 2013 tăng lên 1.150.000 nghìn đồng/ tháng.
Theo Vụ Tiền lương, sẽ cố gắng đến năm 2018 điều chỉnh lương tối thiểu của công chức đảm bảo nhu cầu tối thiểu - khoảng 3 triệu đồng/tháng và phụ cấp công vụ khoảng 30%. Tuy nhiên, theo PGS., TS.Trần Văn Thiện, mặc dù đã qua 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng nếu tính tới chỉ số lạm phát và giá cả tiêu dùng thì lương tối thiểu thực tế chỉ tăng hơn 0,05 lần. Tính ra, trung bình mỗi năm lương tối thiểu thực tế chỉ tăng 0,64%.
·        Hạn chế trong cải cánh chính sách tiền công những năm gần đây và nguyên nhân
Tuy đạt được một số kết quả tuy nhiên  cải cánh tiền công ở nước ta còn gặp nhiều hạn chế như:
-         Duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp đối. Các lần cải cách vừa qua luôn bị chi phối tuyệt đối bởi khả năng của ngân sách nhà nước (NSNN)  nên đã thực hiện một chính sách tiền lương quá thấp đối với công nhân và gắn chặt với tiền lương tối thiểu chung vốn rất thấp (chỉ đáp ứng 65% - 70% nhu cầu mức sống tối thiểu của người lao động).. Theo kết quả điều tra  lương tối thiểu trong khu vực nhà nước mới đáp ứng  được khoảng 37,5% nhu cầu sống tối thiểu, mức lương tại các khu vực doanh ghiệp cũng chỉ đạt 75%  nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Nếu lấy gốc so sánh là năm 2002, từ năm 2003 đến năm 2007, tiền lương thực tế sau 5 năm tăng 46%(theo chỉ số giá chung) hoặc 23,7%( nếu tính theo giá lương thực, thực phâm) và sau 9 năm là tăng 59,9%. Mức điều chỉnh tiền lưng thực tế bình quân hàng năm từ 2003 đến 2011 chỉ bằng ½ đến ¼ mức điều chỉnh  bình quân hàng năm từ 1993 đến 2002, trong khi tổng quỹ lương và trợ cấp mỗi năm bình quân tăng gấp 2 lần.
-         Tiền lương trả cho CBCCVC được quy định bằng hệ số được tính trên cơ sở tiền lương tối thiểu chung, thang lương cứng nhắc, lỗi thời và xã rời thực tế; tiền lương chưa được trả đúng với vị trí làm việc, chức danh và hiệu quả công tác, chất lượng cung cấp dịch vụ công. Theo Bộ Nội vụ, giai đoạn 2016-2020 thực hiện mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa từ mức 1 - 2,34 - 10 hiện nay lên mức 1 - 3,2 - 15.
-         Mức lương tối thiểu chung và mức lương tối thiểu vùng hiện nay chưa phù hợp với cơ chế thị trường, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng không kịp so với mức tăng của giá cả sinh hoạt hàng ngày và mức tăng trưởng kinh tế, do đó tiền lương thực tế của CBCCVC, người lao động có phần giảm sút và không đảm bảo trang trải cho các nhu cầu thiết yếu của bản thân, chưa kể đến gia đình của họ, nhất là trong tình trạng lạm phát tăng cao. Theo nghị định 122/2015 của Chính phủ , có hiệu lực 1/1/2016 mức lương tối thiểu của vùng cao nhất là 3.500.000 đồng/tháng và vùng thấp nhất là 2.400.000đồng/tháng không đáp ứng đủ nhu cầu hiện nay của người lao động.
-         Hệ thống thang lương, bảng lương chưa phát huy được tác dụng khuyến khích người lao động trong sáng tạo, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hệ số lương khởi điểm các ngạch có trình độ đại học (2,34); ngạch nhân viên văn thư (1,35), nhân viên phục vụ (1,0) là quá thấp; một số thang bảng lương còn bất cập, một số chế độ phụ cấp chưa phù hợp.
Chính sách tiền lương dù đã “cải cách” vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài năng và cống hiến. Tiền lương thấp không kích thích được CBCCVC gắn bó với Nhà nước, không thu hút được nhân tài; ngược lại, người làm việc giỏi, người có tài bỏ khu vực nhà nước ra làm việc cho khu vực ngoài nhà nước, nơi có tiền lương và thu nhập cao, có xu hướng tăng...
2.     Nguyên nhân của thực trạng cải cách tiền lương ở Việt Nam
Nói chung là có cải cách, có nâng tiền công lên theo thời gian, theo lộ trình... nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế là do: quá trình cải cách vẫn chậm, chưa kịp thời với sự biến động của giá cả hàng hoá tiêu dùng, chưa đồng bộ với các giải pháp khác, duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ công) còn chậm và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó khăn cho cải cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho CBCCVC, các lần cải cách luôn bị chi phối bởi khả năng của ngân sách nhà nước... khiến cho tiền công thực tế của người lao động thấp, đời sống khó khăn.
3.     Một số phương hướng cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả cải cách chính sách tiền công ở nước ta hiện nay.
Chính sách tiền lương có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội và có tác động lớn đến hệ thống chính sách kinh tế-xã hội của các nước trên tầm vĩ mô, tác động lớn đến rất nhiều người lao động hưởng lương. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã không ngừng quan tâm cải cách, sửa đổi bổ sung nhiều lần góp phần cải thiện đời sống người lao động hưởng lương, thúc đẩy người lao động, sáng tạo, hăng say sản xuất. Tuy nhiên tính đến nay, mức lương tối thiểu chung còn thấp, cơ chế áp dụng tuền lương tối thiểu chung còn thấp, cơ chế áp dụng tiền lương tối thiểu giữa các đối tượng hưởng lương khác nhau còn chưa phù hợp với thể chế cơ chế thị trường. Do đó, vấn dụng quan điểm của Mác em xin đưa ra một số giải pháp cải cánh tiền công ở Việt Nam ta như sau:
Cải cách tiền công, trả lương theo thời gian làm việc của CBCCVC và người lao động. Muốn đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Theo đó, cần tiếp tục mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu-trung bình-tối đa nhằm khắc phục hiện tượng bình quân trong chi trả lương, động viên khuyến khích người có tài, có trình độ yên tâm công tác trong khu vực công nói chung, đặc biệt là khắc phục  triệt để tính bình quân, cào bằng trong chi trả lương hiện nay, phát huy khả năng, trí tuệ của mọi người trong sản xuất.
Cải cách tiền công, trả lương  theo sản phẩm đạt được  cần có các quy định rõ ràng về vấn đề này, “ làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít” tránh tình trạng “ làm nhiều, làm ít cũng hưởng lương như nhau” dẫn đến tiền lương chưa phù hợp với mức độ cống hiến, chưa phản ánh đúng năng lực, kết quả lao động. Gắn cải cách tiền tiền lương với cải cách hành chính. Việc này cũng đồng nghĩa với việc tiền công sẽ được trả theo chức vụ, chức danh nghiệp vụ chuyên môn, công tác. Hệ số lương khởi điểm các gạch cần nâng cao hơn phù hợp với lượng sản phâm, công việc của họ làm ra và đạt được trong công việc.
Cải cách tiền công theo thực tế mức lương tối thiểu hiện nay chưa phù hợp với cơ chế thị trường, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng không kịp so với mức tăng của giá cả sinh hoạt hằng ngày và mức tăng trưởng kinh tế. Do đó, thay bằng tăng tiền lương theo thời kỳ dài ta tăng theo thời gian, theo sự tăng lên hay giảm xuống của  giá cả sinh hoạt hằng ngày và theo mức tăng trưởng của nền kinh tế theo thời gian. Khuyến khích các cơ quan nhà nước, doang nghiệp trả lương cho người lao động cao hơn mức lương tối thiểu vùng, trả lương theo hình thức khen thưởng và khuyến khích. Nhà nước chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản và hãy giao quyền tự chủ cho người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp tự xây dựng thang lương, bảng lương , tiền lương làm thêm giờ, tiền thưởng ..và phụ cấp lương tự chủ trong việc trả lương trên thực tế, trả lương phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất, tổ chức lao động của từng doanh nghiệp và phải đăng ký thang lương, bảng lương với cơ quan quản lý lao động địa phương và làm cơ sở đóng, hưởng chế độ BHXH và thực hiện các quyền lợi khác của người lao động theo quy định của pháp luật.
Cải cách tiền công trên danh nghĩa:  nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tiền lương theo cơ chế thị trường đảm bảo tiền lương được trả đúng cho người lao động theo cơ chế thị trường, theo sức lao động công nhân đã bán đi. Cần có quan điểm đầu tư vào tiền lương là đầu tư cho phát triển, từ đó điểu chỉnh mạnh chi tiêu công, cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước; trong đó, tăng huy động các nguồn ngoài ngân sách nhà nước như vốn đầu tư của doanh nghiệp,trong nhân dân... cho đầu tư toàn xã hội, dành nguồn cho trả tiền lương cho công chức, viên chức đảm bảo cho họ có mức tiền lương bình quân trên trung bình của lao động khu vực thị trường.
KẾT LUẬN
Tiền lương là giá cả của lao động và phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, và ngày càng góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng sống của người lao động.  Tuy nhiên, với tư cách yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh, được phân phối theo kết quả đầu ra, tiền lương phụ thuộc vào năng suất cá nhân, hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp và mức sống chung của đất nước. Cho nên, chính sách tiền công phải được đạt trong tổng thể chính sách phân phối và tái phân phối, bảo đảm công bằng xã hội, việc làm và gắn với vị trí lao động cụ thể, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động trên thị trường và có sự quản lý của Nhà nước. Hy vọng trong tương lai Nhà nước ta se đưa ra các chính sách tiền lương phù hợp để nâng cao chất lượng cho đời sống của người lao động.

Related Post

Previous
Next Post »

1 nhận xét:

Write nhận xét