BTHK Dân sự 2: Xây dựng một tình huống về thực hiện nghĩa vụ liên đới


Quan hệ nghĩa vụ dân sự liên đới là một quan hệ nghĩa vụ dân sự tương đối phức tạp được Luật dân sự điều chỉnh. Để quyền dân sự của các chủ thể được bảo đảm, trong một số trường hợp nghĩa vụ nhiều người sẽ được xác định là nghĩa vụ dân sự liên đới  nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Để tìm hiểu rõ hơn về nghĩa vụ dân sự liên đới em xin chọn đề 1: Xây dựng một tình huống về thực hiện nghĩa vụ liên đới, qua đó phân tích một số nội dung liên quan đến nghĩa vụ này. 

Tình huống:
 Ngày 8/5/2016  anh A có giao kết hợp đồng vay tiền với anh B, số tiền vay là 500triệu đồng, thời hạn vay 3 tháng và lãi suất 1%/tháng. Trong hợp đồng ghi rõ anh trai và chị gái A là C và D là những người liên đới đứng ra bảo lãnh cho A.  Anh D và chị C  cam kết với anh B về việc thực hiện thay nghĩa vụ của A nếu khi đến thời hạn mà anh A không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình. Việc bảo lãnh của D và C với A được lập thành một văn bản, có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.
Anh A đã dùng số tiền số tiền vay của B vào việc kinh doanh nhưng bị thua lỗ, sau 3 tháng A đã không trả được khoản gốc và lãi nào cho B. Nhận thấy anh D là người có năng lực tài chính để thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh liên đới căn cứ vào hợp đồng B  đã yêu cầu anh D  trong 3 tháng phải dùng tài sản của mình thay A thực hiện toàn bộ nghĩa vụ vay tiền. Trong vòng 3 tháng anh D đã dùng số tiền của mình thực hiện nghĩa vụ vay tiền cho A đối với B. Sau đó anh D cần tiền gấp đã yêu cầu C trả lại cho mình 50% số tiền cho việc trước đó D thay C đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới giữa D và C cho B. Tuy nhiên C không trả tiền cho D vì cho rằng người phải trả cho D là A. 

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ LIÊN ĐỚI

1.Khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ liên đới

            a.  Khái niệm

Về khái niệm nghĩa vụ dân sự liên đới Khoản 1 Điều 288 BLDS 2015 quy định “Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.”  Như vậy, trong  một số quan hệ, nghĩa vụ sẽ được xem là nghĩa vụ liên đới nếu thỏa mãn các quy định của pháp luậtvà các đặc điểm đặc trưng của nghĩa vụ liên đới.
b.     Đặc điểm
Nghĩa vụ liên đới có hai đặc điểm chính như sau:
          Thứ nhất, đây là một loại nghĩa vụ nhiều người. Nói đến liên đới là nói đến sự liên quan giữa nhiều chủ thể với nhau. Vì vậy, nghĩa vụ liên đới có thể là nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ bao gồm nhiều người và họ được gọi là những người có nghĩa vụ liên đới, có thể bên có quyền bao gồm nhiều người và họ được gọi là những người có quyền liên đới.
          Thứ hai là có sự liên quan trong việc thực hiện nghĩa vụ giữa những người có nghĩa vụ và sự liên quan trong việc hưởng quyền giữa những người có quyền. Như vậy, bên cạnh việc thực hiện nghĩa vụ theo phần của mình, những người có nghĩa vụ còn phải thực hiện nghĩa vụ  thay phần của người có nghĩa vụ khác nếu họ không có khả năng thực hiện phần nghĩa vụ của họ. Và cũng bên cạnh việc hưởng quyền theo phần của mình thì mỗi người trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ đó trước mình mà không cần có sự ủy quyền của những người có quyền khác.
Khi các quan hệ nghĩa vụ có nhiều người trong một bên chủ thể thì nghĩa vụ đó được xác định là nghĩa vụ liên đới hay không tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên tham gia nghĩa vụ hoặc quy định của pháp luật. Như vậy, nghĩa vụ liên đới được xác định theo một trong hai căn cứ sau đây:
Theo thỏa thuận giữa các bên.  Như vậy nghĩa vụ dân sự liên đới phát sinh nếu trong hợp đồng các bên  đã thỏa thuận nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng này là nghĩa vụ liên đới.
Theo quy định của pháp luật. Theo quy định của BLDS hiện hành thì nghĩa vụ nhiều người được xác định là nghĩa vụ liên đới trong các trường hợp sau:
+ Khi có nhiều người cùng bảo lãnh cho một người mà các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận nào khác. ( Điều 338 BLDS 2015)
+ Chủ sở hữu và người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải liên đới bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nếu  chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. ( Khoản 4 Điều 601 BLDS 2015)
+ Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ và người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải liên đới bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nếu người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. ( Khoản 3 Điều 601 BLDS 2015)
+ Chủ sở hữu tài sản và người thứ ba phải liên đới bồi thường thiệt hại nếu chủ sở hữu tài sản và người thứ ba điều có lỗi trong việc đề tài gây ra thiệt hại cho người khác. ( Điều 587 BLDS 2015).
Hậu quả chính  là sự bất lợi nếu một bên thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của mình. Theo đó hậu quả hay nói cách khác là trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới  được quy định ở các khoản 2, 3, 4 Điều 288 BLDS 2015 như sau:
2. Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình.
3. Trường hợp bên có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng sau đó lại miễn cho người đó thì những người còn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ.
4. Trường hợp bên có quyền chỉ miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho một trong số những người có nghĩa vụ liên đới không phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì những người còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của họ.
Đầu tiên để hiểu được mối quan hệ giữa nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ hoàn lại  ta phải hiểu xem nghĩa vụ hoàn lại là gì. Hiện nay luật thực định không có định nghĩa về nghĩa vụ hoàn lại. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp từ quy định của pháp luật đã làm hình thành một nghĩa vụ mới sau một nghĩa vụ trước đó. Vì vậy, nghĩa vụ hoàn lại có thể được hiểu như sau:  Nghĩa vụ hoàn lại là một quan hệ nghĩa vụ trong đó bên có quyền yêu cầu bên kia ( người có nghĩa vụ) thanh toán lại khoản tiền hoặc lợi ích vật chất khác mà người có quyền đã thay người có nghĩa vụ thực hiện cho người khác hoặc một bên nghĩa vụ phải hoàn trả cho bên có quyền khoản tiền hay một lợi ích vật chất mà họ đã nhận được từ người khác trên cơ sở quyền yêu cầu của bên có quyền.
Như vậy dựa vào đặc điểm đặc trưng của nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ hoàn lại ta có thể thấy rằng :  nghĩa vụ dân sự hoàn lại  có thể được phát sinh từ một nghĩa vụ liên đới và kiểm tra phản ánh việc thực hiện nghĩa vụ liên đới tới đâu và như thế nào trong quan hệ trước đó.

Như đã nêu ra ở trên nghĩa vụ liên đới có thể được phát sinh thông qua sự thỏa thuận của các bên hoặc thông qua quy định của pháp luật. Trong đó có một căn cứ để phát sinh nghĩa vụ liên đới theo pháp luật là “ khi có nhiều người cùng bảo lãnh cho một người mà các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận nào khác”.  Như vậy, khi nhiều người cùng có ý chí thỏa thuận bảo lãnh cho một người hay một nhóm người thì giữa họ sẽ phát sinh một quan hệ nghĩa vụ khi mà bên được bảo lãnh không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh giữa họ sẽ phát sinh nghĩa vụ liên đới với bên nhận bảo lãnh.
     Khái niệm về bảo lãnh  Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 quy định: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Với bản chất là một hợp đồng, bảo lãnh được hình thành trên cơ sở thỏa thuận thống nhất ý chí của: người bảo lãnh, người nhận bảo lãnh và người được bảo lãnh nhằm đạt được mục đích nhất định mà chủ yếu là bảo đảm cho quyền lợi của người nhận bảo lãnh. Từ việc thỏa thuận và thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh, các bên đã xác lập với nhau những quyền và nghĩa vụ pháp lý để đạt được mục đích mà mỗi bên mong muốn.
Trong trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh,  Điều 338 BLDS 2015 quy định: “Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập...”
Trong tình huống trên A có giao kết một hợp đồng vay tiền với anh B là 500 triệu đồng trong vòng 3 tháng với lãi suất 1%/tháng, trong hợp đồng ghi rõ anh trai và chị gái A là D và C là những người liên đới đứng ra bảo lãnh cho A. Như vậy trong quan hệ pháp luật này A là người được bảo lãnh ( A là người có nghĩa vụ), B là người nhận bảo lãnh ( B là người có quyền) ; D và C là bên bảo lãnh ( gọi chung là người thứ ba).  Như vậy, nếu sau 3 tháng anh A không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ với B thì anh D và chị C sẽ là người có trách nhiệm thực hiện thay A, quy định này của pháp luật được hợp đồng vay giữa A và B ghi rõ Anh D và chị C  cam kết với anh B về việc thực hiện thay nghĩa vụ của A nếu khi đến thời hạn mà anh A không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình .  Như vậy việc anh D và chị C cùng nhau thỏa thuận, tự nguyện  và thống nhất ý chí cùng nhau bảo lãnh cho A, thực hiện thay A nghĩa vụ nếu A không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ khi đến hạn vay với B  mà không có sự thỏa thuận nào khác như việc bảo lãnh của C hoặc D chỉ trên danh nghĩa mà không phải chịu nghĩa vụ trả tiền thay  đã hình thành nên một quan hệ nghĩa vụ mà pháp luật gọi là nghĩa vụ liên đới, nghĩa vụ liên đới giữa D và C. Do đó quan hệ bảo lãnh giữa D và C cho A đã là một căn cứ để phát sinh một nghĩa vụ liên đới trong hợp đồng vay tiền giữa A và B. ( Điều 338 BLDS 2015)
Tiếp theo một trong những đặc điểm pháp lý quan trọng của quan hệ bảo lãnh với tính chất là một hợp đồng thì việc bảo lãnh được pháp luật công nhận nó có hiệu lực khi đúng với quy định của pháp luật. Về hình thức bảo lãnh pháp luật hiện hành không quy định “ phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng hà nước hoặc chứng nhận của Ủy ban nhân dân có thẩm quyền, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định” như quy định ở BLDS 2005. Tuy vậy tình huống trên Việc bảo lãnh của D và C với A được lập thành một văn bản, có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyềnđiều này lại là một căn cứ xác thực và chắc chắn hơn cho việc bảo lãnh của D và C là hoàn toàn có căn cứ và đúng theo quy định của pháp luật, sẽ hoàn toàn có hiệu lực pháp luật, tránhtrường hợp bên bảo lãnh từ chối thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh.
Cần chú ý rằng, trong tình huống này việc các bên chủ thể là D và C đã xuất phát từ sự tự nguyện và tự do ý chí của mỗi bên; họ đã tự nguyện và thống nhất  với nhau về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ hợp đồng bảo lãnh nên phù hợp với nguyên tắc tự nguyện khi giao kết hợp đồng.  Nếu trong một trường hợp khác, khi một trong các bên trong hợp đồng bảo lãnh không xuất phát từ lợi ích của chính mình mà bị ép buộc, đe dọa hoặc lừa dối.. thì hợp đồng bảo lãnh đó sẽ bị coi là vô hiệu.
Hậu quả chính là sự bất lợi nếu một bên thực hiện không đúng,  không đầy đủ hoặc vi phạm nghĩa vụ của mình. Như vậy, hậu quả của việc thực hiện nghĩa vụ liên đới nói chung là sự quy định của luật dân sự về hậu quả bất lợi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc bên có nghĩa vụ liên đới có hành vi vi phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp lí nhất định nhằm bảo vệ quyền dân sự bị xâm phạm.Và để giải quyết tình huống trên em sẽ trình bày lần lượt các hậu quả được pháp luật quy định như sau: 
Thứ nhất:Trong tình huống trên “Anh A đã dùng số tiền số tiền vay của B vào việc kinh doanh nhưng bị thua lỗ, sau 3 tháng A đã không trả được khoản gốc và lãi nào cho B”  như vậy khi đến hạn A đã không thực hiện được nghĩa vụ trả tiền của mình cho B do đó lúc này trách nhiệm trả tiền  của bên bảo lãnh cho A là  D và C sẽ được đặt ra.
Điều 342 Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh BLDS 2015 quy định:
1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại.
          Do vậy khi hết thời hạn vay 3 tháng A không thực hiện nghĩa vụ trả tiền  thì lúc này bên bảo lãnh cho A là D và C phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền ( số tiền gốc và lãi ) . Như vậy, trong tình huống này nghĩa vụ chính được chuyển cho bên bảo lãnh, vì vậy buộc bên bảo lãnh tức D và C thực hiện đúng nghĩa vụ của mình như đã cam kết trong hợp đồng ban đầu.  Và như thỏa thuận thì D và C sẽ liên đới cùng nhau thực hiện nghĩa vụ đối với B thay A theo quy định của pháp luật“ Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện..”và theo quy định của  quy định nhiều người cùng bảo lãnh “Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh...” . Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại.
          Thứ hai: Hậu quả (trách nhiệm) của việc thực hiện nghĩa vụ liên đới được pháp luật quy định tại các Khoản 2, 3, 4 Điều 288 BLDS 2015. Với việc bảo lãnh là một căn cứ phát sinh nghĩa vụ liên đới thì việc thực hiện trách nhiệm bảo lãnh liên đới đối với nhiều người cùng bảo lãnh cũng được pháp luật quy định cụ thể tại Điều 338,  Điều 341, Điều 342... BLDS 2015.  Như vậy, về nghĩa vụ liên đới bảo lãnh cũng được pháp luật quy định chi tiết, phù hợp với quy định chung về thực hiện nghĩa vụ liên đới.
           Khoản 2 Điều 288 quy định: Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình.Theo như quy định ta có thể hiểu rằng mặc dù là nghĩa vụ liên đới, chủ thể nào đó đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ những nghĩa vụ của mỗi người trong quan hệ nghĩa vụ đó điều phải được xác định cụ thể. Theo đó, khi một chủ thể đã thực hiện nghĩa vụ thay cho những người khác, họ có quyền yêu cầu những người này phải hoàn trả lại cho mình phần nghĩa vụ mà đáng ra họ phải thực hiện với bên có quyền.
          Trong tình huống trên  B “nhận thấy anh D là người có năng lực tài chính để thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh liên đới căn cứ vào hợp đồng B  đã yêu cầu anh D  trong 3 tháng phải dùng tài sản của mình thay A thực hiện toàn bộ nghĩa vụ vay tiền. Trong vòng 3 tháng anh D đã dùng số tiền của mình thực hiện nghĩa vụ vay tiền cho A đối với B”.  Như vậy  việc anh B  yêu cầu D là người có năng lực  tài chính hơn thực hiện toàn bộ nghĩa vụ nghĩa vụ liên đới giữa D và C là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật “ bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.” ( Điều 338 BLDS 2015)Và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình anh D cũng đã  dùng tiền của mình trả cho anh B toàn bộ nghĩa vụ thay cho A. Đó là một việc làm hoàn toàn đúng như thỏa thuận của hợp đồng vay tiền và hợp đồng bảo lãnh. Như vậy, với việc D đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trả tiền cho B thì hợp đồng vay tiền giữa A và B cũng chấm dứt và nghĩa vụ bảo lãnh của D và C cũng chấm dứt.
Tuy nhiên sau khi D thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh liên đới  do cần tiền gấp D đã yêu cầu C trả lại cho mình 50% số tiền cho việc trước đó D thay C đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới giữa D và C cho B. Tuy nhiên C không trả tiền cho D vì cho rằng người phải trả cho D là A.  Ở đây D yêu cầu C trả cho mình 50% số tiền mà D đã trả cho B là hoàn toàn hợp tình, hợp lý, do cả D và C không có thỏa thuận cụ thể về nghĩa vụ ( ở đây là nghĩa vụ trả tiền ) bảo lãnh cho A nên ta có thể hiểu D và C mỗi người sẽ phải chịu 50%  phần nghĩa vụ  bảo lãnh cho A.  Như vậy việc C không trả tiền theo yêu cầu của D là vi phạm quy định của pháp luật theo Điều 288 và theo Điều 338 “Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.”  Do đó,  nếu C vẫn cố tình không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với D, D có thể kiện C ra tòa để xử lý.
Ta hiểu rằng,  sở dĩ D có quyền yêu cầu C như vậy vì trong hợp đồng đã nêu rõ D và C , cả 2 chủ thể sẽ phải có nghĩa vụ liên đới để bảo lãnh cho A. Tuy nhiên D đã thay C thực hiện nghĩa vụ của C , nên C phải hoàn trả lại D phần nghĩa vụ của mình cho D là hoàn toàn hợp lý. Còn sau đó phần nghĩa vụ của C và D đã thực hiện thay cho A sẽ được A thực hiện nghĩa vụ hoàn trả sau đó là một nghĩa vụ khác so với như C suy nghĩ “ A sẽ có nghĩa vụ trả tiền cho D”.
Thứ ba: Ngoài ra pháp luật còn quy định hai trường hợp được miễn thực hiện nghĩa vụ liên đới trong 2 trường hợp ở khoản 3 và 4 Điều 288 như đã nêu ở phần trên ( mục 3 phần I) . Quy định này cũng hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 341 BLDS 2015 về việc miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp việc bảo lãnh là liên đới.
Như vậy, việc miễn thực hiện nghĩa vụ liên đới cũng được chia thành nhiều trường hợp phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể. Áp dụng vào tình huống trên :
-         Nếu B miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho cả D và C thì  A không phải thực hiện nghĩa vụ đối với B, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. 
-         Nếu  B  chỉ định D (hoặc C)  thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trả tiền của mình thay cho A nhưng sau đó B  lại miễn cho D ( hoặc C) thì nghĩa vụ đối với người còn lại cũng sẽ chấm dứt. Theo đó ta có thể hiểu  việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho A giữa D, C và B cũng chấm dứt.
-         Nếu B chỉ chỉ miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho một trong 2 chủ thể là D và C  không phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì  người còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của họ. Như vậy người còn lại sẽ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho A  trong phạm vi nghĩa vụ của họ.

Theo như đã trình bày ở trên, hiện nay luật thực định không quy định một cách cụ thể khái niệm về nghĩa vụ hoàn lại, tuy nhiên thuật ngữ nghĩa vụ hoàn lại dùng để chỉ những nghĩa vụ phát sinh từ một nghĩa vụ khác và theo cách hiểu chung nhất:  nghĩa vụ hoàn lại được hiểu là một quan hệ nghĩa vụ trong đó bên có quyền yêu cầu bên kia ( người có nghĩa vụ) thanh toán lại khoản tiền hoặc lợi ích vật chất khác mà người có quyền đã thay người có nghĩa vụ thực hiện cho người khác hoặc một bên nghĩa vụ phải hoàn trả cho bên có quyền khoản tiền hay một lợi ích vật chất mà họ đã nhận được từ người khác trên cơ sở quyền yêu cầu của bên có quyền.  Theo cách hiểu trên, nghĩa vụ hoàn lại mang một số đặc điểm  như sau:
Thứ nhất nghĩa vụ hoàn lại là một nghĩa vụ phái sinh, nghĩa vụ hoàn lại bao giờ cũng phát sinh từ một nghĩa vụ cơ bản khác. Nó không phát sinh từ một nghĩa vụ đầu tiên.
Thứ hai, trong nghĩa vụ hoàn lại bao giờ cũng có một người liên quan đến cả hai quan hệ nghĩa vụ. Người đó, nếu là người thực hiện  nghĩa vụ trong quan hệ trước thì trong quan hệ nghĩa vụ hoàn lại họ là người có quyền.
Thứ ba, nếu nghĩa vụ hoàn lại là nghĩa vụ nhiều người, thì theo nguyên tắc, nghĩa vụ đó được xác định là nghĩa vụ riêng rẽ.
Khoản 2 Điều  288 về thực hiện nghĩa vụ liên đới BLDS 2015 quy định “ Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình.” Đây chính là quy định của pháp luật rõ ràng và cụ thể nhất để xác định mối quan hệ nghĩa nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ hoàn lại.
Từ những đặc điểm của nghĩa vụ hoàn lại và nghĩa vụ liên đới ta thấy:  một bên có sự liên quan trong việc liên đới thực hiện nghĩa vụ giữa những người có nghĩa vụ và sự liên quan trong việc liên đới hưởng quyền giữa những người có quyền. Một bên là việc có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ đó trước đó mà mình đã thay họ thực hiện.
Như vậy dựa vào đặc điểm đặc trưng của nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ hoàn lại ta có thể thấy rằng giữa hai quan hệ nghĩa vụ này có mối quan hệ qua lại, gắn bó với nhau.  Nghĩa vụ hoàn lại có thể được phát sinh từ một nghĩa vụ liên đới, đồng thời nghĩa vụ hoàn lại phản ánh việc thực hiện nghĩa vụ liên đới tới đâu và như thế nào trong quan hệ trước đó.
Thông thường, từ một nghĩa vụ dân sự liên đới có thể làm phát sinh nghĩa vụ hoàn lại theo một trong hai trường hợp sau:
+ Khi một trong số những người có nghĩa vụ liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, thì người đó trở thành người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ hoàn lại, có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thanh toán cho mình khoản tiền hoặc  lợi ích vật chất mà người đó đã bỏ ra để thay họ thực hiện cho người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ dân sự liên đới trước đó.
+Khi một trong số những người có quyền liên đới đã  nhận việc thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ, thì người đó trở thành người có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ hoàn trả. Người đã nhận việc thực hiện toàn bộ nghĩa vụ có nghĩa vụ  hoàn trả lại cho mỗi người có quyền liên đới các khoản lợi ích vật chất mà người này đã thay họ  để nhận từ người có nghĩa vụ trong  nghĩa vụ dân sự liên đới trước đó.
Trong tình huống trên D và C là những người có nghĩa vụ liên đới trong  việc hai người đã cùng nhau thống nhất đứng ra bảo lãnh cho A trong hợp đồng vay tiền đối với B, cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho B nếu A không thực hiện được và thực tế là A đã không thực hiện được nên lúc này chính D và C phải cùng nhau liên đới thay A thực hiện nghĩa vụ với B.  Tuy nhiên, do D được sự yêu cầu của B nên đã đứng ra thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ cho B, tức là lúc này đáng lẽ ra nghĩa vụ trả tiền cho B sẽ được thực hiện bởi D và C tuy nhiên D đã thay C thực hiện nghĩa vụ trên.  Như vậy, trong tình huống này D đã là người có nghĩa vụ trong quan hệ trả tiền cho B thì trong quan hệ sau với C, D sẽ là người có quyền và quyền ở đây là yêu cầu C hoàn lại phần nghĩa vụ mà chính D đã thay C thực hiện. Trong nghĩa vụ hoàn lại giữa D và C này nguồn gốc của nó lại xuất phát từ một nghĩa vụ liên đới trước đó giữa D và C, điều này càng chứng minh mối quan hệ phát sinh, qua lại giữa nghĩa vụ hoàn lại và nghĩa vụ liên đới. Và qua đây cũng cho thấy trong quan hệ nghĩa vụ chính bên có nghĩa vụ đã không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình nên mới phát sinh nghĩa vụ liên đới, rồi sau đó bên có nghĩa vụ trong nghĩa vụ liên tới lại tiếp tục không thực hiện đúng trách nhiệm của mình, như vậy là sai với quy định của pháp luật.
          Ngoài ra theo quy định của BLDS 2015, nghĩa vụ hoàn lại còn phát sinh theo quy định tại  Điều 340 về Quyền yêu cầu của bên bảo lãnh: “Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Như vậy là khi bên bảo lãnh thực hiện xong những cam kết trước bên nhận bảo lãnh, thì quan hệ nghĩa vụ chính cũng như việc bảo lãnh được coi là chấm dứt. Khi đó, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi đã bảo lãnh; bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu có thỏa thuận giữa họ và bên được bảo lãnh hoặc pháp luật có quy định. Theo đó trong trường hợp này D đã thay mặt bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay A nên  sẽ phát sinh một nghĩa vụ hoàn lại giữa A và bên bảo lãnh, A phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi bên bảo lãnh đã thực hiện trên nguyên tắc  thỏa thuận và tuân theo quy định của pháp luật.
Là một trong những căn cứ để phát sinh nghĩa vụ liên đới, bảo lãnh là một trong những biện pháp bảo đảm được sử dụng rộng rãi để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ bảo lãnh nhiều người đó còn chịu sự điều chỉnh của nghĩa vụ liên đới. Trong phạm vi bài tập, để tìm hiểu sâu về nghĩa vụ liên đới bảo lãnh trong pháp luật hiện hành có gì mới so với pháp luật cũ sau đây em sẽ đi tìm hiểu điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vấn đề này.
Điều 340 BLDS 2015 quy định rằng  “Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”So với quy định tại Điều 367 BLDS 2005: “Khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, nếu không có thoả thuận khác.”  thì có nhiều tiến bộ hơn rất nhiều,
Với quy định này, bên bảo lãnh có thể yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình ngay cả khi bên bảo lãnh chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh trong phạm vi nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đã thực hiện. Hay nói cách khác, bên bảo lãnh, họ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đến đâu (trong phạm vi bảo lãnh) thì họ có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh phải hoàn trả lại cho họ đến đó. Rõ ràng, thời điểm bên bảo lãnh có quyền yêu cầu theo quy định của BLDS 2015 là sớm hơn so với quy định bên bảo lãnh chỉ được quyền yêu cầu bên được bảo lãnh hoàn trả lại nghĩa vụ mà họ đã thực hiện thay khi họ đã hoàn thành nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh.
Về việc miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh quy định tại Điều 341 BLDS 2015 có quy định hai điểm mới so với Điều 368 BLDS 2005.
Thứ nhất tại Khoản 1 Điều 341 quy định: Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Còn tại khoản 1 Điều 368 quy định trong trường hợp như trên  thì bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác…
Như vậy, với quy định mới này, có thể thấy rằng, nhà làm luật đã hướng đến việc coi nghĩa vụ của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một. Hay nói cách khác, nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đáng ra phải thực hiện và nghĩa vụ đương nhiên của bên được bảo lãnh là một. Từ đó, nếu bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, cũng đồng thời với việc họ miễn luôn nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Thứ hai, một điểm bổ sung hoàn toàn mới tại Khoản 3 Điều 341 BLDS 2015 mà BLDS 2005 không quy định đó là “Trường hợp một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho bên bảo lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại”.Quy định này được bổ sung giải quyết triệt để và thống nhất vấn đề trong trường hợp một số những người nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện cho bên bảo lãnh mà tại BLDS 2005 không đề cập tới.
Tại Điều 342 BLDS 2015 có quy định:  Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại.”
Đây là một điểm mới về bảo lãnh so với quy định trong Điều 369 Xử lý tài sản của bên bảo lãnh BLDS 2005 như sau:  Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh.
Như vậy, với điểm mới này, pháp luật đã quy định cụ thể hơn, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh khi bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh, thông qua việc trao cho họ quyền được yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ và buộc bên bảo lãnh phải bồi thường thiệt hại (nếu có) do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây ra. Thiệt hại là có thể là thiệt hại thực tế do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây ra, hoặc có thể là khoản lợi mà bên nhận bảo lãnh đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm đó.

Related Post

Previous
Next Post »

XEM NHIỀU TRONG TUẦN