·
Tình huống: Ngày 20/05/2015 Ông
Nguyễn Văn Hải có cho con gái của mình là
chị Nguyễn Thị Hồng căn nhà đứng tên với chủ sở hữu của căn nhà là tên ông. Sợ
các con trong nhà biết được chuyện lại ảnh hưởng đến quan hệ của các anh em nên
Ông Hải cùng chị Hồng đã thiết lập hợp đồng với nội dung Ông Hải bán cho Chị Hồng
căn nhà với giá thấp, khi thiết lập có sự chứng kiến của anh Kiên hàng xóm (hợp
đồng đã qua công chứng). Ngày 22/8/2015 anh Kiên vô tình kể chuyện giữa Ông Hải
và chị Hồng cho con trai ông Hải là Nguyễn văn Cường biết; cảm thấy không hài
lòng về việc mình không có được căn nhà
nên anh đã kiện tòa án đòi giải quyết vụ việc.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ
HIỆU DO GIẢI TẠO
1. Một số khái niệm liên quan
a.
Giao dịch dân sự
Theo Điều
121 BLDS giao dịch dân sự là: “Giao dịch
dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Một giao dịch dân sự chỉ được xác lập,
thay đổi hay chấm dứt khi có ít nhất là một trong các bên tham gia giao dịch
dân sự thể hiện ý chí của mình dưới một hình thức nhất định nhằm mục đích ghi
nhận, thay đổi, hủy bỏ các quyền và nghĩa vụ dân sự.
b.
Giao dịch dân sự vô hiệu
Điều
127 BLDS quy định: “ Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện đực quy
định tại Điều 122 của bộ luật này thì vô hiệu”.
Điều
122 BLDS quy định Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự :
“1.
Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a.
Người
tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b.
Mục
đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội;
c.
Người
tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”
Như vậy,
có thể nói những giao dịch dân sự nếu vi phạm một trong bốn điều kiện trên thì
bị coi là vô hiệu. Những quy định về vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa
quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của toàn cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý
cho các chủ thể trong giao lưu dân sự.
c.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giải tạo
Theo
quy định tại Điều 129 BLDS về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
“Khi các bên xác lập dân sự một cách giả tạo
nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo sẽ vô hiệu, còn giao dịch
bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy
định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác định giao dịch giả tạo nhằm
trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”
2. Quy định của pháp luật hiện hành về giao dịch
dân sự bị vô hiệu.
a.
Hậu quả pháp lý về giao dịch dân sự vô hiệu
Về hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự do giả tạo Điều 137 quy định:
“ 1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được
bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch,
hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi
gây thiệt hại phải bồi thường.”
b.
Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu .
Điều 136. BLDS quy định:
“ 1. Thời hiệu yêu cầu
Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130
đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được
xác lập.
2. Đối với các giao
dịch dân sự được quy định tại Điều 128và Điều 129 của Bộ luật này thì thời hiệu
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.”
c.
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Điều 138. BLDS quy
định:
“ 1. Trong trường hợp
giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay
tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định
tại Điều 257 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp
tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã
được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao
dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận
được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau
đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ,
sửa.”
II. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Giao dịch
giả tạo, giao dịch thực chất
Một
giao dịch được pháp luật quy định luôn thể hiện được ý chí của chủ thể và được
nhà nước đảm bảo thực hiện. Sự biểu hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định
chính là thể hiện ý chí tự nguyện của các chủ thể trong giao dịch dân sự. Tuy
nhiên không phải sự tự nguyện nào của chủ thể cũng làm phát sinh hiệu quả pháp
lý. Có những trường hợp, bản thân chủ thể hoàn toàn kiểm soát được biểu hiện ý
chí ra bên ngoài, không bị tác động bởi bất cứ yếu tố khách quan nào nhưng cũng
không được pháp luật thừa nhận. Đó chính là những giao dịch do giải tạo.
Giao dịch dân sự (GDDS) xác lập do sự
giả tạo là những giao dịch xác lập không đúng với ý chí của chủ thể, các chủ thể
biết giao dịch đó là không đúng với thực tế nhưng vẫn tham gia. Giao dịch giả tạo
là những giao dịch có mục đích trốn tránh pháp luật hoặc giao dịch mà các bên
xác lập nhưng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hai bên. Có hai loại
giao dịch do giả tạo:
-
Giao dịch
được xác lập nhằm che giấu một giao dịch khác. Các bên thỏa thuận ký hai hợp đồng
về một đối tượng. Tuy nhiên một hợp đồng có giá trị pháp lý còn một hợp đồng
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
-
Giao dịch
xác lập nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả
nợ hoặc trốn tránh thi hành án dân sự, bên nghĩa vụ định đoạt tài sản cho người
khác để không còn tài sản trả nợ và thi hành án.
Ở đây, ông Hải và chị Hồng đã giao kết với nhau một
hợp đồng thực tế đáp ứng nguyện vọng cũng như mục đích của các bên khi thiết lập
giao dịch hợp đồng tặng cho căn nhà .
Tuy nhiên do lo sợ đến mối quan hệ của các con sẽ bất hòa nên Ông Hải lại cùng
con mình thiết lập một hợp đồng là mua bán căn nhà với giá thấp để người khác hiểu sai về bản chất sự việc. Do vậy hợp đồng tặng cho nhà của ông Hải và chị Hồng đã bị che giấu, nằm
sau một giao dịch không có thật là mua bán nhà. Pháp luật quy định, ý chí đích
thực bên trong phải thống nhất với ý chí bên ngoài thì mới đảm bảo yếu tố tự
nguyện của các chủ thể trong giao dịch. Vậy tại thời điểm ký kết hợp đồng mua
bán nhà các bên đã có ý định che giấu giao dịch đích thực là tặng cho căn nhà,
trường hợp này được xem là giao dịch giả tạo liên quan đến hợp đồng.
Vậy
theo phân tích thì giao dịch bán mua bán căn nhà giữa ông Hải và chị Hồng là
giao dịch giả tạo còn giao dịch tặng cho căn nhà giữa ông Hải và chị Hồng là giao dịch thực chất.
2. Thời hiệu
yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu trong tình huống.
Theo Điều
129 BLDS quy định thì giao dịch dân sự giả tạo sẽ bị tuyên vô hiệu. Cần hiểu
thêm là giao dịch dân sự do giả tạo là giao dịch vô hiệu tuyệt đối nên áp dụng
khoản 2 Điều 136 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
là không hạn chế.
Trong
tình huống trên, Ông Hải và con gái đã thiết lập giao dịch giả là giao dịch mua
bán tài sản để che giấu giao dịch thực chất là giao dịch cho tài sản nhằm mục
đích để che giấu một giao dịch đích thực mặc dù trên thực thế họ có điều kiện để
thực hiện giao dịch thực chất này. Do đó,mục địch này đã vi phạm các quy định của
pháp luật về nghĩa vụ dân sự. Vì vậy, giao dịch này vô hiệu do đã vi phạm ý chí
của nhà nước. Vào ngày 20/5/2015 giao dịch
này được thiết lập nhưng đây là một giao dịch bị vô hiệu có tính tuyệt đối nên
trong tình huống này Ông Hải, chị Hồng hoặc con ông là Anh Cường có thể yêu cầu
Tòa án tuyên bố vô hiệu bất kỳ lúc nào sau thời gian hai bên thiết lập giao dịch
( thực tế nó đã mặc nhiên vô hiệu ). Trong tình huống này anh Cường mãi đến ngày
22/08/2015 mới biết có sự giả tạo trong hợp đồng mua bán nhà giữa hai bố con
Ông Hải thì anh có quyền yêu cầu tòa án tuyên bộ giao dịch này vô hiệu bất cứ lúc
nào kể từ ngày này với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
3. Hậu quả
pháp lý của hai giao dịch trên theo pháp luật hiện hành
Hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định cụ thể tại Điều 137 BLDS và
giao dịch dân sự do giải tạo cũng bị vô
hiệu, do đó cũng áp dụng Điều 137 BLDS
cho giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.
Ta biết
rằng, chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các
bên và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Vì vậy, về nguyên tắc giao dịch không
tuân thủ điều kiện của pháp luật sẽ bị
vô hiệu. Những quy định về sự vô hiệu
của giao dịch có ý nghĩa quan trọng trong việc thết lập trật tự kỉ cương
xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo
đảm an toàn pháp lí cho các chủ thể trong giao lưu dân sự.
Điều 129 BLDS quy định “ khi
các bên xác lập dân sự một cách giả tạo ... thì giao dịch đó vô hiệu”.
Trong
tình huống này mặc dù thực tế la giao dịch tặng cho tài sản với nhau nhưng lại
thiết lập giao dịch mua bán nhằm che giấu giao dịch thực chất bên trong của nó.
Pháp luật Dân sự quy định những trường hợp này là xác lập giao dịch giả tạo nhằm
che giấu một giao dịch đích thực khác, do đó trong trường hợp này giao dịch mua bán
nhà vô hiệu, giao dịch đích thực tức giao dịch tặng cho nhà vẫn có hiệu lực.
Thứ nhất:.
Điều 137 quy định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Giao dịch dân sự
vô hiệu sẽ dẫn đến một hậu quả pháp lý là không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên, kể từ thời điểm xác lập.
Trong
tình huống trên ông Hải và Chị Hồng trên thực tế đã thiết lập giao dịch tặng
cho nhà, khi đó phát sinh các quyền và nghĩa vụ của hai bên được quy định tại
Điều 465, Điều 467, Điều 469.. .Tuy
nhiên hai bên lại thiết lập giao dịch tặng
cho mua bán nhà, khi đó các quyền nghĩa vụ lại được quy định tại các Điều 450, Điều
451, Điều 452... Tuy ông Hải và Chị Hồng đã có sự tự nguyện khi thiết lập giao
dịch mua bán tài sản là nhà tuy nhiên lại không phát sinh nghĩa vụ và quyền được
quy định của pháp luật do có sự tự nguyện nhưng không có sự thống nhất giữa ý
chí và bày tỏ ý chí để che giấu đi. Do
đó, giao dịch mua bán nhà sẽ bị vô hiệu và không phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm kể từ thời điểm xác lập là
từ ngày 20/5/2015.
Thứ
hai: Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì
phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu
được bị tịch thu theo quy định của pháp luật . Do vậy, việc chị Hồng nhận được ngôi nhà này tự hợp đồng mua bán căn
nhà và có quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt nó là điều không thể, cũng như ở
Ông Hải không phát sinh quyền hay
nghĩa vụ khác đối với ngôi nhà này khi hai người thiết lập giao dịch mua bán
căn nhà. Nếu căn nhà có đều gì thiệt hại về mặt pháp lý chị Hồng phải khôi phục
lại từ đầu hoặc hoàn trả bằng tiền cho ông Hải.
Thứ
ba: Theo Điều 137 BLDS “ bên có lỗi gây
thiệt hại phải bồi thường”, như vậy để buộc một bên bồi thường ta phải xác định
hai yếu tố là có lỗi và thực tế phải tồn tại thiệt hại. Trong vấn đề này, trước
hết phải xác định mức độ thiệt hại của các bên tham gia giao dịch, từ đó phát
sinh hậu quả bồi thường. Để đưa ra
hướng xử lý cụ thể và xác đáng, cần xác định một cách rõ ràng lỗi của các bên
tham gia làm cho giao dịch dân sự bị vô hiệu. Trong trường hợp trên giao dịch
giữa Ông Hải và chị Hồng được coi là vô hiệu, cần xác định lỗi của cả hai bên.
Tuy nhiên theo em trong trường hợp này giao dịch vô hiệu là do lỗi của hai bên
vì họ đã có sự thỏa thuận khi thiết lập
một giao dịch giả tạo nên vấn đề lỗi và bồi thường ở đây có thể bỏ qua.
Giao dịch
thứ hai là giao dịch tặng cho tài sản, tuy đã bị che giấu bởi một giao dịch giả
tạo khác tuy nhiên pháp luật vẫn cho nó có hiệu lực. Nhưng do đặc thù của một hợp đồng tặng cho bất động sản nên theo em Ông Hải và chị Hồng nên tiến hành các thủ tục tặng
cho bất động sản mà ở đây theo pháp luật quy định và các thủ tục có liên quan để
bảo vệ quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên liên quan.
III. SO SÁNH QUY ĐINH CỦA BLDS 2005 VÀ BLDS 2015 VỀ
NHỮNG NỘI DUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO.
Xã hội
ngày càng phát triển thì càng diễn ra nhiều vấn đề phức tạp, trong đó các quan
hệ xã hội do pháp luật dân sự điều chỉnh
cũng chịu ảnh hưởng của sự thay đổi đó. Dù đã rất cố gắng nhưng các nhà làm Luật
không thể dự liệu được các vấn đề có thể xảy ra trong tương lai. Do đó BLDS
2015 ra đời trên tinh thần BLDS 2005 nhằm quy định lại và sữa đổi, bổ sung cho
các chể định luật dân sự thêm chặt chẽ và đáp ứng được những thay đổi của thời
đại mới. Trong hạn chế của bài tập em xin so sánh một cách cơ bản nhất những nội
dung có liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.
1. Các
khái niệm liên quan đến giao dịch dân sự
·
Giống nhau
Điều
116 Bộ Luật Dân sự 2015 vẫn giữ nguyên khái niệm của giao dịch dân sự được quy
định ở Điều 121 BLDS 2005 tức là vẫn quy định: Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.
Điều
124 BLDS 2015 thay thế Điều 129 BLDS 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo,
tuy nhiên về nội dung quy định vẫn giữ nguyên, không có gì thay đổi. Tức quy định:
Khi các bên xác lập dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác
thì giao dịch giả tạo sẽ vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.Trong trường
hợp xác định giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì
giao dịch đó vô hiệu.
·
Khác nhau
Điểm
khác nhau của các khái niệm liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu thể hiện ở
chỗ BLDS 2015 quy định về khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu khác năm 2005.
Điều
122 BLDS 2015 quy định: “ Giao dịch dân sự
không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì
vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.
Như vậy,
về giao dịch dân sự vô hiệu, thì Luật dân sự 2015 đã quy định thêm điều khoản
và cụ thể và chi tiết hơn là: trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác mà BLDS 2005 chưa có. Ví dụ có rất nhiều trường hợp giao dịch vô hiệu, trong đó một
số trường hợp theo các điều luật liên quan khác và kể cả các luật khác, như Luật
Doanh nghiệp...
2. Quy định
của BLDS 2015 về giao dịch dân sự bị vô
hiệu
Về quy định
của pháp luật dân sự 2015 về giao dịch dân sự bị vô hiệu vẫn chủ yếu là dựa trên tinh thần của pháp luật
dân sự 2005. Tuy nhiên, BLDS 2015 đã quy định rõ ràng, chi tiết hơn về vấn đề
này, thậm chí còn bổ sung thêm các quy định mới mà BLDS 2005 chưa đề cập đến hoặc
có đề cập đến nhưng chưa cụ thể và chi tiết, cụ thể là;
·
Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Điều 131 BLDS 2015 quy định:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm
giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật
thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức
không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự
vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan
quy định.”
Hậu quả
pháp lý của GDDS vô hiệu trong BLDS 2015 thêm quy đinh sau: “Trường hợp không thể
hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.” trong nghĩa vụ
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Bên cạnh đó
cũng bổ sung các quy đinh ở khoản 3, khoản 4 của Điều 131 Bộ luật này. Việc quy
định giải quyết hậu quả của GDDS liên quan đến nhân thân lần đầu tiên được nhắc
đến ngoài liên quan đến tài sản như trước đây là điều tiến bộ đáng nhắc đến của
BLDS 2015.
·
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu
Về chế
định thời hiệu thì về cơ bản các giao dịch dân sự tuyệt đối không bị hạn chế thời
gian yêu cầu Tòa tuyên bố GDDS bị vô hiệu. Ngược lại thì các giao dịch dân sự bị
vô hiệu tương đối sẽ hạn chế, tuy nhiên so với BLDS 2005,BLDS 2015 đã quy định
cụ thể hơn mốc thời gian để xác định thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS vô
hiệu, cụ thể Điều 132 BLDS 2015 quy định:
“1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu quy định tại các điều 125,126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này
là 02 năm, kể từ ngày:
a) Người đại diện của người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được
đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải
biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt
hành vi đe dọa, cưỡng ép;
d) Người không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình xác lập giao dịch;
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường
hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.
2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này
mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có
hiệu lực.
3. Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều
123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu không bị hạn chế.”
Việc
quy định cụ thể được mốc thời gian sẽ giúp cho Tòa án thuận lợi hơn trong việc
đinh đoạt thời hiệu một cách thống nhất cho từng giao dịch bị vô hiệu.
·
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vô hiệu.
So với
BLDS 2005, quy định bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình khi GDDS vô hiệu
được mở rộng hơn quy định cụ thể ở Điều 133 BLDS 2015:
- Trường
hợp GDDS vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã
được chuyển giao cho người thứ 3 ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực
hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định về quyền đòi lại
động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình.
- Trường
hợp GDDS vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, sau đó được chuyển giao bằng một GDDS khác cho người thứ ba ngay tình và
người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao
dịch đó không bị vô hiệu.
- Trường
hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì GDDS với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay
tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu
tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
- Chủ sở
hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu GDDS với
người này không bị vô hiệu theo quy định vừa nêu trên nhưng có quyền khởi kiện,
yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba
phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Trên tinh
thần của BLDS 2005, BLDS 2015 đã hoàn thiện hơn việc bảo vệ quyền lợi của người
thứ 3, bên cạnh đó cũng quy định chủ sở
hữu có “ quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được
xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt
hại” đây là một quy định mới nhằm bồi thường, bù đắp lại phần nào cho chủ sở
hữu khi tài sản của họ bị xác lập bởi người thứ 3 ngay tình do yếu tố lỗi của
người khác.
Có thể nói, BLDS 2015 đã có những bước
phát triển cao hơn về chất và lượng. Điều đó là phù hợp với sự phát triển của
đất nước ta hiện nay.