About SINH VIÊN HLU

Manual Description Here: Ea eam labores imperdiet, apeirian democritum ei nam, doming neglegentur ad vis.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Xã hội học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Xã hội học. Hiển thị tất cả bài đăng

Phân tích sự ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại chúng đối với hoạt động xây dựng pháp luật gắn với việc xây dựng, ban hành một bộ luật/ luật cụ thể ở nước ta trong những năm qua

Phân tích sự ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại chúng đối với hoạt động xây dựng pháp luật gắn với việc xây dựng, ban hành một bộ luật/ luật cụ thể ở nước ta trong những năm qua
          Xã hội của chúng ta luôn luôn biến đổi không ngừng, phức tạp và theo nhiều chiều hướng khác nhau mà chúng ta không thể đoán biết trước được vì thế, để xã hội luôn nằm trong vòng kiểm soát và ổn định chúng ta cần đến các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội. Bên cạnh pháp luật thì các công cụ khác cũng đóng vai trò to lớn góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội cũng như góp phần vào việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong số các công cụ quản lý xã hội ở Việt Nam thì dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại chúng có tác động quan trọng đến việc xây dựng pháp luật nước ta hiện nay. Chính vì thế để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này em xin chọn  đề bài số 6 : “ Phân tích sự ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại chúng đối với hoạt động xây dựng pháp luật gắn với việc xây dựng, ban hành một bộ luật/ luật cụ thể ở nước ta trong những năm qua”

NỘI DUNG
I.   NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.     Khái niệm xây dựng pháp luật
Để xã hội ổn định và phát triển thì nhà nước  cần có các biện pháp để duy trì sự ổn định và cần pháp luật để đảm bảo việc thực hiện các quy định đó. Một trong những vấn đề quan trọng của pháp luật đó là định hướng và xây dựng pháp luật.
Hiện nay, hiểu một cách chung nhất  thì “ Xây dựng pháp luật là hoạt động của các chủ thế có thẩm quyền nhằm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc sữa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật theo một trình tự, thủ tục đặc biệt do pháp luật quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội”.

2.     Khái niệm dư luận xã hội
 Dư luận xã hội là một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người, nó tồn tại trong tất cả các cộng đồng lớn nhỏ khác nhau của con người như  trong làng, xã, tỉnh...trong một nước hay trên phạm vi một nhóm nước thậm chí trên toàn thế giới.
Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm dư luận xã hội tuy nhiên một cách khái quát ta có thể hiểu rằng:  “ Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các cá nhân, các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng mang tính thời sự, có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ, thu hút được sự quan tâm của con người và được thể hiện trong các nhận định và hành động thực tiễn của họ”.
3.     Khái niệm phương tiện thông tin đại chúng
Các phương tiện thông tin đại chúng có thể hiểu là các phương tiện được sử dụng để truyền đạt thông tin một cách đại chúng, rộng rãi, tức là có khả năng đưa thông tin tới đa số đối tượng để phục vụ mục đích đã được đề ra.
Hiện nay mới sự phát triển của công nghệ thì có rất nhiều phương tiện thông tin đại chúng như: tạp chí, báo in, truyền hình, phát thanh, sách, internet, báo điện tử, loa phường, quan hệ công chúng.... đã và đang góp phần tác động tích cực đến hoạt động xây dựng pháp luật.

II.   SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
1.     Ảnh hưởng của dư luận xã hội
Trong bất kỳ một xã hội nào, dư luận xã hội cũng đều có ảnh hưởng nhất định và trong nhiều trường hợp, còn tác động mạnh mẽ đến các quá trình chính trị, xã hội như kinh tế, đạo đức, pháp luật, văn hóa, giáo dục… trong số đó, phải kể đến tới sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã họi đối với hoạt động xây dựng pháp luật. nước ta hiện nay, sự ảnh hưởng đó thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thông quan tiếng nói chung của nhân dân, nên nó là điều kiện cần thiết để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Các tầng lớp nhân dân là chủ thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật. Hiến pháp của Nhà nước ta đã khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đồng thời, thiết lập cơ chế bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước phục vụ cho lợi ích của nhân dân và luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhân dân. Dưới chế độ ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai hình thức cơ bản là  dân chủ trực tiếp  và dân chủ gián tiếp. Đây là hai hình thức phù hợp với trình độ nhân dân và xã hội ta hiện nay. Việc các cơ quan chức năng nhà nước thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân là sự thể hiện sinh động phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và luôn được phản ánh trong dư luận xã hội. Mọi hành vi vi phạm, xâm hại quyền dân chủ của nhân dân trong đó có quyền tham gia hoạt động xay dựng pháp luật, đều bị dư luận xã hội phê phán và lên án. Điều đó nói lên sự tác động của dư luận xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật.
Thứ hai, dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực đối với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản dưới luật. Để có được các văn bản pháp luật sát thực tế, thể hiện  đường lối, chế độ của nước ta, có tính khả thi cao trước khi xây dựng hay ban hành các cơ quan lập pháp phải nắm bắt được thực trạng tư tưởng, tâm lý của các đối tượng xã hội mà văn bản pháp luật đó hướng đến. Mọi chủ trương, chính sách của pháp luật sẽ khó trở thành hiện thực nếu không được lòng dân, không được nhân dân ủng hộ. Mọi vướng mắc, lệch lạc trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản pháp luật, do nhiều yếu tố khó lường trước đều được bộc lộ qua dư luận xã hội. Dư luận xã hội là cơ sở quan trọng giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra các văn bản, quyết định phù hợp với lòng dân. Dư luận xã hội có tác dụng phát hiện những thiếu hụt, những khe hở trong các văn bản quy phạm pháp luật, giúp cho Nhà nước có biện pháp sữa đổi, bổ sung và điều chỉnh một cách kịp thời các văn bản pháp luật còn khiếm khuyết, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện pháp luật.
Thứ ba, dư luận xã hội không mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh rất to lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên trong xã hội. Trong hoạt động xây pháp luật, các cá nhân, nhà chức trách có thẩm quyền, với tư cách chủ thể xây dựng pháp luật, cần phải biết lắng nghe dư luận xã hội một cách nghiêm túc, phân tích nội dung của dư luận xã hội một cách khách quan, khoa học để có thể rút ra được những thông tin, kết luận chính xác về thực trạng của những lichjx vực quan hệ xã hội điều chỉnh. Nhờ đó, Nhà nước có thể ban hành pháp luật một cách kịp thời, đồng bộ và hiệu quả; tác động đúng phạm vi, đúng đối tượng cần điều chỉnh; góp phần tăng cương vai trò và hiệu lực của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
2.     Ảnh  hưởng của phương tiện thông tin đại chúng
Sự hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng có tác động rất mạnh mẽ và quan trọng tới hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất  các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối đầy đủ và đa dạng về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống chính trị, xã hội, pháp luật; cung cấp những tri thức, hiểu biết pháp luật cần thiết cho các chủ thể của xây dựng pháp luật, phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; đưa tin nhanh chóng, rộng rãi tới các tầng lớp xã hội về nội dung, kết quả các kỳ họp của Quốc hội.. Qua đó, các phương tiện truyền thông tác động tới nhận thức của các chủ thể về tầm quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở thông tin để các tầng lớp xã hội tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.
Thứ hai, các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thông tin về chính sách pháp luật của Nhà nước, các dự thảo văn bản pháp luật mới, đưa các thông tin đó đến được với đông đảo tầng lớp nhân dân. Các phương tiện thông tin đại chúng tạo diễn đàn ngôn luận công khai để các chủ thể của hoạt động  xây dựng pháp luật tham gia trao đổi, phân tích, đóng góp về nội dung, cấu trúc, phạm vi điều chỉnh... của văn bản pháp luật. Đồng thời, các phương tiện thông tin đại chúng còn có thể đăng tải kịp thời các thông tin phản hồi, các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân chó hoạt động xây dựng pháp luật. Bằng cách tác động đó, thông tin đại chúng giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp thông tin, xử lý và tiếp thu có chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ vho việc sửa đổi bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Bằng cách tác động đó, thông tin đại chúng giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp thông tin, xử lý và tiếp thu có chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ cho việc sữa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, phương tiện thông tin đại chúng có vai trò định hướng, điều chỉnh quá trình hình thành dư luận xã hội thông qua việc cung cấp các nguồn thông tin pháp luật xác thực, đăng tải ý kiến chính thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về kết quả hoạt động xây dựng pháp luật. Đối với các vấn đề xã hội- pháp luật còn có nhiều quan điểm khác nhau, thông qua thông tin đại chúng có thể tổ chức các buổi tọa đàm, mời các nhà lãnh đạo, các chuyên gia, các nhà khoa học có uy tín tham dự để cùng nhau bàn bạc, trao đổi ý kiến, phân tích thấu đáo các khía cạnh của vấn đề nhằm định hướng, dẫn dắt dư luận xã hội. Bằng những hoạt động đó, các phương tiện thông tin đại chúng góp phần tạo lập các luồng dư luận tích cực phản ánh hoạt động xây dựng pháp luật; góp phần đấu tranh chống lại, đập tan các âm mưu phá hoại, các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc và bịa đặt của các thế lực thù địch về nội dung, bản chất hệ thống pháp luật của nhà nước ta; củng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

III.   MỘT SỐ VÍ DỤ CỤ THỂ TRÊN THỰC TẾ
1.     Ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại chúng đến BLHS 2015.
Là một trong những Bộ luật quan trọng của đất nước thế nhưng chỉ còn 1 đến 2 ngày nữa là có hiệu lực vào tháng 1/7/2016 nhưng Bộ Luật Hình sự 2015 đã phải “ Hoãn quyết định hiệu lực thi hành của Bộ luật” do sau khi dự thảo được đưa ra vấp phải rất nhiều ý kiến đóng góp trái chiều của  các nhà làm luật, nghiên cứu luật và  toàn xã hội.
 Dư luận xã hội cùng tòan thể những ai quan tâm đến lập pháp đã chỉ ra “ rất nhiều lỗi sai “của bộ luật này và tỏ thái độ không đồng tình quyết liệt đối với dự thảo luật như :
+ Kết quả  rà soát do từng cơ quan tiến hành với toàn bộ đạo luật là khác nhau về nội dung, số lượng các vấn đề sai sót. Tuy nhiên, qua tổng hợp tại Ủy ban Tư pháp và kết quả làm việc của nhóm liên ngành với lãnh đạo QH, đến nay đã xác định được khoảng 90 điều, khoản cần chỉnh sửa.
Sai sót trong BLHS 2015 có nhiều loại, nằm cả ở Phần Chung và Phần Các tội phạm. Hình thức sai sót rất đa dạng: Từ việc thiếu, thừa chữ, thiếu dấu, đến việc trùng lặp câu chữ, trùng lặp định lượng trong các cấu thành tội phạm. Có cả những sai sót thể hiện sự không phù hợp giữa Phần Chung và Phần Các tội phạm trong bộ luật. Ngoài ra, còn có cả sai sót, chưa hợp lý trong nghị quyết của QH về thi hành BLHS 2015… Ví dụ như Điều 252 về Tội chiếm đoạt ma túy. Với qui định đã công bố thì khi vi phạm dưới 10kg sẽ không bị xử lý về tội này. Nếu người nào chiếm đoạt Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam thì cũng không có căn cứ rõ ràng để xử lý theo khoản 1 hay khoản 2. Hay tại điều 304 về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Điều luật này bất cập ở “Nếu vật phạm pháp có số lượng đúng 31 kilôgam thuốc nổ thì không có qui định xử lý?” . Tương tự ở điều 305 về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Nếu quy định như hiện tại thì số thuốc nổ có số lượng đúng 31 kilôgam thuốc nổ thì không có qui định xử lý.
+ Nhiều điều luật chung chung tức nghĩa các điều luật này nếu không có giải thích hoặc hướng dẫn thì không thể áp dụng được như điều 175 (điều 140 BLHS 1999) quy định về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã bỏ tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt” trước đây quy định tại điểm a khoản 1 điều 140 BLHS. Vậy kể từ ngày 1/7/2016 (nếu bộ luật có hiệu lực thi hành) trở đi cứ vay mượn, thuê tài sản của người khác rồi bỏ trốn để chiếm đoạt thì không phạm tội sao?
+ Tên điều luật và nội dung luật không thống nhất với nhau, ví dụ như Điều 377, BLHS 2015 tên và nội dung điều luật mẫu thuẫn với nhau. Cụ thế như sau: Điều 337. Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước. Đọc lên ta thấy, tên của điều luật quy định hai tội với bốn hành vi: cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước. Nhưng khoản 1 của điều luật này lại chỉ quy định một tội với một hành vi “cố ý làm lộ hoặc mua bán bí mật nhà nước”, còn ba hành vi: chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước thì không thấy đâu nữa.
+ Nguyên chánh tòa hình sự TAND tối cao Đinh Văn Quế từng nêu các ví dụ cụ thể như: ngoài điều 249, điều 250, điều 252 Bộ luật hình sự 2015 bị trùng lặp tình tiết định khung hình phạt thì còn điều 337 quy định tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước. Tên của điều luật quy định hai tội với bốn hành vi: cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước. Nhưng khoản 1 của điều luật này lại chỉ quy định một tội với một hành vi “cố ý làm lộ hoặc mua bán bí mật nhà nước”, còn ba hành vi: chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước thì không thấy đâu nữa. Nếu nghiên cứu kỹ Bộ luật hình sự 2015, chúng ta còn thấy một số điều luật nếu không có giải thích hoặc hướng dẫn thì không thể áp dụng được....v.v..
Trên là một số các hạn chế có thể nói là điển hình nghiêm trọng của  Bộ luật hình sự 2015 đã được dư luận xã hội và các nhà lập pháp nhìn nhận ra. Nó có thể nói là những điểm hạn chế này đi trái lại quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan cũng như gây khó khăn trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật do đó nó vấp phải sự đối kháng của cả xã hội rất nhiều trước khi Bộ luật có hiệu lực.
Các ý kiến của dư luận xã hội cũng như của các cá nhân, cơ quan tổ chức lại được các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh lại qua nhiều kênh phương tiện như Internet, báo in, truyền hình, các diễn đàn xã hội.... các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thông tin về chính sách pháp luật của Nhà nước,  dự thảo Bộ luật Hình sự 2015, đưa các thông tin đó đến được với đông đảo tầng lớp nhân dân. Các phương tiện thông tin đại chúng tạo diễn đàn ngôn luận công khai để các chủ thể của hoạt động  xây dựng pháp luật tham gia trao đổi, phân tích, đóng góp về nội dung, cấu trúc, phạm vi điều chỉnh... của Bộ luật hình sự 2015. Có thể nói dư luận xã hội đã có tác động mạnh mẽ đến Quốc hội và Ban soạn thảo ra Bộ luật Hình sự 2015, chính vì vậy: Từ việc có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2016 thì Quốc Hội đã ra quyết định Hoãn hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình Sự 2015, thay vào đó Bộ luật Hình sự 1999 vẫn tiếp tục có hiệu lực. Còn Bộ luật Hình sự 2015 sẽ tiếp tục sữa đổi và bổ sung thật hoàn thiện.
Như vậy, qua phân tích ví dụ ta thấy ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin là rất lớn. Theo đó những chính sách, quy định của pháp luật đưa ra phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của người dân thì sẽ được ủng hộ  thi hành và ngược lại trái với mong muốn, lợi ích của người dân sẽ không được thực hiện trên thực tế.

2.  Ảnh hưởng của dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại chúng đến Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Bản tuyên ngôn độc lập nước ta ngày 2/9/1945 đã nêu rõ Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.Đặc biệt  nền chính trị càng ngày càng được đặt lên hàng đầu thì quyền con người kéo theo cũng được quan tâm và coi trọng hơn. Các quyền con người được thế giới thừa nhận, bảo vệ và được tuyên bố trong nhiều văn kiện quốc tế đồng thời khi mỗi công dân của một đất nước được đảm bảo các quyền con người, quyền công dân thì đất nước đó càng ổn định về chính trị cũng như là một đất nước dân chủ.
Tuy nhiên quyền của những người đồng tính, người lưỡng tính,  người chuyển giớithường được gọi chung là quyền của LGBT thì chưa được đảm bảo đúng mực. Đây là một vấn đề gây tranh cãi trên nhiều lĩnh vực quyền con người trong thời gian gần đây trên thế giới và kể cả ở Việt Nam nhất là vấn đề về hôn nhân.Nói về hôn nhân theo khoản 1 điều 36 Hiến pháp 2013 quy định:”Nam,nữ có quyền kết hôn,ly hôn.Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng,vợ chồng bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau”.Hiến pháp chỉ quy định việc nam,nữ có quyền kết hôn tuy nhiên không nói gì đến việc kết hôn của những người đồng tính- đây là một điểm hạn chế về quyền con người ở nước ta. Cụ thể khoản 5 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “ Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”.
Chính quy định này đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhằm hoàn thiện hơn về Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và tăng cường bảo vệ quyền con người trước khi Luật hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thì Viện Hàn Lâm Khoa học- xã hội Việt Nam và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi trường đã phối hợp điều tra Quan điểm của công chúng về việc “ Có nên hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính “ kết quả công bố ngày 26/3/2014 cho thấy:
+  90% người dân Việt Nam biết về đồng tính và 62% biết về việc sống chung như vợ chồng giữa hai người cùng giới tính.
+ 33,7% số người được hỏi ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới. Về việc công nhận quyền sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính, số người ủng hộ là 41,2%. Hình thức sống chung cùng giới nên được hợp pháp hóa theo dạng "kết hợp dân sự" hoặc "đăng ký sống chung như vợ chồng.
+ Khi được hỏi về một số quyền cụ thể được đề cập đến trong Luật Hôn nhân – Gia đình mà các cặp đôi cùng giới nên được pháp luật bảo vệ, có 56% người dân cho rằng cặp đôi cùng giới nên có quyền cùng nhận con nuôi và nuôi con, 51% ủng hộ quyền sở hữu tài sản chung, 47% ủng hộ quyền thừa kế tài sản.
+ Đa số người dân cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới không ảnh hưởng đến gia đình (72,7%) hay cá nhân họ (63,2%). Xét theo vùng miền, người miền Bắc và người miền Trung ủng hộ tích cực hơn (78% và 74%) so với miền Nam (68%).
 + Những người trẻ từ 18-29 tuổi và những người có trình độ học vấn từ đại học, cao đẳng trở lên có tỷ lệ ủng hộ hôn nhân đồng giới cao hơn.
+ 90% cho rằng nếu hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính thì sẽ có tác động đến cộng đồng xã hội kể cả tích cực lẫn tiêu cực. 20% cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính sẽ có tác động tiêu cực đến gia đình họ trong khi 73% số người được hỏi cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới không ảnh hưởng đến gia đình hay cá nhân họ.
Cuộc điều tra quốc gia lần đầu tiên được thực hiện tại 68 xã, phường thuộc 8 tỉnh, thành phố tại Việt Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk, TP.HCM, An Giang, Sóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân.
Như vậy, theo như điều tra thì quan điểm của công chúng, dư luận xã hội đa số đồng thuận việc cho phép hôn nhân giữa những người đồng tính.
Bên cạnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, internet đăng tải các hình ảnh của những buổi lễ tổ chức một đám cưới theo hình thức truyền thống đối với các cặp hôn nhân Đồng tính như  một cặp đồng tính ở Hà Tiên vào tháng 5/2012; ngày 17/5/2013 10 cặp đôi đồng tính tổ chức “ đám cưới “ tập thể ở Hà Nội với phương châm “ yêu là cưới”....... bên cạnh các ý kiến trái chiều thì các hình ảnh này được đông đảo người dân có hiểu biết cao ủng hộ họ, tôn trọng quyền được sống, yêu thương và hạnh phúc của những người đồng giới. Qua đó tác động tích cực đến  dư luận xã hội và các cơ quan Nhà nước.
Do chịu sự tác động của dư luận xã hội và phương tiện thông tin. Sự phù hợp với nguyện vọng đại đa số người dân vào chiều ngày 19/6/2014 Quốc hội đã chính thức thông qua Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014  ( có hiệu lực ngày 1/1/2015)  với 79.52 % số phiếu tán thành trong đó tại khoản 2 Điều 8 dự thảo luật có quy định “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”Tuy không thừa nhận về mặt pháp luật nhưng pháp luật đã không cấm hôn nhân đồng tính tức là thừa nhận họ vẫn có thể chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế mà không bị ngăn cản, cấm đoán như xưa. Quy định như vậy vừa phù hợp với đại đa số người dân ủng hộ, mặt khác đây là khía cạnh khá mới do văn hóa của nước ta nên còn khó để công nhân hôn nhân giữa những người đồng tính cũng phù hợp với những người phản đối. Tuy nhiên không thể phủ nhận sự tiến bộ của Nhà nước ta về vấn đề này và đóng góp vào quy định này không thể không nhắc đến tầm quan trọng của dư luận và phương tiện thông tin đại chúng vì nó  đã đi đúng hướng theo mong muốn, nguyện vọng của đại đa số người dân thì sẽ được pháp luật công nhận và bảo vệ.

KẾT THÚC
          Quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật là một trong những việc bắt buộc phải có đối với một Quốc gia, một nhà nước nhất định. Bên cạnh các yếu tố khác đóng vai trò quan  trong việc định hướng xây dựng và thực hiện pháp luật thì dư luận xã hội và phương tiện thông tin đại chúng  có tác động mạnh mẽ nhất đến việc xây dựng và thực hiện các bộ luật. Dư luận xã hội, phương tiện thông tin đại chúng cùng với những yếu tố khác đều có ý nghĩa tích cực giúp xây dựng các văn bản phù hợp với ý chí của Nhà nước, phù hợp với nguyện vọng của đa số toàn thể nhân nhân và góp phần  xây dựng nhà nước ta tiến bộ, công bằng, dân chủ và văn minh. 
Chi tiết...

CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH, THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC PHÁP LUẬT


Gia đình là nơi “chôn rau cắt rốn”,  là chốn dừng chân của mỗi cá nhân sau một ngày làm việc mệt mỏi. Nơi ấy chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng và sâu sắc mà chắc hẳn sẽ không ai quên. “ Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh”  tuy khác nhau nhưng gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có vững mạnh thì xã hội mới văn minh. Không ai có thể phủ nhận được vai trò của gia đình đối với cá nhân và xã hội. chính vì những lí do đó nên em xin chon đề tài: “phân tích chức năng cơ bản của gia đình? Thực tiễn của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lĩnh vực pháp luật?” cho bài học kỳ lần này.
Do thời gian và điều kiện không cho phép, kiến thức của em còn hạn chế nên bài làm chắc hẳn sẽ còn thiếu sót. Vì vậy rất mong có sự đóng góp ý kiến từ quý thầy (cô) để bài làm được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

I.            CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
1.   KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH.
Từ lâu người ta đã coi gia đình là tế bào của xã hội. Tế bào gia đình khỏe mạnh, xã hội sẽ lành mạnh, mọi người đều có cơ hội phát triển và hưởng hạnh phúc. Tế bào gia đình lỏng nẻo, không đảm đương tốt các vai trò và chức năng của mình, xã hội có nguy cơ xáo động ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Củng cố nền tảng gia đình luôn là mối quan tâm của các quốc gia trên thế giới.
Vậy gia đình là gì?
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người. (8.wikipedia)
Theo TS Ngọ Văn Nhân trong cuốn “tập bài giảng Xã hội học” cho biết:
Dưới góc độ là một thiết chế xã hội: “ Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt (hoặc đặc biệt cùng chung sống). Gia đình là phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tộc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội”
Dưới góc độ là một nhóm xã hội nhỏ (đơn vị xã hội): “gia đình là hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị  em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung”
2.   CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
Gia đình là yếu tố cấu thành cơ bản của cơ cấu xã hội tổng thể, gia đình phản ánh chân thực mối quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp. Gia đình lúc đầu như Mac và Ăng ghen nói, “ là quan hệ xã hội duy nhất” gia đình là cộng đồng lao động và cộng đồng sinh hoạt, là khuôn khổ tồn tại và là thế giới của con người.  Nếu xem xét gia đình như một thiết chế xã hội thì cần hướng tới các chức năng, việc định hướng giá trị và nghĩa vụ mà gia đình phải giải quyết với tư cách là một đơn vị xã hội đặc biệt. gia đình được sinh ra tồn tại và phát triển chính là do nó sứ mệnh được đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã trao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Gia đình có những chức năng cơ bản sau: 
- Chức năng kinh tế: Gia đình là một đơn vị sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Hơn thế nữa nó cũng là đơn vị tiêu dùng chủ yếu các sản phẩm do nền kinh tế sản xuất ra, do vậy nó là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
        Đặc điểm: Chức năng kinh tế của gia đình Việt Nam truyền thống có những đặc điểm sau:
+ Gia đình Việt Nam truyền thống là một đơn vị kinh tế độc lập, tự sản tự tiêu
+ Người chồng, người cha trong gia đình đóng vai trò là trụ cột kinh tế, họ đồng thời nắm toàn bộ quyền kiểm soát về kinh tế gia đình
+ Sự trì trệ, máy móc và bảo thủ trong hoạt động kinh tế gia đình luôn biểu hiện cùng cơ chế tổ chức và quản lý mang tính gia trưởng
- Chức năng sinh sản: Chức năng này vốn dĩ nó tồn tại một cách tự nhiên, vì xã hội chỉ tồn tại được khi hành vi sinh sản vẫn còn được duy trì. Chức năng này được coi là một giá trị của gia đình mà từ cổ chí kim loài người phải thừa nhận. Bản thân F. Engel, một nhà duy vật vĩ đại cũng cho rằng theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử suy cho cùng là... sự tái sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Chức năng sinh sản của gia đình là một giá trị trường tồn.
Đặc điểm: Chức năng tái sản xuất xã hội của gia đình Việt Nam truyền thống có đặc điểm là
+  Đông con là một giá trị cơ bản của gia đình và xã hội truyền thống, Từ xa xưa, con người Việt Nam đã đề cao việc duy trì nòi giống gia đình. “đông con hơn nhiều của”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “con gái là con người ta”. Con cái là thứ đáng giá hơn hết trong gia đình..
- Chức năng thỏa mãn tình cảm giữa các thành viên trong gia đình (chức năng tình cảm):
Thoả mãn tình cảm tinh thần và thể xác giữa hai vợ chồng; thỏa mãn tình cảm giữa cha mẹ và con cái (sống vì nhau), tình cảm giữa anh chị em trong gia đình (thương yêu, đùm bọc lẫn nhau). Phần đông mọi người trong xã hội đều coi gia đình là “tổ ấm”, nơi người ta đi về, nơi người ta chia sẻ với nhau về niềm vui, nỗi buồn, tức là nơi tình cảm của con người được thỏa mãn.
Đặc điểm: Chức năng tình cảm, tâm lí của gia đình Việt Nam truyền thống có đặc điểm:
+ Đề cao vai trò của các giá trị đạo đức và các giá trị đó chi phối hầu hết các mối quan hệ của gia đình.
+  Sự thương yêu, chăm sóc con cái hết lòng của cha mẹ đối với con cái, sự hiếu thảo của con cái với cha mẹ; sự gắn bó và yêu thương nhau giữa anh chị em, sự thuỷ chung, hoà thuận trong tình nghĩa vợ chồng
+ Những tình cảm đối với gia đình cũng là cội nguồn của tình làng xóm quê hương và xa hơn là tình yêu đất nước: "cáo chết ba năm quay đầu về núi". Gia đình là nơi sẻ chia, cảm nhận, của mỗi thành viên trong gia đình. Là nơi dừng chân sau một ngày làm việc mệt mỏi. Là sự gắn kết yêu thương của con người.
- Chức năng xã hội hóa – giáo dục:
+ Chức năng giáo dục: Theo lý thuyết gia đình là “tế bào của  xã hội, là yếu tố đầu tiên và cơ bản của quá trình giáo dục”. Gia đình là nơi đại bộ phận trẻ em được người lớn thường xuyên giáo dục: “Dạy con từ thưở còn thơ”. Trong môi trường gia đình, trẻ bắt đầu hình thành nhân cách, lối sống và đặc biệt là nhân sinh quan. Các bậc phụ huynh, nhất là các bà, các mẹ có ảnh hưởng rất lớn tới tương lai của đứa trẻ: Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
+ Chức năng xã hội hoá: Có thể coi gia đình là một xã hội thu nhỏ. Mỗi thành viên là một tính cách. Việc va chạm các tính cách khác nhau trong một gia đình là môi trường đầu tiên để trẻ em học cách hoà hợp với cộng đồng.
Đặc điểm: Chức năng xã hội hóa - giáo dục của gia đình truyền thống Việt Nam có đặc điểm sau:
+ Nhắc đến nhiều nhất trong nội dung giáo dục của gia đình là đạo đức và cách sống làm người
+ Sự đánh giá của xã hội với gia đình luôn lấy tiêu chí nhìn vào con cái
+ Mục đích giáo dục trong gia đình truyền thống khác nhau theo loại hình gia đình, những nhà nghèo khó vẫn cố gắng cho con học đến nơi đến chốn
+ Người cha thường giáo dục bằng sự nghiêm khắc, người mẹ thường giáo dục bằng sự nhân từ, "thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi"
"con hư tại mẹ, cháu hư tại bà"
Có thể tóm lại rằng, gia đình có 2 chức năng cơ bản nhất, là 2 sứ mệnh lịch sử vĩnh hằng được xã hội trao cho, đó là: sứ mệnh tái tạo ra một thế hệ mới (bao gồm chức năng sinh sản và chức năng và giáo dục đào tạo của gia đình); sứ mệnh nuôi dưỡng, chăm sóc các thành viên trong gia đình (bao gồm 2 chức năng: chức năng kinh tế,và chức năng thoả mãn những nhu cầu tâm - sinh lý tình cảm).  Hai sứ mệnh cũng là 2 chức năng cơ bản này chi phối toàn bộ các chức năng khác của gia đình như: chức năng giao tiếp tinh thần; Chức năng tổ chức thời gian rỗi; Chức năng thu nhận các phương tiện; Chức năng giáo dục bảo trợ; Chức năng đại diện; Chức năng nghỉ ngơi, giải trí...
3.   NHẬN XÉT:
Gia đình là một thực thể xã hội. Sự tồn tại của nó được xã hội thừa nhận. Như vậy bản thân gia đình đã mang một giá trị xã hội. Chính các chức năng của gia đình mới đem lại cho nó một giá trị đích thực. Cho đến nay các chức năng cơ bản của gia đình vẫn còn giữ nguyên giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia đình tức là đã thừa nhận gia đình là một giá trị trong xã hội
Nhiều người cho rằng, các chức năng gia đình đang chuyển từ môi trường nhỏ sang môi trường lớn hơn. Cũng nhiều nhà nghiên cứu về gia đình đã phải thừa nhận rằng: khi xã hội có những thay đổi thì gia đình luôn có sự thích nghi, có thể là chậm hơn, thể hiện sự thủ cựu và tân tiến của nó
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC PHÁP LUẬT
1.   XÃ HỘI HỌC LÀ GÌ?
Xã hội học gia đình là một nhánh của xã hội học chuyên biệt; xã hội học gia đình là bộ môn khoa học nghiên cứu sự sinh ra, phát triển và sự hoạt động của gia đình như là một trong những hạt nhân đầu tiên của xã hội trong các điều kiện văn hóa, kinh tế - xã hội cụ thể, cũng như nghiên cứu về cơ cấu của chức năng gia đình trong xã hội; là một bộ môn xã hội học nghiên cứu về gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội và một nhóm nhỏ. (http://vi.wikipedia.org)
2.   ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như tâm lí học, dân tộc học, dân só học, luật học.... Tuy nhiên khi nghiên cứu về gia đình thì các ngành khoa học có tác động tới đối tượng chung này ở những khía cạnh khác nhau, có sự tác động bổ sung và làm phong phú cho nhau. Trong đó, xã hội học cũng là một trong những ngành khoa học nghiên cứu về gia đình. Xã hội học gia đình chú ý đến tất cả các sự kiện hiện tượng, các vấn đề xảy ra xung quanh đời sống gia đình hiện đại, nghiên cứu những sự kiện hiện đại được lặp đi lặp lại mang tính quy luật có khuynh hướng. Đó là những sự kiện hiện tượng, những vấn đề mang tính xã hội. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của xã hội học gia đình chính là những vấn đề xã hội của gia đình hiện đại.
Xã hội học nghiên cứu gia đình những hiện tượng xã hội trên hai phương diện:
Một là, các mối quan hệ bên trong gia đình. Bao gồm quan hệ giữa các thành viên và quan hệ giới tính.
Hai là, các mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa gia đình và xã hội. Bao gồm có quan hệ gia đình với họ hàng, làng xã, các tổ chức sản xuất, các tổ chức chính trị và các tổ chức văn hóa....
3.   Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC PHÁP LUẬT.
Nghiên cứu xã hội học gia đình không những có ý nghĩa đối với việc xây dụng pháp luật mà còn có vai trò lớn trong việc thực hiện pháp luật trong thực tế.
a)  ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
Xã hội học gia đình là môn koa học nghiên cứu về những sự kiện mang tính chất xã hội của gia đình như mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ giữa gia đình với xã hôi.... đó cũng là những đối tượng nghiên cứu của ngành luật học. Dựa trên những mối quan hệ đó, pháp luật đưa ra những quy phạm điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ nêu trên, đưa ra quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh, chị em trong gia đình, giữa vợ và chồng...
Kinh tế của gia đình là một trong những nguồn quan trọng để pháp luật điều chỉnh. Ngay trong thời kì đất nước còn chiến tranh, việc nghiên cứu xã hội học gia đình có vai quan trọng trong những chính sách pháp luật của nhà nước ta: Chiến tranh làm cho cơ cấu và quy mô gia đình thay đổi, hầu hết nam nữ thanh niên ra chiến trường đánh giặc bảo vệ tổ quốc. Trước thực trạng đó, chính sách kinh tế của Đảng chủ trương nền kinh tế bao cấp, làm ăn tập thể, các gia đình hình thành nên các hợp tác xã....ngoài mục đích tạo ra hậu phương vững chắc cho tiền tuyến thì còn nhằm làm cho các chiến sỹ ngoài mặt trận yên tâm chiến đấu. Không phải lo lắng về cuộc sống gia đình ở quê..
Sau khi chiến tranh kết thúc, vai trò hậu phương của gia đình không còn quan trọng như xưa, nhiêm vụ quan trọng của đất nước không phải là chống ngoại xâm mà là phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, cơ chế bao cấp không còn phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Kinh tế gia đình ngày càng có vai trò quan trọng. Vì vậy, Nhà nước ta chủ động đưa ra những chính sách nhằm phát triển kinh tế cá thể, chính sách khoán 10, khoán 100... được áp dụng triệt để. Như vậy, dựa vào chức năng của gia đình trong những điều kiên cụ thể mà pháp luật đưa ra những chính sách phù hợp nhất.
Chức năng giáo dục trong gia đình được xã hội bảo trợ và được pháp luật thừ nhận. Trên cơ sở điều kiện của các gia đình, các chính sách về giáo dục đối với con em của các hội gia đình là khác nhau. Ví dụ: về các chính sách đóng học phí đối với gia đình chính sách, hộ nghèo, dân tộc miền núi sẽ khác so với con em của gia đình thành thị, gia đình buôn bán.... ngoài ra còn liên quan đến những chính sách về khám chữa bệnh, chế độ nhà trẻ, ưu tiên việc làm...
b)   ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT:
Gia đình là hạt nhân của xã hội, để xã hội phát triển thì gia đình phải giàu mạnh và văn minh. Kinh tế có tác động quan trọng tới lợi ích và do đó tác động đến tư tưởng, thái độ, niềm tin của nhân dân đén pháp luật. Kinh tế là nền tảng của sự nhận thức hiểu biết pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Cụ thể: khi kinh tế phát triển thì con người có điều kiện mua sắm các điều kiện nghe, nhìn  có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu thông tin pháp luật đa dạng và cập nhật. các chương trình phổ biến giáo dục sẽ dễ dàng đến với người dân, đến với mỗi gia đình. Từ đó nhu cầu tìm hiểu pháp luật trở thành nhu cầu tự giác, thường trực trong suy nghĩ và hành động của con người.
Vai trò giáo dục gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành thói quen thực hiện pháp luật trong mỗi con người. “Dạy con từ thuở lên ba” Trẻ em là những mần non tương lai của đất nước. Việc dạy dỗ con trẻ phụ thuộc nhiều vào gia đình. Đây cũng là yếu tố thúc đẩy việc tự giác thực hiên pháp luật trong thực tế nếu gia đình có phương pháp dạy tốt.
 Ngoài ra, văn hóa - lối sống cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật. những hành vi, cách sử sự của cá nhân đối với cá nhân trong gia đình, cá nhân với xã hội, giữa gia dình với xã hội... là những thành phần hình thành nên các phong tục tập quán, lối sống, đạo đức của con người, xã hội. Đó là nguồn để xây dựng pháp luật mà cũng là những hành vi trực tiếp thực hiện pháp luật hoặc là vi phạm pháp luật.

KẾT LUẬN
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội.
Gia đình là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, nó biểu hiện mối quan hệ giữa người với người. Đó là tồn tại khách quan không thể xóa bỏ được. Vấn đề vô cùng quan trọng là lịch sử phát triển của xã hội của gia đình có liên quan đến nhiều vấn đề của xã hội và các mối quan hệ trong xã hội cho nên cần nhận thức đầy đủ mối quan hệ của gia đình vì đó là chỗ dựa tinh thần cho con người (tr.331.tập bài giảng Xã hội học gia đình, TS.Ngọ Văn Nhân.

Chi tiết...

TÁC DỤNG CỦA CHUẨN MỰC XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT



Con người không thể sống độc lập, mà phải cùng sống, phải có mối liên hệ với nhau để tạo thành xã hội, tồn tại và phát triển như một thực thể của xã hội. Vì thế liên hệ xã hội là nền tảng cuộc sống của con người. Trong cuộc sống xã hội, con người luôn thực hiện các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, lợi ích nhất định, dù được tự do thực hiện những hoạt động theo ý muốn cá nhân nhưng con người vẫn phải đặt mình trong các nhóm xã hội hoặc xã hội nói chung, tuân theo những quy tắc, yêu cầu đòi hỏi của những người xung quanh để định hướng hành động của mình. Chính vì thế mà trong xã hội xuất hiện nhu cầu phải có những phương tiện xã hội nhất định để điều chỉnh hành vi của con người. Từ đó, trong xã hội hình thành và xuất hiện một hệ thống các chuẩn mực xã hội (social norm, standard). Vậy, chuẩn mực xã hội là gì? Và nó có tác dụng như thế nào đến đời sống xã hội, pháp luật? Để làm rõ hơn vấn đề này, em xin tìm hiểu vấn đề:
Phân tích khái niệm chuẩn mực xã hội, các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội? Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với đời sống xã hội và pháp luật?






Chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong các hành vi xã hội của mỗi con người, nhằm đảm bảo sự ổn định, giữ gìn trật tự, kỉ cương của xã hội([1]).


Nội dung khái niệm chuẩn mực xã hội đề cập đến ba vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, do chính các  thành viên của xã hội đặt ra nhằm áp đặt cho hành vi xã hội của mỗi người. Điều đó nói lên nguồn gốc xã hội của chuẩn mực xã hội - hình thành từ chính nhu cầu điều tiết điều chỉnh các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp của đời sống xã hội. Đối với các thành viên xã hội, chuẩn mực xã hội được coi là một giá trị chi phối rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến.

Thứ hai, chuẩn mực xã hôi không phải là một cái gì đó chung chung, trừu tượng, khó nhận biết, mà  nó luôn được xác định một cách cụ thể, rõ ràng ở mức độ ít hay nhiều sự chính xác về tính chất , mức độ, phạm vi và giới hạn của những khía cạnh, chỉ báo liện quan đến hành vi xã hội của mỗi người([2]). Bao gồm cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện.    

“Cái có thể” là khái niệm dùng để chỉ khả năng thực hiện hay không thực hiện một hành vi xã hội của ác nhân con người khi tham gia hoặc ở trong một tình huống, sự khiện xã hội, quan hệ xã hội nhất định. Chẳng hạn một người phát hiện một người khác có nguy cơ chết đuối nếu không được cứu kịp thời. Trong tình huống này, người phát hiện nhảy xuống hay không nhảy xuống phụ thuộc vào việc anh ta có biết bơi hay không biết bơi cùng với cơ chế thúc đẩy hành vi hoàn toàn trông chờ vào sự tự nguyện, tự giác của người đó.

“Cái được phép” dùng để chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà các cá nhân đã và đang được phép thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, phù hợp với các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của chuẩn mực xã hội khi họ tham gia vào các sự kiện xã hội, quan hệ xã hội.

“Cái không được phép” là khái niệm  chỉ tát cả những hành vi, hoạt đọn mà chuẩn mực xã hội cấm các cá nhân thực hiện, vì chúng gây ra hoặc có thể gây ra trạng thái nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quan hệ xã hội.Thông thường cái không được phép được nêu và quy định trong các chuẩn mực pháp luật.

“Cái bắt buộc phải thực hiện” là khái niệm chỉ tất cả các hành vi, hoạt động mà chuẩn mực xã hội buộc các cá nhân phải thực hiện, dù muốn hay không muốn, khi cá nhân tham gia hay đang ở trong một tình huống, sự kiện xã hội, quan hệ xã hội nhất định. Khía cạnh này của hành vi thường được quy định trong pháp luật hình sự.

Thứ ba, với hệ thong các quy tắc, yêu cầu được đưa ra nhằm định hướng và điều chỉnh hành vi xã hội của con người, chuẩn mực xã hội hướng tới thực hiện các chức năng xã hội, giảm bớt tính hỗn tạp trong các ý kiến, quan điểm đánh giá hành vi, gạt đi những bất đồng mâu thuẫn trong các tranh luận, tránh được những xung đột không cần thiết, tạo cơ sở cho quá trình hòa giải, thương lượng giữa các cá nhân để đi đến chấp nhận “mẫu số chung” nhỏ nhất của mọi hành vi. Thực hiện các chức năng đó chuẩn mực xã hội góp phần tạo nên sự đồng thuận, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn và bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội([3]).

II. Các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội


Các chuẩn mực xã hội có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã hội, được hình thành, nảy sinh từ chính nhu cầu thiết yếu của xã hội. Chúng được tạo thành từ ý chí chung của các thành viên trong xã hội, các nhóm xã hội, các giai cấp nhằm củng cố, bảo vệ hay phục vụ nhu cầu, lợi ích của họ. Nội dung của các chuẩn mực xã hội phản ánh nội dung của các quan hệ xã hội, chứa đựng các quy tắc, yêu cầu về mặt xã hội đối với hành vi của con người. Chính vì vậy, sự xuất hiện , tồn tại và phát huy vai trò, hiệu lực của các chuẩn mực xã hội trong đời sống xã hội ngày càng được coi là có tính khách quan và mang tính tất yếu xã hội. Bên cạnh đó, các chuẩn mực xã hội còn mang tính lợi ích và tính bắt buộc thực hiện, nghĩa là mọi thành viên của cộng đồng xã hội, dù muốn hay không muốn, đều phải tuân theo các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội. Sự tuân thủ và thực hiện các nguyên tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội trong hành vi xã hội của mỗi người được coi là trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của người đó. Nếu đi lệch ra khỏi quỹ đạo chung này, hành vi của cá nhân đó sẽ là bất bình thường, sai lệch, là tội ác…Khi đó, cá nhân này sẽ bị xã hội phê phán, lên án hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt theo tính chất, mức độ của hành vi.


Định hướng là khái niệm chủ yếu sử dụng trong các lĩnh vực hoạt động, trong đó, có hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong hoạt động quản lý, định hướng là hoạt động có căn cứ, có mục đích của chủ thể quản lý, hướng sự chú ý của đối tượng tới nội dung, những vấn đè trọng tâm của sự việc, sự kiện hay hiện tượng xã hội xảy ra trong dời sống xã hội theo mong muốn của chủ thể.  Sự định hướng của chủ thể với một vấn đề xã hội luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, nó giúp cho chủ thể quản lý, nắm bắt được tình hình của một vấn đề, một sự kiện xã hội; chủ động can thiệp, hướng dẫn quá trình vận động, phát triển của vấn đề, sự kiện xã hội sao cho phù hợp với lợi ích của xã hội nói chung, của công tác quản lý nói riêng; tránh được những sự cố đáng tiếc xảy ra. Chuẩn mực xã hội được định hướng theo không gian, thời gian và đối tượng chịu sự tác động của chuẩn mực xã hội.

Theo không gian, các chuẩn mực xã hội được xác định có thể chỉ có giá trị, hiệu lực trong một phạm vi không gian xã hội, một khu vực địa lý nhất định; vượt ra ngoài phạm vi không gian chúng sẽ không còn vai trò, tác dụng nữa.Vì thế, cần định hướng chuẩn mực xã hội sao cho phù hợp với các lợi ích chung của xã hội, với các đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của từng khu vực địa lý nhất định.

Theo thời gian, vai trò của các chuẩn mực xã hội có thể biểu hiện khác nhau qua từng giai đoạn, thời kỳ phát triển của xã hội. Sự định hướng chuẩn mực xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội và bám sát thực tiễn xã hội trong tiến trình phát triển của xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết.

Theo đối tượng, có nhiều loại chuẩn mực xã hội phản ánh lợi ích vật chất, tinh thần của các đối tượng xã hội  khác nhau. Sự định hướng chuẩn mực xã hội theo đối tượng đòi hỏi phải chú ý đến lợi ích của các cộng đồng người, các nhóm xã hội khác nhau([4]).


Các chuẩn mực xã hôi không mang tính bất biến mà luôn ở trạng thái động. Chúng thường xuyên vận động, biến đổi và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Đối với mỗi  chế độ xã hội, mỗi nhà nước, mỗi nhóm xã hội đều có hệ thống các chuẩn mực xã hội riêng tùy thuộc vào đặc điểm , tính chất của các quan hệ xã hội có tính phổ biến, điển hình trong xã hội đó ở những giai đoạn lịch sử khác nhau.

Chuẩn mực xã hội không phải bao giờ cũng có ý nghĩa tuyệt đối, vì trong xã hội, các cộng đồng người thường có các cá nhân không theo chuẩn mực. Có những chuẩn mực xã hội được phổ biến, tuân thủ ở một giai cấp, dân tộc này, nhưng lại không thừa nhận ở một giai cấp, dân tộc khác. Ví dụ: mỗi cộng đồng dân tộc có những chuẩn mực phong tục tập quán riêng của mình xuất phát từ những đặc trưng về lịch sử, địa lý, văn hóa và lối sống. Cho nên phong tục tập quán của dân tộc này có thể không được thừa nhận ở một dân tộc khác vì nó không phù hợp với truyền thống văn hóa, lối sống của họ.



Các chuẩn mực xã hội được hình thành và xuất phát từ chính những nhu cầu của hệ thống  các quan hệ xã hội trong xã hội.Tùy thuộc vào nội dung, tính chất của từng loại quan hệ xã hội, các chuẩn mực xã hội quy định ch các thành viên của nó những cái cần phải làm, cái được phép, cái có thể, cái bị ngăn cấm trong các hành vi xã hội của họ. Qua đó, các chuẩn mực xã hội thực hiện chức năng hợp nhất, tập trung ủng hộ các quá trình hoạt động xã hội như một hệ thống các tương tác xã hội giữa các cá nhân và các nhóm xã hội, nghĩa là quá trình hành động và hành động đáp lạicủa một chủ thể này với một chủ thể khác. Các chuẩn mực xã hội góp phần điều tiết, điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo khuôn mẫu cho hành vi xã hội của con người, duy trì sự ổn định, hài hòa trong xã hội, bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.

Chuẩn mực xã hội là yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động quản lý các mặt, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Chúng tham gia và phát huy tác dụng trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Dù là chuẩn mực xã hội thành văn hay bất thành văn, dù là chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực đạo đức hay chuẩn mực thẩm mĩ, chúng đều là phương tiện định hướng, điều chỉnh các hành vi của cá nhân và các nhóm xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định; đồng thời, là phương tiện kiểm tra xã hội đối với các hành vi của họ. Nhờ có các chuẩn mực xã hội mà các cá nhân luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểm nghiệm trước khi thực hiện một hành vi xã hội nào đó, xem hành vi đó đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp với các chuẩn mực xã hội, nếu thực hiện thì có bị xã hội lên án hoặc trừng phạt không? Qua đó, chuẩn mực xã hội góp phần  ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi sai trái, vi phạm pháp luật và tội phạm.

Các chuẩn mực xã hội củng cố các hành vi, thể hiện những mối liên hệ xã hội điển hình, hành vi tiêu biểu cho tất cả các thành viên trong xã hội, cho đa số đại biểu của giai cấp hay một nhóm xã hội nhất định, được họ tán thành và thực hiện. Với ý nghĩa đó, nhiều chuẩn mực xã hội được coi là những giá trị xã hội, chi phối rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến, như các giá trị pháp luật, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ…

Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường cùng với quá trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề đang đặt ra, trong đó có vấn đề nhận thức, hiểu biết, tôn trọng và thực hiện các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội nói chung,  chuẩn mực pháp luật nói riêng. Tình trạng gia tăng các vụ việc vi phạm pháp luật, diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, sự lãng quên các giá trị truyền thống, sự thờ ơ, lãnh đạm trong giao tiếp xã hội… đang là những vấn đề hết sức đáng lo ngại. Ý thức pháp luật của một bộ phận đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, của tầng lớp nhân dân còn nhiều hạn chế chưa theo kịp và chưa được nâng lên tương xứng với sự đổi mới hệ thống pháp luật. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, một số mặt trái của nó cũng đang được bộc lộ, như chủ nghĩa thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tha hóa về đạo đức, tệ nạn xã hội; một bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái hóa, biến chất trước những cám dỗ về lợi ích vật chất…Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhận định: “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận  không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến”([5]). Đến đaị hội X Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạ xã hội có chiều hướng tăng”([6]).  Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên đây là do cán bộ và người dân thiếu hiểu biết, chưa tôn trọng và thực hiện các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội nói chung, chuẩn mực pháp luật nói riêng. Trong điều kiện như vậy, việc nghiên cứu, củng cố và phát huy vai trò, tác dụng của các loại chuẩn mực xã hội càng có ý nghĩa quan trọng và thiết thực([7]).


Trong đời sống xã hội có sự hiện diện của nhiều chuẩn mực xã hội khác nhau với tính chất, mức độ phổ biến, phạm vi tác động, điều chỉnh và cơ chế thực hiện khác nhau. Các loại chuẩn mực xã hội có tính phổ biến hơn cả là chuẩn mực chính trị, chuẩn mực tôn giáo, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ.



Chuẩn mực chính trị phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp và lợi ích của mỗi giai cấp trong việc giành, bảo vệ và sử dụng chính quyền nhà nước. Chỉ có nhà nước mới là tổ chức chính trị có khả năng và điều kiện sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì vậy chuẩn mực chính trị phải thông qua pháp luật để thể hiện vai trò, tác dụng và hiệu lực của nó. Chuẩn mực chính trị thường thể hiện trong đường lối, chính sách của chính đảng cầm quyền và thường được ghi nhận trong Hiến pháp. Từ Hiến pháp mà các quy tắc chính trị được chế biến hóa thành pháp luật. Như vậy chuẩn mực chính trị là nguồn cơ bản góp phần xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật của một quốc gia.

Chuẩn mực chính trị trong mối quan hệ giữa các nhà nước với nhau thường thể hiện trong các quy tắc giao tiếp, ứng xử quốc tế; trong các hiệp ước, hiệp định được kí kết giữa các nhà nước với nhau hoặc trong các Công ước quốc tế. Như vậy, chuẩn mực chính trị là nguồn cơ bản và quan trọng để hình thành và phát triển hệ thống pháp luật quốc tế.


Trong lịch sử nhân loại, chuẩn mực tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối nhà nước và pháp luật. Trong quá trình các tôn giáo xâm nhập, truyền bá vào các quốc gia khác nhau có thể gây nên những xung đột giữa tôn giáo và chính quyền sở tại do những khác biệt về giáo lý tôn giáo và hệ thống pháp luật của các nước. Cho nên về nguyên tắc, tôn giáo và nhà nước phải độc lập với nhau.
Tại các quốc gia mà chuẩn mực tôn giáo bị hiểu và vận dụng một cách cực đoan thì ngay cả chính trị và pháp luật cũng bị đồng nhất với chuẩn mực tôn giáo.

Một số chuẩn mực tôn giáo phù hợp với thuần phong, mĩ tục, với các giá trị đạo đước, pháp luật hiện hành có tác dụng tích cực đối với thực hiện pháp luật của các cá nhân.

Ở nước ta hiện nay, nghiên cứu chuẩn mực tôn giáo và các tín ngưỡng cho phép nắm bắt được nguồn gốc xuất hiện, nguyên nhân tồn tại và tác động của tôn giáo, tín ngưỡng tới đời sống tâm linh của con người. Đó cũng là cơ sở nhận thức về lý luận và thực tiễn để Đảng và nhà nước ta xác định và thừa nhận công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm quyền  tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền đó được ghi nhận trong Hiến pháp([8]) và được pháp luật bảo vệ. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: “ Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống tốt đời đẹp đạo.Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo vệ”([9]).

Bên cạnh đó nhà nước ta cũng cương quyết trừng trị nghiêm khắc các hành vi đội lốt tôn giáo để thực hiện các âm mưu chính trị đen tối , gây rối, bạo loạn, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân…([10])

Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp, tầng lớp khác nhau đều có những quan niệm đạo đức của riêng mình.
Vì vậy, các quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội cũng có nhiều loại và chúng tác động qua lại lẫn nhau. Giai cấp thống trị vì nắm quyền lực trong tay, nên có điều kiện và ưu thế để nâng các quan niệm đạo đức của mình thành pháp luật. Trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật, các nhà làm luật xây dựng nên pháp luật như thể hiện ý chí chung của mọi tầng lớp trong xã hội.

Chuẩn mực đạo đức là chuẩn mực tinh thần để thực hiện các quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân trong xã hội thực hiện một hành vi pháp luật hợp pháp không phải vì họ hiểu các quy định của pháp luật mà hoàn toàn xuất phát từ các quy tắc đạo đức.Nhiều quy tắc đạo đức được  nhà nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp luật. Khi xây dựng và ban hành pháp luật, nhà nước không thể không tính tới các quy tắc của chuẩn mực đạo đức. Ví dụ: “ Tội không tố giác tội phạm” ( điều 314 BLHS năm 1999) nếu tội phạm đó không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thì nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông bà, cha mẹ, con cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội vì không ai muốn người thân của mình dính lứu vào vòng tù tội.


Chuẩn mực phong tục, tập quán và pháp luật có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nhiều phong tục, tập quán trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ rất bền chặt trong nhân dân và có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Khi nhà nước xuất hiện, nhà nước đã tìm cách vận dụng những phong tục tập quán để phục vụ cho lợi ích của mình, thay đổi nội dung của chúng cho phù hợp, thừa nhận và nâng cấp chúng thành các quy phạm pháp luật hoặc coi chúng là tập quán pháp. Như vậy, chuẩn mực phong tục, tập quán là nguồn quan trọng để hình thành pháp luật.

Đối với các phong tục, tập quán có giá trị truyền thống, mang tính nhân văn sâu sắc,… có tác động tích cực đối với cộng đồng xã hội thì pháp luật cần thừa nhận, củng cố và phát huy([11]).

Còn những phong tục tập quán đã lạc hậu, lỗi thời đã trở thành hủ tục thì bên cạnh việc tuyên truyền để nhân dân nhận thức được và tự giác loại bỏ thì nhà nước cần phải dùng đến sức mạnh cưỡng chế của pháp luật nhằm loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã hội.


Chuẩn mực thẩm mỹ tác động trong hầu hết các lĩnh vực quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ pháp luật, điều chỉnh hành vi thẩm mỹ của con người phù hợp với các quan điểm, quan niệm trong xã hội về cái đẹp, cái xấu, cái cao cả… Chuẩn mực thẩm mỹ đòi hỏi các bộ luật, đạo luật được ban hành phải phù hợp với các giá trị, chuẩn mực thẩm mỹ đang phổ biến trong xã hội thì mới dễ dàng được nhân dân tuân thủ và thực hiện. Khi đó, bản thân các bộ luật đạo luật cũng mang các giá trị thẩm mỹ, là một “tác phẩm nghệ thuật”. Nhiều quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực thẩm mỹ, do phù hợp và đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của nhà nước về tổ chức, quản lý xã hội, đã được nhà nước thừa nhận và vận dụng trong các đạo luật. Các văn bản luật của nhà nước điều chỉnh các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, trật tự công cộng … là những minh chứng cho mối liên hệ này. Như vậy, chuẩn mực thẩm mỹ là cơ sở lý luận và thực tiễn để nhà nước xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực xây dựng, quy hoạch đô thị, văn hóa – nghệ thuật, quảng cáo, du lịch, bảo tồn di sản văn hóa, thời trang…

Chuẩn mực thẩm mỹ có tác dụng định hướng, điều chỉnh hành vi pháp luật của các cá nhân phù hợp với các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực thẩm mỹ. Trong nhiều trường hợp vì những lý do nhất định, các cá nhân không biết đến quy định của pháp luật, nhưng do các quy tắc pháp luật phù hợp với các chuẩn mực thẩm mỹ, các cá nhân thực hiện hành vi pháp luật dựa trên các quan điểm, quan niệm thẩm mỹ của họ([12]).


Trong xã hội ngày nay, chuẩn mực xã hội đóng vai trò không hề nhỏ trong đời sống của các cộng đồng người, mỗi địa phương, mỗi dân tộc giúp xây dựng và phát triển một xã hội lành mạnh, tiến bộ hơn. Bên cạnh đó chuẩn mực xã hội này, còn có vai trò rất lớn đối với việc ban hành và thực thi pháp luật. Vì vậy, phải phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các chuẩn mực xã hội để chuẩn mực xã hội phù hợp hơn với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Có như vậy thì đất nước mới ngày một phát triển bền vững.



1. Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng Xã hội học, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2010.
2. TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học Tội phạm, Nxb. Tư pháp
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ IX của Đảng, 2001.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ X của Đảng, 2006.




(1) Xem Tập bài giảng Xã hội học, trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân 2010, tr. 167
(2) Xã  hội học pháp luật, TS. Ngọ Văn Nhân, Nhà xuất bản Tư pháp, tr 170
([3]) Xã hội học pháp luật, TS. Ngọ Văn Nhân, Nxb. Tư pháp, Tr175
([4]) Xem Xã hội học pháp luật, TS. Ngọ Văn Nhân, Nhà xuất bản Tư pháp, tr 176, 177
([5]) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính Trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 176
([6]) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,  Nxb. Chính Trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 63
([7]) Xem Xã hội học pháp luật, TS. Ngọ Văn Nhân, Nxb. Tư pháp, tr 180, 181
([8]) Xem Điều 24 Hiến pháp Việt Nam năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
([9])  Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc ần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 122- 123
([10]) Xem Xã hội học pháp luật, TS. Ngọ Văn Nhân, Nxb Tư pháp, tr 194-196
([11]) Xem Xã hội học pháp luật, Ts Ngọ Văn Nhân, Nxb Tư pháp, tr 197
([12]) Xem Xã hội học pháp luật , TS Ngọ Văn Nhân, Nxb Tư pháp , tr 197 - 210
Chi tiết...